1. Mở đầu
Chúng ta đang sống trong kỉ nguyên mà tiếng Anh đang trở thành ngôn ngữ
giao tiếp toàn cầu. Không dừng lại ở đó, từ khi Việt Nam hội nhập quốc tế, tiếng
Anh được xem là một trong những yếu tố quyết định thành công trong nghề
nghiệp của các cá nhân. Tuy nhiên, có một thực tế đáng buồn là 86.6% học sinh
phổ thông sau khi tốt nghiệp không thể giao tiếp bằng tiếng Anh, dù chỉ là nói
những câu rất đơn giản. Trong suốt một quãng thời gian dài, các trường phổ
thông chỉ dạy cho học sinh đọc, viết và ngữ pháp tiếng Anh chứ không chú trọng
đến môn nói. Việc đổi mới sách giáo khoa từ năm 2006 đã lần đầu tiên đưa môn
nói vào việc dạy và học tiếng Anh ở trường phổ thông. Tuy nhiên, sau 5 năm
thực hiện đổi mới, hiệu quả của việc giảng dạy môn nói tiếng Anh vẫn chưa đạt
được kết quả như mong muốn. Điều này khiến chúng tôi băn khoăn nghĩ đến việc
nghiên cứu ứng dụng một phương pháp thật hiệu quả để dạy môn nói tiếng Anh
trong các trường Trung học phổ thông. Phương pháp chúng tôi đã lựa chọn là
phương pháp “Dạy học bằng bài tập”. Đáng tiếc là chữ “bài tập” không thể
truyền tải hết được ý nghĩa của phương pháp này vì khi nhắc đến “bài tập”, hầu
hết chúng ta đều nghĩ đến những bài tập thông thường của tiếng Anh như bài tập
ngữ pháp hay bài tập của môn đọc. Chữ “bài tập” trong phương pháp dạy môn
nói này là dạng bài tập dựa trên những tình huống thực tế để tăng cường khả
năng giao tiếp cho học sinh.
7 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 278 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Việc ứng dụng phương pháp “Dạy học lấy bài tập làm trung tâm” (Task-Based language teaching) trong việc giảng dạy kĩ năng nói của bộ môn tiếng Anh cho học sinh Lớp 11 ở các trường phổ thông công lập trong thành phố Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Kỷ yếu Hội nghị sinh viên NCKH
176
VIỆC ỨNG DỤNG PHƯƠNG PHÁP “DẠY HỌC LẤY BÀI TẬP
LÀM TRUNG TÂM” (TASK-BASED LANGUAGE TEACHING)
TRONG VIỆC GIẢNG DẠY KĨ NĂNG NÓI CỦA BỘ MÔN
TIẾNG ANH CHO HỌC SINH LỚP 11 Ở CÁC TRƯỜNG PHỔ
THÔNG CÔNG LẬP TRONG THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bùi Nguyên Khánh, Đỗ Huỳnh Quân Ngọc
(Sinh viên năm 4, Khoa Tiếng Anh)
GVHD: ThS. Nguyễn Tuấn Phúc
1. Mở đầu
Chúng ta đang sống trong kỉ nguyên mà tiếng Anh đang trở thành ngôn ngữ
giao tiếp toàn cầu. Không dừng lại ở đó, từ khi Việt Nam hội nhập quốc tế, tiếng
Anh được xem là một trong những yếu tố quyết định thành công trong nghề
nghiệp của các cá nhân. Tuy nhiên, có một thực tế đáng buồn là 86.6% học sinh
phổ thông sau khi tốt nghiệp không thể giao tiếp bằng tiếng Anh, dù chỉ là nói
những câu rất đơn giản. Trong suốt một quãng thời gian dài, các trường phổ
thông chỉ dạy cho học sinh đọc, viết và ngữ pháp tiếng Anh chứ không chú trọng
đến môn nói. Việc đổi mới sách giáo khoa từ năm 2006 đã lần đầu tiên đưa môn
nói vào việc dạy và học tiếng Anh ở trường phổ thông. Tuy nhiên, sau 5 năm
thực hiện đổi mới, hiệu quả của việc giảng dạy môn nói tiếng Anh vẫn chưa đạt
được kết quả như mong muốn. Điều này khiến chúng tôi băn khoăn nghĩ đến việc
nghiên cứu ứng dụng một phương pháp thật hiệu quả để dạy môn nói tiếng Anh
trong các trường Trung học phổ thông. Phương pháp chúng tôi đã lựa chọn là
phương pháp “Dạy học bằng bài tập”. Đáng tiếc là chữ “bài tập” không thể
truyền tải hết được ý nghĩa của phương pháp này vì khi nhắc đến “bài tập”, hầu
hết chúng ta đều nghĩ đến những bài tập thông thường của tiếng Anh như bài tập
ngữ pháp hay bài tập của môn đọc. Chữ “bài tập” trong phương pháp dạy môn
nói này là dạng bài tập dựa trên những tình huống thực tế để tăng cường khả
năng giao tiếp cho học sinh.
2. Mục đích nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Chúng tôi tiến hành cuộc nghiên cứu này để xem tính hiệu quả của phương
pháp “Dạy học bằng bài tập” trong việc giảng dạy kĩ năng Nói của bộ môn Tiếng
Anh cho các em lớp 11 của các trường công lập ở Thành phố Hồ Chí Minh.
Ngoài ra, chúng tôi còn khảo sát sự thuận lợi, cũng như những khó khăn của
phương pháp “Dạy học bằng bài tập” nhằm tìm ra những hướng khắc phục giúp
Năm học 2009– 2010
177
hoàn thiện phương pháp này khi áp dụng ở trường Trung học phổ thông, giúp cải
thiện kĩ năng nói ở trường Trung học phổ thông.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Chúng tôi tiến hành khảo sát ở tại ba trường Trung học phổ thông:
- Bùi Thị Xuân, Hùng Vương: trường có chất lượng học sinh tốt ở Thành
phố Hồ Chí Minh.
- Lý Thường Kiệt: trường ở ngoại thành Thành phố Hồ Chí Minh, nơi học
sinh được xem là có chất lượng kém.
2.3. Đối tượng nghiên cứu
Học sinh lớp 11 của các trường Trung học phổ thông trong Thành phố Hồ
Chí Minh với nhiều cấp độ, và thuộc các bạn khác nhau được mô tả theo bảng
sau:
Bảng 1: Sự phân bố học sinh trong việc phát bảng khảo sát
Trường Lớp Ban Số HS
11A13 A 41 Bùi Thị Xuân
11A14 D 42
11A20 D 41 Hùng Vương
11A21 D 43
11A A 34 Lý Thường Kiệt
11B6 Cơ bản 48
2.4. Cách thức tiến hành cuộc nghiên cứu
Đầu tiên, bảng khảo sát được phát cho các em học sinh và giáo viên của ba
Trường Trung học phổ thông nêu trên, để lấy ý kiến của học sinh và giáo viên về
tình trạng giảng dạy kĩ năng Nói, cũng như những yếu tố để dẫn đến một tiết học
Nói thành công.
Sau đó, chúng tôi tiến hành hai cuộc phỏng vấn. Một cuộc phỏng vấn với
bốn học sinh ở Trường THPT Bùi Thị Xuân, và một cuộc phỏng vấn với cô Vũ
Trần Thế Mai, một giáo viên ở Trường THPT Bùi Thị Xuân, và với giảng viên
Tạ Thanh Huyền, khoa tiếng Anh đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.
Cuộc phỏng vấn giúp làm rõ những chi tiết ở bảng khảo sát, cũng như làm chắc
chắn thông tin ở bảng khảo sát.
Tiếp theo, chúng tôi thực hiện hai tiết dạy thực nghiệm được tiến hành vào
tuần thứ tư và tuần thứ năm của kỳ thực tập ở lớp 11A14 Trường THPT Bùi Thị
Xuân, một tiết chúng tôi sử dụng bài tập trong sách giáo khoa, một tiết chúng tôi
Kỷ yếu Hội nghị sinh viên NCKH
178
thiết kế lại bài tập theo hướng “Dạy học lấy bài tập làm trung tâm”. Trong suốt
hai tiết dạy thực nghiệm, chúng tôi ghi hình lại, quan sát xem biểu hiện của các
em, mức độ các em làm việc, cũng như những khó khăn của phương pháp “Dạy
học với bài tập làm trung tâm”. Sau mỗi tiết học, chúng tôi phát bảng khảo sát để
ghi nhận ý kiến của các em về mỗi tiết dạy.
3. Kết quả nghiên cứu – Ý nghĩa
3.1. Kết quả nghiên cứu khảo sát
3.1.1. So sánh khảo sát giữa giáo viên và học sinh
Nhìn chung, các giáo viên và học sinh có nhiều ý kiến tương đồng. Đa phần
giáo viên và học sinh đều đồng tình rằng các hoạt động, bài tập cho phần nói
tiếng Anh trong sách giáo khoa không thú vị, chủ đề khô khan, không phù hợp
với tâm lý lứa luổi học sinh, và những gì sách giáo khoa thiết kế cho môn nói ít
phù hợp với thực tế, khiến học sinh không thể áp dụng vào thực tiễn cuộc sống.
Về các hoạt động trong tiết nói, cả thầy cô đều đồng tình rằng các hoạt động
mang tính thực tiễn như phỏng vấn, giải quyết vấn đề, thảo luận, trao đổi thông
tin vẫn chưa được sử dụng nhiều.
Điều đáng mừng là các giáo viên và học sinh đều tỏ ra tán đồng phương
pháp mà người nghiên cứu đề nghị. Đa phần đều cho rằng việc dạy môn nói dựa
trên bài tập là tình huống thực tế sẽ khiến cho lớp học sinh động, học sinh hứng
thú hơn. Và quan trọng nhất là giáo viên và học sinh đều đồng ý rằng phương
pháp này sẽ giúp cho học sinh có nhiều cơ hội giao tiếp trong giờ học hơn, từ đó
tăng cường khả năng nói cho học sinh.
Về hạn chế của phương pháp này, giáo viên và học sinh cho rằng đó là việc
gây ra tiếng ồn trong lớp học. Do các hoạt động đều khiến học sinh phải giao tiếp
và nếu càng hứng thú thì học sinh lại càng làm ồn hơn. Điều này sẽ ảnh hưởng
đến các lớp xung quanh cũng như dẫn đến sự không hài lòng từ giám thị hoặc
Ban Giám hiệu nhà trường.
Đa phần đều không cho rằng cách sắp xếp bàn ghế ở trường Trung học phổ
thông có thể cản trở việc ứng dụng phương pháp này do học sinh có thể giao tiếp
với những bạn bè bên cạnh mình hoặc có thể ngồi đối diện nhau khi thảo luận
nhóm.
Tuy nhiên, có vài điểm mà ý kiến của giáo viên và học sinh không đồng
nhất. Trước hết, đó là việc giáo viên có chỉnh sửa, bổ sung những hoạt động
trong sách giáo khoa hay không. Mặc dù hầu hết giáo viên đều cho rằng mình có
Năm học 2009– 2010
179
làm điều này nhưng chỉ một nửa số học sinh khảo sát đồng ý. Việc chỉnh sửa
những hoạt động được thiết kế trong sách giáo khoa là rất cần thiết, vì như ý kiến
của học sinh và giáo viên vừa nêu thì hoạt động trong sách giáo khoa không thú
vị và thiếu tính thực tiễn. Ngoài ra, việc ứng dụng phương pháp mà chúng tôi
đang nghiên cứu yêu cầu các giáo viên phải cải tiến những hoạt động trong sách
giáo khoa theo hướng ứng dụng thực tiễn.
Bảng 2: Nguồn tài liệu bài tập được sử dụng trong lớp
Bài tập trong SGK Chỉnh sửa bài tập trong SGK
Thiết kế mới
hoàn toàn
Số lượng học sinh 105 107 3
Tỉ lệ 48.84% 49.77% 1.39%
Số lượng giáo viên 3 29 0
Tỉ lệ 9.38% 90.62% 0%
Điểm bất đồng thứ hai giữa ý kiến giáo viên và học sinh là về vấn đề quản lí
lớp học. Điều đáng ngạc nhiên là học sinh cho rằng việc ứng dụng phương pháp
dạy học này sẽ khiến cho thầy cô khó quản lí lớp học, đồng thời khó quan tâm
giúp đỡ đến các em khi các em thực hiện hoạt động. Tuy nhiên, giáo viên lại
không đồng ý rằng đây là trở ngại cho việc thực hiện phương pháp này. Điều này
có thể được giải thích là giáo viên tự tin họ có thể quản lí lớp học tốt và quan tâm
được đến các em, hoặc giáo viên thờ ơ, không quan tâm đến điều này. Chúng tôi
thiết nghĩ đây là một vấn đề quan trọng vì lớp học đông, rất khó quản lí. Các em
lại rất cần sự giúp đỡ của giáo viên trong khi tiến hành hoạt động. Vì vậy, giáo
viên cần chú ý vấn đề này hơn nữa nếu ứng dụng phương pháp này.
Bảng 3: Sự chú ý và giúp đỡ của giáo viên trong lớp
Hoàn toàn
đồng ý Đồng ý
Không
đồng ý
Hoàn toàn
không đồng ý
Số lượng học sinh 76 114 52 7
Tỉ lệ 30.52% 45.78% 20.88% 2.81%
Số lượng giáo viên 2 13 16 4
Tỉ lệ 5.71% 37.14% 45.71% 11.44
3.1.2. So sánh khảo sát học sinh trường giỏi và học sinh trường trung
bình-yếu
Điều đáng mừng là cả học sinh những trường giỏi và trung bình-yếu đều tỏ
ra hứng thú với việc thực hiện phương pháp này, về những lợi ích mà nó đem lại.
Kỷ yếu Hội nghị sinh viên NCKH
180
Tuy nhiên, khi được khảo sát, trong khi học sinh các trường giỏi trả lời rằng
các em được học môn Nói theo đúng như phân bố của Bộ Giáo dục và Đào tạo
thì trái lại học sinh trường trung bình-yếu tiết lộ rằng các em không thường
xuyên được học môn Nói trong trường. Trong 2 lớp được khảo sát thì chỉ có một
lớp được học, còn lớp kia hoàn toàn không. Điều này thật sự đáng lo ngại, vì nếu
môn Nói không được dạy thì việc nghiên cứu phương pháp nào phù hợp là điều
thiếu thực tế và cũng không hề dễ dàng.
Bảng 4: Tiết học Nói ở phổ thông
Có Không
167 0 Trường Hùng Vương +
Trường Bùi Thị Xuân 100% 0%
48 34
Trường Lý Thường Kiệt
58.54% 41.46%
Ngoài ra, các học sinh trường giỏi tỏ ra rất tự tin vào khả năng của mình khi
cho rằng mình đủ trình độ để có thể học môn Nói theo phương pháp này. Tuy
nhiên, học sinh các trường trung bình-yếu thì rất thiếu tự tin và cho rằng mình
không đủ trình độ để học môn Nói theo phương pháp này. Thực tế, các em học
sinh yếu rất ngại học nói và rất thiếu tự tin.
3.1.3. Kết quả phỏng vấn
Qua buổi phỏng vấn, các câu trả lời đã khẳng định chắc chắn và cụ thể cho
những ý kiến trong phần khảo sát.
3.1.4. Kết quả việc dạy thử nghiệm
Trong tiết dạy thứ nhất, chúng tôi chỉ dạy theo đúng sách giáo khoa, không
chỉnh sửa hay bổ sung. Học sinh vẫn học bình thường, nhưng các em tỏ ra kém
hứng thú, nhiều em còn nói chuyện riêng bằng tiếng Việt. Mặc dù các em có nói
tiếng Anh nhưng chỉ là lặp lại sách giáo khoa và thay thế những thông tin đã có
sẵn trong sách giáo khoa. Do đó các em không có nhiều cơ hội giao tiếp và cũng
không thể áp dụng những gì được học ra ngoài cuộc sống vì hoạt động thiếu tính
thực tiễn.
Trong tiết dạy thứ hai, chúng tôi sử dụng phương pháp dạy học bằng những
bài tập mang tính thực tiễn. Chúng tôi thiết kế những hoạt động mới có cùng chủ
đề với sách giáo khoa bằng những tình huống mang tính thực tiễn. Học sinh tỏ ra
rất hứng thú, các em sử dụng tiếng Anh giao tiếp với nhau rất vui vẻ. Tuy nhiên,
lớp học rất ồn ào. Và có một vài em gặp khó khăn với tình huống, giáo viên phải
Năm học 2009– 2010
181
thường xuyên đi rảo quanh lớp học để giúp đỡ các em và kiểm soát xem các em
có thật sự đang thực hiện hoạt động hay không.
Bảng 5: So sánh giữa hai tiết dạy thử nghiệm
Tiết 1 Tiết 2
Ý kiến chung Không thú vị
95.12%
Thú vị
95.11%
Bài tập Không thú vị
100%
Thú vị
95.68%
Mức độ khó Dễ
41.46%
Khó
75.71%
Hướng dẫn của giáo
viên
Dễ dàng theo dõi
85.37%
Có thể theo dõi
75.6%
Giao tiếp trong lớp Không nhiều
51.22%
Nhiều
78.05%
Mức độ thực tế Không
73.17%
Có
100%
3.2. Kết luận và đề xuất
Kĩ năng Nói trong việc giảng dạy tiếng Anh ở trường Trung học phổ thông
có thực hiện nhưng chưa được quan tâm đúng mức. Các giáo viên chỉ chú trọng
vào dạy ngữ pháp và những kĩ năng cần thiết để các em chuẩn bị cho kì thi mà
quên đi kĩ năng nói. Hơn thế nữa, nếu có giảng dạy thì kĩ năng Nói cũng được
dạy sơ sài, những bài tập chỉ hoàn toàn nằm trong sách giáo khoa, không mở
rộng, giúp các em phát triển kĩ năng Nói.
Phương pháp “Dạy học lấy bài tập làm trung tâm” có những lợi ích và
những hạn chế nhất định. Về lợi ích, phương pháp này giúp người học phát triển
kĩ năng nói của mình, có thể sử dụng tiếng Anh để giao tiếp trong lớp học như
môi trường thật ở bên ngoài, từ đó giúp các em phát triển sự tự tin, cũng như sự
lưu loát trong việc vận dụng và nói tiếng Anh. Ngoài ra, học sinh có thể phát
triển những ý tưởng sáng tạo của mình, không chỉ đơn giản là thay thế những
đoạn hội thoại trong sách giáo khoa. Ngoài ra với phương pháp này, người học
trở thành trung tâm, vì thế sẽ tạo ra sự chủ động và không khí thú vị trong lớp
học.
Tuy nhiên, phương pháp này cũng có những khó khăn. Thứ nhất, tiếng ồn là
điều chúng ta cần quan tâm. Vì học sinh cần đi lại, làm bài tập nhóm, nên sẽ gây
ồn trong lớp học. Điều này sẽ ảnh hưởng đến các lớp còn lại. Thứ hai, vì thời
Kỷ yếu Hội nghị sinh viên NCKH
182
gian dành cho mỗi tiết học chỉ có 45 phút và một chương học nặng nề sẽ gây khó
khăn cho giáo viên khi áp dụng phương pháp dạy học này.
Vì thế, chúng tôi có đưa ra những đề xuất khi áp dụng phương pháp dạy học
này. Thứ nhất, đối với tiếng ồn, giáo viên nên đóng cửa lại và nhắc nhở các em
một cách khéo léo. Ngoài ra, giáo viên cần xem xét mức độ ồn như thế nào là có
thể chấp nhận được, bởi tiếng ồn cũng là một dấu hiệu chứng tỏ các em thích thú
với tiết học. Thứ hai, để quản lí tốt lớp học, giáo viên nên có những hướng dẫn rõ
ràng để các em dễ dàng theo dõi. Ngoài ra giáo viên nên đi vòng quanh để bao
quát lớp học và giúp đỡ các em khi cần thiết.
Như chúng tôi đã trình bày, việc giảng dạy kĩ năng Nói còn rất hạn chế ở
các trường thuộc ngoại ô Thành phố. Vì thế, cần có những cuộc nghiên cứu để
giúp phát triển kĩ năng Nói của các em. Từ đó, chúng ta sẽ có một thế hệ trẻ năng
động và vững vàng trong việc sử dụng tiếng Anh trong giao tiếp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Brown, J. (2001), Using Surveys in Language Programs, Cambridge:
Cambridge University Press.
[2] Clark, J. (1987), Curriculum Renewal in School Foreign Language
Teaching. Oxford: Oxford University Press.
[3] Dong Trieu, Nguyen (28-7-2004), “Sáu điểm yếu của sinh viên Việt
Nam”, Nguoi Lao Dong Online
sau-diem-yeu-cua-sinh-vien-vn.htm
[4] Harmer, J. (1983), The Practice of English Language Teaching, London:
Longman.
[5] Kim Lien (2006, October 12), “7 năm học ở phổ thông: Tại sao không
biết nói tiếng Anh?”, Tuoi Tre Online Newspaper.
nnelID=13
[6] Nunan, D. (1989), Designing Tasks for The Communicative Classroom,
Cambridge: Cambridge University Press.
[7] Oxenden, C. and Latham-Koenig, C. 2006, New English File,
Intermediate Student's Book, Oxford: Oxford University Press
[8] Willis, J. (1996), A Framework for Task-based Learning. Harlow, U.K.:
Longman Addison- Wesley.