Việt Nam và nền kinh tế thế giới: thời đ iểm tốt nhất hay tồi tệ nhất

Thời điểm hiện tại đúng là một thời điểm đầy khó hiểu. Một số người cho rằng sự trì trệ trong FDI, xuất khẩu và tăng trưởng GDPcủa Việt Nam trong năm nay là do ảnh hưởng của "cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu tồi tệ nhất trong gần 40 năm." (Việt Nam Economic Monitor), xuân 2002, tr. 3] và lập luận rằng chính sách kinh tế cơ bản của Việt Nam là đúng đắn và sẽ sớm đưa đến kết quả khi tình hình nền kinh tế thế giới cải thiện. 1 Tuy nhiên Quỹ tiền tệ quốc tế IMF trong báo cáo Triển vọng Kinh tế Thế giới vào tháng 4/2002 có bài chuyên đề "Có phải đó là cuộc suy thoái toàn cầu không?" và gọi sự trì trệ kinh tế thế giới này là một trong những sự kiện nhẹnhàng nhất. Đúng là có sự sụt giảm 2,5% trong tăng trưởng GDP của các quốc gia giàu từ năm 2000 sang năm 2001 và tăng trưởng kim ngạch ngoại thương của thế giới giảm từ 13% trong năm 2000 xuống gần bằng 0 trong năm 2001. Tuy nhiên, việc Mỹ có tỉ lệ tăng trưởng 5,6% trong quý 1 năm 2002 và nền kinh tế Nhật dường như đang sẵn sàng trong tư thế tăng trưởng có vẻ như ủng hộ cho quan điểm cho rằng nền kinh tế thế giới bị “trì trệ” hơn là "suy thoái trầm trọng". Nhìn chung có vẻ như năm 2002 sẽ là năm nền kinh tế thế giới hồi phục với mức tăng trưởng dương, cho dù mức tăng trưởng này không được mạnh mẽ. Do vậy môi trường bên ngoài sẽ cho phép nhưng không hỗ trợ mạnh mẽ cho một mô hình tăng trưởng thiên về xuất khẩu.

pdf9 trang | Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 1734 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Việt Nam và nền kinh tế thế giới: thời đ iểm tốt nhất hay tồi tệ nhất, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VIỆT NAM VÀ NỀN KINH TÉ THẾ GIỚI : THỜI ĐIỂM TỐT NHẤT HAY TỒI TỆ NHẤT Fulbright Economics Teaching Program Special lecture Vietnam and the world economy The best or worst of times? Việt Nam và nền kinh tế thế giới: thời điểm tốt nhất hay tồi tệ nhất? Thời điểm hiện tại đúng là một thời điểm đầy khó hiểu. Một số người cho rằng sự trì trệ trong FDI, xuất khẩu và tăng trưởng GDP của Việt Nam trong năm nay là do ảnh hưởng của "cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu tồi tệ nhất trong gần 40 năm." (Việt Nam Economic Monitor), xuân 2002, tr. 3] và lập luận rằng chính sách kinh tế cơ bản của Việt Nam là đúng đắn và sẽ sớm đưa đến kết quả khi tình hình nền kinh tế thế giới cải thiện.1 Tuy nhiên Quỹ tiền tệ quốc tế IMF trong báo cáo Triển vọng Kinh tế Thế giới vào tháng 4/2002 có bài chuyên đề "Có phải đó là cuộc suy thoái toàn cầu không?" và gọi sự trì trệ kinh tế thế giới này là một trong những sự kiện nhẹ nhàng nhất. Đúng là có sự sụt giảm 2,5% trong tăng trưởng GDP của các quốc gia giàu từ năm 2000 sang năm 2001 và tăng trưởng kim ngạch ngoại thương của thế giới giảm từ 13% trong năm 2000 xuống gần bằng 0 trong năm 2001. Tuy nhiên, việc Mỹ có tỉ lệ tăng trưởng 5,6% trong quý 1 năm 2002 và nền kinh tế Nhật dường như đang sẵn sàng trong tư thế tăng trưởng có vẻ như ủng hộ cho quan điểm cho rằng nền kinh tế thế giới bị “trì trệ” hơn là "suy thoái trầm trọng". Nhìn chung có vẻ như năm 2002 sẽ là năm nền kinh tế thế giới hồi phục với mức tăng trưởng dương, cho dù mức tăng trưởng này không được mạnh mẽ. Do vậy môi trường bên ngoài sẽ cho phép nhưng không hỗ trợ mạnh mẽ cho một mô hình tăng trưởng thiên về xuất khẩu. Có một sự chuyển đổi rõ rệt trong FDI khi FDI đổ vào Trung Quốc tiếp tục phát triển và lớn mạnh trong khi hầu hết các nước ASEAN đều tụt lại đằng sau. Trong năm 2002, hầu hết các nước nguyên thủy trong nhóm "ASEAN-5" có khả năng sẽ có mức tăng trưởng GDP 3-4% trong khi Trung Quốc sẽ có mức tăng trưởng trên 7%. Hơn nữa, Trung Quốc đã thành công trong việc thu hút thêm 10% FDI trong quý đầu của năm 2002 so với năm 2001, trong khi các quốc gia ASEAN bị tụt lại ở sau. Việt Nam đã ước tính sẽ có mức tăng trưởng GDP trên 7% năm nay, nhưng ước tính của Ngân hàng Thế giới vào tháng Tư là 5,2% và của Ngân hàng Phát triển Á châu (ADB) chỉ hơn 6%. Giá trị xuất khẩu giảm cho đến suốt tháng 5, chủ yếu là vì giá hàng xuất khẩu thấp – khối lượng xuất khẩu nhìn chung gia tăng. Sự sụt giảm trong giá trị là do giá nguyên liệu thô thấp một cách bất thường đối với một số mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam, mặc dù không phải là giá dầu hỏa. Sự sụt giảm này nằm ngoài dự kiến của mọi người khi mà Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ đã mở ra những khả năng ngoại thương mới với Mỹ và những hứa hẹn đầy lớn lao. Mặc dù có những kỳ vọng như vậy, nhưng số liệu cấp giấy phép xuất khẩu và FDI tại Việt Nam đã giảm trong 1 Cụ thể là, từ tháng Giêng đến tháng Năm giá trị xuất khẩu giảm 6,8% trong năm 2002 so với cùng thời kỳ trong năm 2001. Giá trị của các dự án FDI được cấp giấy phép giảm 62% trong giai đoạn tháng Giêng-tháng Tư. Tăng trưởng GDP trong quý đầu được chính thức ước tính là trên 6% nhưng những ước tính khác thấp hơn, và chỉ tiêu năm 2002 là phải đạt mức tăng trưởng trên 7%. Xuất khẩu và FDI của Trung Quốc tăng khoảng 10% trong quý đầu năm 2002 so với năm 2001. David Dapice 1 Xuân Thành/Thạch Quân Fulbright Economics Teaching Program Special lecture Vietnam and the world economy The best or worst of times? giai đoạn từ tháng Giêng đến tháng Tư trong khi Trung Quốc có mức tăng trưởng trong khoảng 10% - 15%. Chuyện gì đang xảy ra? Có một số nhận xét sơ khỏi sau đây: Thứ nhất, số liệu GDP của cả Trung Quốc và Việt Nam đều có chất lượng không hoàn toàn đáng tin cậy. Giữa ước lượng của các tổ chức bên ngoài (như IMF, ADB, v.v.) về GDP của Việt Nam và con số ước tính chính thức của chính phủ Việt Nam có một sự chênh lệch rõ rệt. Ví dụ như tăng trưởng GDP hàng năm trong giai đoạn 1998-2001 được IMF ước tính là 4,5% trong khi chính phủ Việt Nam ước tính là trên 6%.2 Sự chênh lệch giữa các ước tính từ "bên ngoài" và ước tính chính thức của Trung Quốc thậm chí còn cao hơn. Dữ liệu cấp tỉnh ở cả hai quốc gia thậm chí còn kém tin cậy hơn dữ liệu quốc gia. Như vậy, về cơ bản chúng ta không biết chắc nền kinh tế đang vận hành tốt hay xấu đến mức nào. Và điều này khiến cho việc phân tích trở nên khó khăn và khiến chúng ta phải dựa nhiều hơn vào các dữ liệu đáng tin cậy mặc dù những dữ liệu này ít hoàn chỉnh hơn. Đó chính là các số liệu cấp giấy phép xuất khẩu và FDI. Không may thay, dòng FDI thực chảy vào là không hoàn hoàn chính xác vì việc báo cáo có thể không chính xác. Thứ nhì là vấn đề Việt Nam nên so sánh mình với quốc gia nào. Một nhóm người sẽ cho rằng đó là các quốc gia như Myanmar. Cả hai quốc gia đều đã từng bị cô lập, hiện đang rất nghèo, và có biên giới tiếp giáp với Trung Quốc. Tuy nhiên, nếu xét Myanmar với chính phủ quân sự tham nhũng, các vấn nạn về ma túy và quân ly khai, và tình trạng hầu như hoàn toàn cô lập khỏi nền thương mại thế giới thì Myanmar hầu như không có gì giống Việt Nam. Việc so sánh trở nên giống như đem so một thanh niên chạy đua với một đứa bé 7 tuổi. Những người khác lại đề nghị so sánh Việt Nam với các nước ASEAN láng giềng có mức thu nhập gần như nhau, như Indonesia và Philipin. Cũng giống như trên, sự khác biệt giữa các nước cũng rất lớn. Cả Indonesia và Philipin đều trả qua các cuộc nổi loạn và tình trạng trong nước bất ổn, ảnh hưởng đến tình trạng lung lay của các viên chức chính phủ đương nhiệm. Cả hai quốc gia gần đây đều có một lịch sử tham nhũng trầm trọng chưa khắc phục được. Cả hai đều có hệ thống giáo dục rộng rãi nhưng không hẳn là có chất lượng cao. Mức tăng trưởng của họ trong giai đoạn 1999 - 2002 sẽ thấp hơn 4%, ngay cả nếu như không tính đến năm kinh tế suy thoái 1998. Đây có phải là những quốc gia cạnh tranh đáng gờm mà Việt Nam nên dùng làm tiêu chuẩn so sánh hay không? Tôi bỏ qua Thái Lan hay Malaysia, bởi đây là hai quốc gia giàu hơn Việt Nam rất nhiều – giàu hơn gấp 5 lần hoặc cao hơn. Một đề nghị thứ 3 là Trung Quốc. Suy cho cùng, Trung Quốc là một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa định hướng thị trường, có tỉ lệ dân số biết đọc biết viết tương tự như Việt Nam. Thu nhập bình quân đầu người của Trung Quốc cách đây khoảng 1 thập niên 2 Một cách để kiểm tra, có thể dùng số liệu nhập khẩu dầu hỏa làm số đo tương đối của tăng trưởng. Chúng gia tăng ở mức 18% hàng năm từ năm 1991 đến 1996, tăng nhanh hơn hai lần so với sản lượng thực. Từ năm 1998 đến 2002, số liệu nhập khẩu này tăng 10% một năm. Điều này cho thấy tăng trưởng GDP hàng năm là dưới 5% chứ không phải là 6-7% như các ước tính chính thức. David Dapice 2 Xuân Thành/Thạch Quân Fulbright Economics Teaching Program Special lecture Vietnam and the world economy The best or worst of times? cũng tương tự như mức thu nhập hiện thời của Việt Nam. Cả hai quốc gia đều có mức tăng trưởng mạnh mẽ trong vòng 10 năm qua. Rõ ràng rằng Trung Quốc là sự thách thức cạnh tranh gần nhất đối với Việt Nam. Một quốc gia thành công phải biết phân tích chính xác đâu là sự cạnh tranh thực sự và rút ra bài học mình phải làm gì, bỏ qua những quốc gia bị tụt lại quá xa đằng sau hoặc những quốc gia nó có thể dễ dàng đuổi kịp. Thứ ba, nền kinh tế Việt Nam có thành tích rất tốt trong vòng 10 năm qua. Nền kinh tế Việt Nam tăng nhanh cho đến năm 1997, và ngay cả khi ước tính về GDP của IMF cho giai đoạn 1998-2001 là đúng thì Việt Nam cũng vẫn có được mức tăng trưởng khiêm tốn kể từ năm 1997, và thoát được những thiệt hại đáng kể do cuộc Khủng hoảng Tài chính Châu Á gây ra và sự trì trệ trong nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên, hoàn toàn có khả năng là nếu Việt Nam không có nhiều nỗ lực hơn nữa triển vọng tăng trưởng kinh tế tương lai của Việt Nam sẽ giống như của các nước ASEAN thay vì được như Trung Quốc. Nếu như điều này xảy ra nó sẽ là một thất vọng to lớn. Đối với một quốc gia nghèo như Việt Nam, chỉ có 1 thập niên tăng trưởng nhanh không thôi là không đủ để có thể tạo ra được những tiến bộ đáng kể. Điều đó sẽ là một thảm kịch đáng buồn vì Việt Nam có lực lượng lao động chất lượng cao và nguồn tài chính đầy đủ – vào khoảng 10 tỉ USD tiền viện trợ chưa sử dụng; 20 tỉ USD FDI được cấp giấy phép nhưng chưa được triển khai; trên 1 tỉ USD hàng năm từ các Việt Kiều; mỗi năm thêm hàng tỉ USD từ doanh thu dầu hỏa và còn có những tài khoản hàng tỉ USD của ngân hàng chính phủ gởi ở ngân hàng ở nước ngoài. Nếu như có tiền và có năng lực, vậy tại sao lại không thể đạt được tăng trưởng nhanh? Sau tất cả những điều trên, làm cách nào để so sánh Trung Quốc và Việt Nam? Tôi dùng những ước tính của Ngân hàng Phát triển Á châu (ADB) cho những dữ liệu sau: Tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người của Trung Quốc và Việt Nam, 1998- 2002 (ADB) 1998 1999 2000 2001 2002 Trung bình Trung Quốc 6,8% 6,2% 7,3% 6,8% 6,5% 6,7% Việt Nam 2,9% 3,4% 4,6% 4,3% 3,7-4,7%* 3,9% *Ước tính của Ngân hàng Thế giới vào tháng Tư cho GDP thực của Việt Nam năm 2002 chỉ bằng 5.2%, như vậy tăng trưởng GDP bình quân đầu người sẽ chỉ bằng 3,7%, không phải là 4,7% như ước tính của ADB. ADB hiệu chỉnh các dữ liệu chính thức của cả hai quốc gia. David Dapice 3 Xuân Thành/Thạch Quân Fulbright Economics Teaching Program Special lecture Vietnam and the world economy The best or worst of times? Mức trung bình trong 5 năm của Trung Quốc là 6,7%, so với mức 3,7% - 4% của Việt Nam. Nếu chúng ta xem xét đến việc Trung Quốc có thu nhập bình quân đầu người cao gấp đôi thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam, việc mức tăng trưởng tương đối của Việt Nam chỉ bằng 3/5 mức tăng trưởng của Trung Quốc không hứa hẹn một triển vọng tốt đẹp cho Việt Nam. Xét về giá trị tuyệt đối, Việt Nam hàng năm có lẽ cộng thêm được 15 USD bình quân đầu người trong khi Trung Quốc cộng thêm trên 60 USD bình quân đầu người mỗi năm. Như đã biết, hầu hết các cuộc nghiên cứu cho thấy có thể dễ dàng đạt được mức tăng trưởng nhanh ở mức thu nhập bình quân đầu người thấp, và khi một quốc gia trở nên giàu có hơn, có nhiều khả năng mức tăng trưởng sẽ chậm lại. Như vậy mức tăng trưởng chậm lại của Việt Nam thật đáng chú ý. Một chỉ số đáng tin cậy hơn về một loại tăng trưởng là số liệu xuất khẩu. Về phương diện này, thành tích của Việt Nam rất tốt. Xuất khẩu của Việt Nam đã gia tăng nhanh hơn Trung Quốc trong 5 năm vừa qua mặc dù xuất phát từ một cơ sở tương đối thấp hơn. Cụ thể là, xuất khẩu đạt được 9, 4 tỉ USD trong năm 1998 có khả năng tăng lên 15 tỉ USD trong năm 2002, tức tăng 10% một năm hay tăng 6 tỉ USD trong 5 năm trong một giai đoạn đầy khó khăn. Ngược lại, xuất khẩu của Trung Quốc tăng 9% mỗi năm, tức tăng hơn 100 tỉ USD trong cùng thời kỳ. Dĩ nhiên, hơn 80% hàng xuất khẩu Trung Quốc là các hàng chế biến công nghiệp rất đa dạng, trong khi dưới 40% hàng xuất khẩu Việt Nam là hàng chế biến công nghiệp – và chỉ có 3 hoặc 4 loại hàng là có tỉ trọng đáng kể. Việc xuất khẩu nguyên liệu thô không có gì là sai lầm, nhưng thông thường sẽ dễ dàng chuyển sang xuất khẩu các sản phẩm khác hơn nếu là xuất khẩu hàng chế biến công nghiệp. Về FDI, mức FDI / GDP của Việt Nam cao hơn mức trung bình của các nước ASEAN, nhưng thấp hơn nếu tính theo mức bình quân đầu người. Ví dụ như tỉ lệ FDI chảy vào trong nước hàng năm tính cho đến thời điểm này là 15 USD bình quân đầu người, trong khi tại Trung Quốc mức đó là 40 USD bình quân đầu người. (Tại tỉnh Quảng Đông, tỉ lệ này là từ 150 cho đến 200 USD bình quân đầu người!) Mức FDI giảm 60% ở Việt Nam nhưng tăng trên 10% ở Trung Quốc. Hầu hết các khoản FDI ở Việt Nam được gắn liền với các dự án năng lượng, khí đốt và dầu hỏa cụ thể. Đây là những dự án hữu ích, nhưng không đóng góp được gì nhiều cho việc tạo thêm công ăn việc làm. Tại sao Việt Nam nhận được FDI ít hơn Trung Quốc đến như vậy? Và ở Việt Nam, tại sao thành phố HCM và các tỉnh lân cận (và ở một mức độ thấp hơn là Hà Nội – Hải Phòng) nhận hầu hết dòng FDI? Chú ý rằng dòng FDI này không hề gắn liền với một địa điểm cụ thể nào do có khoáng sản, địa điểm du lịch hay do quyết định của chính phủ. Một phần của câu trả lời có liên quan đến giá cả và chất lượng dịch vụ. Lao động chỉ là một trong nhiều yếu tố của chi phí, và thông thường không phải là yếu tố quan trọng nhất. Những hạng mục khác như chi phí hải cảng và vận chuyển, cước phí điện thoại, chất lượng và chi phí Internet, hay mức độ quan liêu hành chính thấp hơn cũng David Dapice 4 Xuân Thành/Thạch Quân Fulbright Economics Teaching Program Special lecture Vietnam and the world economy The best or worst of times? có vai trò rất quan trọng. Một yếu tố liên quan chặt chẽ khác là các khu trung tâm (clusters) hoạt động. Việc tập trung những hoạt động cụ thể vào một hay một vài nơi, thay vì nhiều nơi, là hợp lý và nên thực hiện. Bằng cách này sẽ có nhiều chuyên viên hơn, phụ tùng nhiều hơn, kho chứa hàng lớn hơn, các dịch vụ chuyên môn như sửa chữa, thiết kế và tiếp thị, v.v. Những trung tâm này tạo ra và đòi hỏi có những công ty cung cấp quy mô nhỏ hơn có thể giao nguyên liệu nhanh hơn với chất lượng thích hợp và chi phí thấp. Trung Quốc đã phát triển những trung tâm này, nhưng Việt Nam còn kém xa. Ví dụ như Trung Quốc đã cố gắng phân phối hạn ngạch quota hàng dệt may đồng đều giữa tất cả các vùng, ngay cả khi hệ thống tài chính của Trung Quốc vẫn còn tránh không cho các công ty tư nhân vay, đặc biệt là các khoản tín dụng dài hạn. Những vùng ở Việt Nam giảm bớt thủ tục hành chính và giải quyết được những một số vấn đề về việc thành lập các trung tâm hoạt động có khuynh hướng thu hút đầu tư được nhiều hơn các vùng khác. Nhưng nhìn chung Việt Nam vẫn không hấp dẫn bằng Trung Quốc mặc dù có nguồn lao động rẻ và chất lượng tốt. Một điều mà các công ty thành công thực hiện đó là so sánh chuẩn mực các hoạt động của họ với chuẩn mực của các đối thủ cạnh tranh. Điều này có nghĩa là họ đo lường, đánh giá chất lượng, dịch vụ khách hàng, thời gian giao hàng, v.v. của chính họ so với các đối thủ cạnh tranh mạnh nhất của họ để xem họ thua kém ở những mặt nào. Điều này có thể làm và nên làm ở cấp quốc gia cũng như cấp vùng. Báo cáo gần đây của Nhật về chi phí cao ở Việt Nam là một khởi điểm tốt để bắt đầu tìm hiểu những vấn đề cần quan tâm đến. Một cách tổng quát hơn, thời gian và chi phí để đăng ký, để thỏa mãn các quy định và kiểm tra, mua đất, đóng thuế, v.v. có thể được đem ra so sánh giữa các vùng hoặc các quốc gia. Những số liệu này và các ví dụ của Nhật về cước phí điện thoại, Internet, chuyên chở hàng hóa, và những chi phí tương tự sẽ cho phép Việt Nam hoặc một tỉnh của Việt Nam nhìn thấy được khả năng cạnh tranh của họ so với những nơi khác. Dĩ nhiên vị trí địa lý cũng quan trọng; không phải chính sách là tất cả. Nằm gần thành phố HCM là một ưu thế và một tỉnh xa xôi trong vùng núi sẽ không bao giờ được như Đồng Nai. Một số giám đốc nước ngoài muốn mang gia đình họ sang Việt Nam, và cần có những trường học nước ngoài tốt cho con cái của họ. Ở Việt Nam chỉ có một vài nơi là có thể thỏa mãn nhu cầu này. Nhưng khả năng của một vùng bị giới hạn không có nghĩa là vùng đó không thể nâng cao hoạt động của mình. Nhiều vùng ở Việt Nam nằm gần hải cảng hay dọc theo Quốc lộ 1. Nếu như những vùng như vậy tìm được những hoạt động kinh tế hợp lý và phát triển dựa trên cơ sở những hoạt động đó, khi đó tăng trưởng tổng quát của vùng sẽ cao hơn, mật độ tập trung dân số sẽ nằm trong khả năng quản lý của vùng, và nhu cầu lao động sẽ thỏa đáng hơn. Mức độ đói nghèo sẽ được cắt giảm nhanh và đáng kể. David Dapice 5 Xuân Thành/Thạch Quân Fulbright Economics Teaching Program Special lecture Vietnam and the world economy The best or worst of times? Nhưng nhiều vùng không nằm gần thành phố HCM (và ngay cả những vùng nằm gần) cũng không quan niệm rằng thu hút FDI hay các công ty tư nhân trong nước là một ưu tiên của họ. Đối với họ dường như những ích lợi của việc thu hút các nguồn vốn phát triển công nghiệp của nhà nước hoặc nguồn vốn phát triển hạ cơ sở tầng công là cao hơn, ngay cả khi dự án hay nhà máy đó không thật sự là hợp lý. Có nghĩa là, con đường, cây cầu hay hải cảng sẽ không được sử dụng nhiều, hoặc nhà máy sản xuất với chi phí giá thành rất cao. Tuy nhiên bởi vì cơ chế chi tiêu cho các dự án công cộng, nhiều vùng đã được nhận những khoản tiền ngân sách cho những dự án không hợp lý. Kết quả là vốn bị sử dụng kém hiệu quả và tốc độ tăng trưởng thấp và công ăn việc làm tạo ra được ít. Liệu quá trình ra quyết định kém hiệu quả này có thể thay đổi được không? Một thay đổi có thể thực hiện được là để cho các tỉnh hiện tại không thành công nhưng có tiềm năng thành công cạnh tranh để được nhận ít nhất một phần nguồn ngân sách công. Tiêu chuẩn cạnh tranh ở đây là anh sẽ được nhận nhiều tiền ngân sách hơn để xây dựng đường hay nhà máy cung cấp nước nếu anh thu hút được nhiều FDI hay đầu tư tư nhân trong nước hơn. Ý tưởng là nhằm làm giảm bớt ách tắc ở các vùng đang tăng trưởng. Cần một khoản lớn FDI để đầu tư cho nhà máy điện, trong khi chỉ cần một khoản FDI nhỏ hơn để đầu tư cho một nhà máy công nghiệp sẽ sử dụng nhiều lao động. Cả hai hoạt động đầu tư này đều được bổ sung bởi gia tăng đầu tư co