Vốn xã hội - Những tác động tích cực và hệ quả tiêu cực đối với sức khỏe người dân (Nghiên cứu trường hợp tại thành phố Vinh, Nghệ An)

Từ nửa sau của thế kỷ XX, khái niệm “vốn xã hội” nổi lên như là một thuật ngữ quan trọng và được sự quan tâm nghiên cứu rộng rãi trong giới khoa học cũng như trong đời sống xã hội. Khi nói đến vốn xã hội, người ta hay nói đến mạng lưới quan hệ xã hội của các cá nhân. Điều đó có nghĩa là việc hình thành và phát triển mạng lưới quan hệ xã hội cá nhân chính là góp phần hình thành và phát triển vốn xã hội của các chủ thể. Tuy nhiên, mạng lưới quan hệ xã hội không thể hình thành nếu các chủ thể thiếu lòng tin và không tham gia vào các quan hệ xã hội. Do đó, sự hình thành và phát triển tốt mạng lưới quan hệ xã hội, cùng với việc xây dựng lòng tin xã hội để sự tham gia xã hội được sâu, rộng chính là cơ chế căn bản để hình thành và phát triển vốn xã hội của các chủ thể. Vậy thì khi các cá nhân hình thành và phát triển vốn xã hội có hệ quả tích cực hay tiêu cực đến đời sống của cá nhân? Bài viết dưới đây sẽ đi sâu phân tích về những tác động tích cực và hệ quả tiêu cực của vốn xã hội đến việc chăm sóc sức khỏe của người dân.

pdf6 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 19 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vốn xã hội - Những tác động tích cực và hệ quả tiêu cực đối với sức khỏe người dân (Nghiên cứu trường hợp tại thành phố Vinh, Nghệ An), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí KH-CN Nghệ AnSỐ 9/2018 [43] NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI n ThS. Phan Thị Thúy Hà Trường Đại học Vinh VỐN XÃ HỘI - NHỮNG TÁC ĐỘNG TÍCH CỰC VÀ HỆ QUẢ TIÊU CỰC ĐỐI VỚI SỨC KHỎE NGƯỜI DÂN (Nghiên cứu trường hợp tại thành phố Vinh, Nghệ An) Từ nửa sau của thế kỷ XX, khái niệm “vốn xã hội” nổi lên như là một thuật ngữ quan trọng và được sự quan tâm nghiên cứu rộng rãi trong giới khoa học cũng như trong đời sống xã hội. Khi nói đến vốn xã hội, người ta hay nói đến mạng lưới quan hệ xã hội của các cá nhân. Điều đó có nghĩa là việc hình thành và phát triển mạng lưới quan hệ xã hội cá nhân chính là góp phần hình thành và phát triển vốn xã hội của các chủ thể. Tuy nhiên, mạng lưới quan hệ xã hội không thể hình thành nếu các chủ thể thiếu lòng tin và không tham gia vào các quan hệ xã hội. Do đó, sự hình thành và phát triển tốt mạng lưới quan hệ xã hội, cùng với việc xây dựng lòng tin xã hội để sự tham gia xã hội được sâu, rộng chính là cơ chế căn bản để hình thành và phát triển vốn xã hội của các chủ thể. Vậy thì khi các cá nhân hình thành và phát triển vốn xã hội có hệ quả tích cực hay tiêu cực đến đời sống của cá nhân? Bài viết dưới đây sẽ đi sâu phân tích về những tác động tích cực và hệ quả tiêu cực của vốn xã hội đến việc chăm sóc sức khỏe của người dân. Tạp chí KH-CN Nghệ AnSỐ 9/2018 [44] NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI 1. Vốn xã hội, mối quan hệ giữa vốn xã hội và sức khỏe của cá nhân 1.1. Vốn xã hội Cùng với các khái niệm khác như vốn văn hóa, vốn con người, vốn tâm lý và vốn biểu tượng, thì vốn xã hội là một trong những thuật ngữ quan trọng và được sự quan tâm nghiên cứu rộng rãi nhất trong xã hội từ nửa sau thế kỷ XX. Đây là một khái niệm dựa trên cơ sở khái niệm vốn cổ điển, tức vốn kinh tế (Nguyễn Quý Thanh, 2015). Thuật ngữ vốn xã hội xuất hiện đầu tiên vào năm 1916, do tác giả Lyda Jud- son Hanifan sử dụng. Và cho đến nay, đã có nhiều tác giả sử dụng khái niệm này với nhiều chiều cạnh và góc độ khác nhau. Dưới đây là một số quan điểm về vốn xã hội. - Theo giả Lyda Judson Hanifan, vốn xã hội là những thứ được nhận thấy nhiều nhất trong đời sống thường nhật của con người, đó chính là: sự thiện chí, tình bạn thân thiết, sự cảm thông và quan hệ xã hội giữa các cá nhân và gia đình (Lyda Judson Hanifan, dẫn theo Nguyễn Quang A, 2013). - Bourdieu định nghĩa vốn xã hội là tập hợp các nguồn lực hiện hữu hoặc tiềm tàng liên quan với việc sở hữu một mạng lưới bền vững gồm các mối quan hệ quen biết trực tiếp hay gián tiếp (Bourdieu,1980). - Theo Coleman, vốn xã hội như nguồn tài nguyên tồn tại trong mối quan hệ giữa các cá nhân, vốn xã hội phản ánh các khía cạnh cấu trúc xã hội và tạo điều kiện cho cá nhân hành động. Giá trị của vốn xã hội được hiểu là nguồn tài nguyên mà các chủ thể có thể sử dụng để đạt được lợi ích của họ (Coleman, 1988). Các định nghĩa trên cho thấy dưới nhiều quan điểm khác nhau, góc nhìn khác nhau thì vốn xã hội cũng được biểu thị rất đa dạng và phong phú. Tuy nhiên, các định nghĩa đều có đặc điểm chung là: vốn xã hội là cái gì đó thuộc về xã hội mà con người đầu tư, tích lũy và sử dụng để tìm kiếm lợi ích. Có nghĩa là người ta dùng nó để sinh tiếp ra nó với số lượng nhiều hơn, chất hơn. Khi đo lường vốn xã hội, nghĩa là để biết xem lượng vốn xã hội của một cá nhân như thế nào, các nhà nghiên cứu thường chú ý đến cấu trúc của mạng lưới xã hội, bao gồm các chỉ báo: lòng tin xã hội, mạng lưới các quan hệ xã hội và sự tham gia xã hội. Trong đó, sự tham gia xã hội chính là sự tương tác giữa hai yếu tố: mạng lưới các quan hệ xã hội và lòng tin xã hội. Do đặc tính mạng lưới quan hệ xã hội, mức lòng tin xã hội ở các cá nhân và các hệ thống xã hội khác nhau, cho nên mức vốn xã hội mà các chủ thể sở hữu cũng khác nhau. 1.2. Mối quan hệ giữa vốn xã hội và sức khỏe của cá nhân Có một mối quan hệ giữa vốn xã hội và sức khỏe. Hay nói cách khác có mối quan hệ giữa lòng tin xã hội, quan hệ xã hội và sự tham gia xã hội của cá nhân với vấn đề sức khỏe của cá nhân đó. Từ xa xưa, trong công trình nghiên cứu về tự tử của mình, Durkheim (1897) đã chỉ ra rằng có mối quan hệ giữa việc tự tử với các mức độ của liên kết xã hội và kiểm soát xã hội. Khi sự liên kết giữa cá nhân và xã hội quá lỏng lẻo hay quá chặt, cũng như khi sự kiểm soát xã hội với các hành vi của cá nhân quá mạnh mẽ Sơ đồ 2.1. Tỷ lệ người dân mắc bệnh sống trong các gia đình còn đầy đủ vợ chồng và không còn đầy đủ vợ hoặc chồng (nghiên cứu tại thành phố Vinh) Tạp chí KH-CN Nghệ AnSỐ 9/2018 [45] NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI lần mắc bệnh và thời gian mắc bệnh của những cá nhân sống trong các hộ gia đình có đầy đủ vợ chồng ít hơn số lần mắc bệnh và thời gian mắc bệnh của những cá nhân sống trong các hộ gia đình không còn đầy đủ vợ hoặc chồng. Các mối quan hệ xã hội cũng giúp cho các cá nhân trong quá trình huy động nguồn lực kinh tế và người phục vụ trong quá trình khám chữa bệnh. Nghiên cứu của Phan Thị Thúy Hà (2017) đã chỉ ra rằng, 92% người nghèo tại thành phố Vinh khi đi khám chữa bệnh đều huy động chi phí khám chữa bệnh từ người thân và bạn bè. Đặc biệt, những hộ gia đình nghèo neo đơn thì quá trình chăm sóc khi bị bệnh đều nhờ vào bạn bè, hàng xóm, các tổ chức đoàn thể. Nghiên cứu định tính của Phan Thị Thúy Hà (2017), nhận diện rằng, các mối quan hệ quen, thân với các bác sỹ, y tá hay nhân viên y tế giúp cho cá nhân được chăm sóc sức khỏe nhanh chóng, kịp thời và chất lượng tốt hơn. Các mối quan hệ xã hội cũng giúp cho các cá nhân có nhiều kinh nghiệm trong quá trình chăm sóc sức khỏe. Thông qua sự quen biết, tương tác lẫn nhau thì các phương pháp chữa bệnh hiệu quả, các cơ sở khám chữa bệnh uy tín, các cách thức chăm sóc sức khỏe được truyền đạt, giúp cho cá nhân có thể bảo vệ và chăm sóc sức khỏe tốt hơn. Đặc biệt, trong thời kỳ công nghệ thông tin phát triển, hỗ trợ cá nhân mở rộng nhanh chóng và thuận tiện các mối quan hệ xã hội thì các chia sẻ trong việc chăm sóc và bảo vệ sức khỏe được phát huy tác dụng hơn bao giờ hết. Gia đình là nguồn vốn xã hội quan trọng được nhiều nhà nghiên cứu chú ý đề cập đến. Coleman, 1988, cho rằng vốn xã hội có thể tồn tại trong gia đình như trong các mạng lưới quan hệ xã hội khác. Sự quan tâm của gia đình, đặc biệt là tình hay quá sơ sài, thì mức độ tự tử đều cao hơn mức bình thường. Kết quả của nghiên cứu này đã chứng minh rằng, khi cá nhân có mối quan hệ xã hội lỏng lẻo, tham gia xã hội kém, nghĩa là cá nhân có ít hoặc không có vốn xã hội thì cá nhân có nguy cơ tự tử cao hơn. Điều này cũng có nghĩa vốn xã hội có thể tạo ra những ảnh hưởng nhất định đến sức khỏe của con người. 2. Những tác động tích cực của vốn xã hội đến sức khỏe con người Các nghiên cứu đều chỉ ra rằng, mạng lưới xã hội của cá nhân, một trong các biểu hiện của vốn xã hội có tác động tích cực đến việc chăm sóc sức khỏe con người, cụ thể: Các nghiên cứu của A. W. Williams, Ware and Donal, 1981, Cohen và Wills, 1985 đã chỉ ra rằng, người có mối liên kết xã hội cao sẽ có sức khỏe tinh thần tốt hơn. Nghiên cứu ở Nga của tác giả R. Rose, 2000, đã kết luận mối liên hệ xã hội cá nhân chiếm tới 10% sức khỏe tinh thần (Trích theo Hoàng Bá Thịnh, 2015). Các tác giả cho rằng, chính các mối quan hệ thân thiết, qua lại có thể làm giảm khả năng mắc bệnh trầm cảm và mối liên kết xã hội rộng lớn cũng giúp cho các cá nhân có hệ miễn dịch tốt hơn bởi khi họ tham gia vào mạng lưới qua hệ xã hội thì khả năng phơi nhiễm với một căn bệnh truyền nhiễm nhất định cũng tăng theo do tiếp xúc với nhiều loại người. Kết quả này cũng được khẳng định tại một nghiên cứu ở thành phố Vinh khi kết quả chỉ ra rằng: tỷ lệ số Sơ đồ 2.2. Số lần mắc bệnh trung bình của các cá nhân sống trong các gia đình còn đầy đủ vợ chồng và không còn đầy đủ vợ hoặc chồng (nghiên cứu tại thành phố Vinh) Tạp chí KH-CN Nghệ AnSỐ 9/2018 [46] NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI yêu thương của bố mẹ giúp con cái hội nhập xã hội tốt hơn, giảm những nguy cơ đối với sức khỏe thể chất và tinh thần. Nghiên cứu của Phan Thị Thúy Hà (2017) cho rằng, trong các gia đình có cơ cấu lớn, tỷ lệ người mắc bệnh thấp hơn trong các gia đình có cơ cấu thấp hơn. Trong các gia đình có phụ nữ làm chủ hộ, tỷ lệ thành viên bị bệnh cũng giảm so với các hộ gia đình do nam giới làm chủ hộ. Điều này được lý giải là do phụ nữ thường có những quyết định về chăm sóc, bảo vệ sức khỏe tốt hơn nam giới. Đồng thời, các mối quan hệ thân thiết, tình cảm trong gia đình là sức mạnh lớn nhất về tinh thần giúp cho các cá nhân có niềm tin vào tương lai, niềm tin khỏi bệnh và nhanh chóng hồi phục sức khỏe. Đây cũng là liều thuốc kháng sinh tốt nhất cho các loại bệnh tật. Tiếp đó, lòng tin của người dân với chất lượng của dịch vụ y tế (bao gồm niềm tin với chất lượng khám chữa bệnh; niềm tin vào trình độ và thái độ làm việc của y, bác sỹ, nhân viên y tế; niềm tin với trang thiết bị, cơ sở vật chất của cơ sở y tế...), một biểu hiện khác của vốn xã hội có ảnh hưởng tích cực đến việc chăm sóc sức khỏe người dân. Tính đến đầu năm 2017, toàn ngành y tế Nghệ An có 39 bệnh viện (trong đó có 12 bệnh viện tuyến tỉnh, 17 bệnh viện tuyến huyện, 10 bệnh viện tư nhân). Tổng số giường bệnh là 9.375, đạt 26,6 giường/vạn dân; 480 trạm y tế xã/phường/ thị trấn. Ngoài ra, còn có 04 bệnh viện bộ, ngành đóng trên địa bàn cũng tham gia khám chữa bệnh cho nhân dân (Bệnh viện Công an tỉnh; Bệnh viện Quân Y 4; Bệnh viện Giao thông 4; Bệnh viện Phong - Da liễu Quỳnh Lập). Năm 2016, khám bệnh cho trên 4,6 triệu lượt người, điều trị nội trú trên 477 ngàn lượt người, trên 72 ngàn ca phẫu thuật các loại. Sự phát triển này đã làm tăng niềm tin của người dân với các cơ sở y tế, làm tăng sự tiếp cận và cơ hội của người dân trong quá trình chăm sóc sức khỏe. Đây chính là quá trình tạo dựng vốn xã hội (niềm tin) cho người dân. Giúp người dân tin tưởng sử dụng các cơ sở y tế trong quá trình khám chữa bệnh để chăm sóc và bảo vệ sức khỏe. Mặt khác, niềm tin của người dân với các cơ sở y tế giúp cho sự hợp tác của người bệnh và cơ sở y tế bền chặt hơn, người bệnh đảm bảo các chế độ chăm sóc sức khỏe theo đúng phác đồ điều trị, tránh và giảm thiểu các hiện tượng bỏ viện, không tuân theo phác đồ điều trị của bác sỹ hay bỏ thuốc bệnh viện và tự ý mua thuốc ngoài không theo sự chỉ dẫn của bác sỹ. Niềm tin sẽ giúp cho bệnh nhân được khám chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe tốt hơn, nhanh hơn, hiệu quả hơn. Hoạt động cộng đồng giúp gắn kết, làm tăng vốn xã hội Tạp chí KH-CN Nghệ AnSỐ 9/2018 [47] NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI chính là điều không hợp lý trong việc tạo lập một sự tiếp cận công bằng giữa các vùng địa lý. Rõ ràng mỗi bệnh nhân đều muốn sử dụng máy móc, cơ sở vật chất tốt, y bác sỹ và nhân viên y tế giỏi điều trị, nhiệt tình chăm sóc. Khi các yếu tố này chưa đảm bảo, niềm tin với các nhân viên y tế và hệ thống y tế không cao. Đây chính là lý do người dân có xu hướng đổ dồn về các bệnh viện ở thành phố Vinh khi họ có nhu cầu khám chữa bệnh. Một nghiên cứu tại thành phố Vinh cũng chỉ ra rằng, các cơ sở y tế tư nhân tại thành phố đều có đặc điểm chung là cơ sở vật chất tốt, bệnh viện sạch sẽ, không quá tải, thái độ phục vụ của nhân viên y tế tốt, đội ngũ y, bác sỹ có chuyên môn cao, đặc biệt là không bị khoản chi phí “không chính thức” làm khó chịu nên mặc dù chi phí khám chữa bệnh ở các cơ sở này cao hơn ở các cơ sở y tế nhà nước nhưng người dân vẫn tin tưởng và mong muốn lựa chọn nhiều hơn khi họ bị bệnh. Bên cạnh đó, những sự kiện bê bối của ngành y tế được phát hiện cũng đã làm cho niềm tin xã hội nói riêng và vốn xã hội nói chung bị ảnh hưởng. Ở một khía cạnh khác, khi người dân tham gia vào các nhóm xã hội khác nhau, đặc biệt là các nhóm xã hội thấp kém và bị kỳ thị có ảnh hưởng tiêu cực đến vấn đề sức khỏe. Bởi chính bất bình đẳng xã hội, sự phân tầng xã hội đã phân xã hội ra thành các nhóm khác nhau, ở đó có các nhóm xã hội được xem là bên lề hay bên ngoài xã hội, thậm chí một số nhóm được dán những nhãn của sự kỳ thị đã làm cho các cá nhân có những cảm nhận không tốt về bản thân, cảm thấy bị cô lập, bị coi thường, bị xa lánh, hình thành cảm giác tự ti, từ đó dẫn đến một sức khỏe tinh thần không lành mạnh. Nhất là đối với các cá nhân đang có bệnh thì sự 3. Những hệ quả tiêu cực của vốn xã hội đến sức khỏe con người Bên cạnh những tác động tích cực thì vốn xã hội nhiều khi cũng mang lại những hệ quả tiêu cực. Điển hình, như chính niềm tin của người dân với các cơ sở y tế. Hiện nay, đang có sự phát triển không đồng đều giữa các bệnh viện tuyến tỉnh, thành phố và bệnh viện tuyến huyện. Sự đầu tư về trang thiết bị, cơ sở vật chất y tế đang bị mất cân đối giữa các vùng địa lý. Trình độ chuyên môn, tay nghề của các bác sỹ có sự chênh lệch giữa các địa phương. Đội ngũ y bác sỹ chuyên gia, có tay nghề cao chủ yếu tập trung ở vùng thành phố Vinh và lân cận (Phan Thị Thúy Hà, 2017). Đây Sự phân tầng xã hội đã ảnh hưởng không nhỏ đến sức khỏe người dân, đặc biệt là nhóm hộ nghèo Tạp chí KH-CN Nghệ AnSỐ 9/2018 [48] NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI dán nhãn của xã hội càng làm tăng cảm giác cô lập và giảm thiểu sự tự tin đối với xã hội, với chính sức khỏe bệnh tật của mình. Các cá nhân này dần dần bị thu hẹp lại các mối quan hệ xã hội, dần mất đi lòng tin vào xã hội và hệ quả là vốn xã hội suy giảm và cơ hội được phát triển từ vốn xã hội cũng dần bị mất đi (Nguyễn Quý Thanh, 2015). Nghiên cứu tại thành phố Vinh cho thấy, người nghèo khi bị bệnh, lựa chọn nhiều nhất của họ là tự mua thuốc ở nhà thuốc (43%), một số lựa chọn không chữa trị, tự khỏi (22%), và chỉ 33% lựa chọn đến các cơ sở y tế khám chữa bệnh bằng thẻ bảo hiểm y tế, một số ít khác lựa chọn đến bệnh viện tư không dùng thẻ bảo hiểm y tế. Như vậy ở đây, người nghèo có bệnh, họ được nhà nước cấp thẻ bảo hiểm y tế 100%, nhưng tỷ lệ sử dụng thẻ bảo hiểm y tế đi khám chữa bệnh chỉ chiếm 1/3. Nguyên nhân, bởi người nghèo cho rằng, thẻ bảo hiểm y tế được nhà nước cấp là của cho, mà của cho thì không thể tốt được. “Đi khám bệnh, xuất trình thẻ bảo hiểm y tế người nghèo họ không thích đâu” (Nữ, 40 tuổi, phường Hưng Lộc) (Phan Thị Thúy Hà, 2015). Như vậy, chính nhãn hộ nghèo đã làm cho người nghèo cảm thấy tự ti khi đi khám chữa bệnh, khiến cho họ không đến các cơ sở khám chữa bệnh mà tự mua thuốc uống hay không chữa trị gì, ảnh hưởng rất xấu đến sức khỏe của họ. Bên cạnh đó, nếu như văn hóa nhóm có thể mang lại hệ quả tích cực khi nền văn hóa đó có những phương pháp và kinh nghiệm chăm sóc, bảo vệ sức khỏe tiên tiến, hiệu quả, nhưng cũng sẽ gây nên các hậu quả tiêu cực nếu như nền văn hóa đó còn tồn tại các hủ tục, tập tục lạc hậu. Ví dụ như việc có bệnh phải cúng xin thần linh, làm lễ giải hạn, hay chữa bệnh bằng nước thánh, thuốc thần. Đây là loại văn hóa nhóm có tác động rất tiêu cực đến sức khỏe người dân. 4. Kết luận Như vậy, vốn xã hội có những tác động tích cực đến sức khỏe người dân, nhưng đồng thời cũng có những hệ quả tiêu cực. Nó làm cho sức khỏe người dân có thể được chăm sóc và bảo vệ tốt, cũng có thể bị suy yếu gây ảnh hưởng xấu đến cơ thể con người. Những biểu hiện của vốn xã hội có thể tác động tạo nên các hệ quả tích cực, đó là mạng lưới xã hội, lòng tin, cơ cấu gia đình, cùng với chất lượng của dịch vụ y tế. Tuy nhiên, mạng lưới xã hội, cơ cấu gia đình, niềm tin hay sự tham gia vào các nhóm xã hội yếu thế cũng có thể gây nên một hệ quả tiêu cực cho sức khỏe con người. Như vậy, ở đây chúng ta nhận định rằng bất kỳ một yếu tố nào đó tác động đến sức khỏe cá nhân cũng có hai mặt, tích cực và tiêu cực. Vì vậy, chúng ta cần phải nhận diện và phân tích rõ ràng để có thể phát huy những điểm mạnh, điểm tích cực và hạn chế những mặt yếu, mặt tiêu cực của các yếu tố để cho quá trình sử dụng và tạo dựng vốn xã hội của cá nhân có ý nghĩa nhiều hơn./. Tài liệu tham khảo 1. Coleman J.S (1988), Social capital in the Creation of Human Capital, American of Sociologiy 94, pp. 95-120. 2. Bourdieu Pierre (1980), Le capital social, In: actes de la recherche en sciences sociale vol 31. 3. Durkheim. É (1897), Le Suicide: Étude de sociologie first published 1897, Paris. 4. Fukuyama (2001), social capital, civil society and development, the Comine Agenda. 5. Nguyễn Quang A (2013), Vốn xã hội, Tạp chí Tia sáng số 14. 6. Nguyễn Tuấn Anh (2011), Vốn xã hội và mấy vấn đề đặt ra trong nghiên cứu vốn xã hội ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Xã hội học, năm thứ 30, số 3. 7. Phan Thị Thúy Hà, 2015, Những yếu tố ảnh hưởng đến việc tiếp cận dịch vụ y tế của hộ nghèo ở thành thị, Luận văn thạc sĩ Xã hội học. 8. Phan Thị Thúy Hà, 2017, Sự khác biệt trong việc tiếp cận các dịch vụ khám chữa bệnh của người dân, đề cương tiến sĩ Xã hội học. 9. Nguyễn Quý Thanh (chủ biên, 2015), Vốn xã hội và phát triển, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 10. Hoàng Bá Thịnh (2017), Xã hội học sức khỏe, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.