Vòng tuần hoàn nước là sự tồn tại và vận động của nước trên mặt đất, trong lòng đất và trong bầu khí quyển của Trái Đất. Nước trái đất luôn vận động và chuyển từ trạng thái này sang trạng thái khác, từ thể lỏng sang thể hơi rồi thể rắn và ngược lại. Vòng tuần hoàn nước đã và đang diễn ra từ hàng tỉ năm và tất cả cuộc sống trên Trái Đất đều phụ thuộc vào nó, Trái Đất chắc hẳn sẽ là một nơi không thể sống được nếu không có nước.
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                
32 trang | 
Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 2521 | Lượt tải: 1
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Vòng tuần hoàn nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Vòng tuần 
hoàn nước 
Vòng tuần hoàn nước là sự tồn tại và vận 
động của nước trên mặt đất, trong lòng đất 
và trong bầu khí quyển của Trái Đất. Nước 
trái đất luôn vận động và chuyển từ trạng 
thái này sang trạng thái khác, từ thể lỏng 
sang thể hơi rồi thể rắn và ngược lại. Vòng 
tuần hoàn nước đã và đang diễn ra từ hàng tỉ 
năm và tất cả cuộc sống trên Trái Đất đều 
phụ thuộc vào nó, Trái Đất chắc hẳn sẽ là 
một nơi không thể sống được nếu không có 
nước. 
Sơ đồ vòng tuần hoàn nước, do Cục Địa chất 
Hoa Kỳ vẽ 
Mục lục 
 1 Sơ lược 
 2 Thành phần 
o 2.1 Nước đại dương 
o 2.2 Bốc hơi 
o 2.3 Nước khí quyển 
o 2.4 Sự ngưng tụ hơi nước 
o 2.5 Giáng thủy 
o 2.6 Nước băng và tuyết 
o 2.7 Dòng chảy tuyết tan 
o 2.8 Dòng chảy mặt 
o 2.9 Dòng chảy sông ngòi 
o 2.10 Lượng trữ nước ngọt 
o 2.11 Thấm 
o 2.12 Lưu lượng nước ngầm 
o 2.13 Suối 
o 2.14 Sự thoát hơi 
o 2.15 Lượng trữ nước ngầm 
 3 Tham khảo 
Sơ lược 
Vòng tuần nước không có điểm bắt đầu 
nhưng chúng ta có thể bắt đầu từ các đại 
dương. Mặt Trời điều khiển vòng tuần hoàn 
nước bằng việc làm nóng nước trên những 
đại dương, làm bốc hơi nước vào trong 
không khí. Những dòng khí bốc lên đem 
theo hơi nước vào trong khí quyển, gặp nơi 
có nhiệt độ thấp hơn hơi nước bị ngưng tụ 
thành những đám mây. Những dòng không 
khí di chuyển những đám mây khắp toàn 
cầu, những phân tử mây va chạm vào nhau, 
kết hợp với nhau, gia tăng kích cỡ và rơi 
xuống thành giáng thủy (mưa). Giáng thuỷ 
dưới dạng tuyết được tích lại thành những 
núi tuyết và băng hà có thể giữ nước đóng 
băng hàng nghìn năm. Trong những vùng 
khí hậu ấm áp hơn, khi mùa xuân đến, tuyết 
tan và chảy thành dòng trên mặt đất, đôi khi 
tạo thànhlũ. Phần lớn lượng giáng thuỷ rơi 
trên các đại dương; hoặc rơi trên mặt đất và 
nhờ trọng lực trở thành dòng chảy mặt. Một 
phần dòng chảy mặt chảy vào trong sông 
theo những thung lũng sông trong khu vực, 
với dòng chảy chính trong sông chảy ra đại 
dương. Dòng chảy mặt, và nước thấm được 
tích luỹ và được trữ trong những hồ nước 
ngọt. Mặc dù vậy, không phải tất cả dòng 
chảy mặt đều chảy vào các sông. Một lượng 
lớn nước thấm xuống dưới đất. Một lượng 
nhỏ nước được giữ lại ở lớp đất sát mặt và 
được thấm ngược trở lại vào nước mặt (và 
đại đương) dưới dạng dòng chảy ngầm. Một 
phần nước ngầm chảy ra thành các dòng 
suối nước ngọt. Nước ngầm tầng nông được 
rễ cây hấp thụ rồi thoát hơi qua lá cây. Một 
lượng nước tiếp tục thấm vào lớp đất dưới 
sâu hơn và bổ sung cho tầng nước ngầm sâu 
để tái tạo nước ngầm (đá sát mặt bảo hoà), 
nơi mà một lượng nước ngọt khổng lồ được 
trữ lại trong một thời gian dài. Tuy nhiên, 
lượng nước này vẫn luân chuyển theo thời 
gian, có thể quay trở lại đại dương, nơi mà 
vòng tuần hoàn nước “kết thúc”... và lại bắt 
đầu. 
[sửa]Thành phần 
Cục Địa chất Hoa Kỳ đã định nghĩa 15 
thành phần của vòng tuần hoàn nước như 
sau: 
Nước đại dương 
Phân bổ nước trên Trái Đất 
Một lượng nước khổng lồ được trữ trong các 
đại dương trong một thời gian dài hơn là 
được luân chuyển qua vòng tuần hoàn nước. 
Ước tính có khoảng 1.338.000.000 
km3 nước được trữ trong đại dương, chiếm 
khoảng 96,5%, và đại dương cũng cung cấp 
khoảng 90% lượng nước bốc hơi vào trong 
vòng tuần hoàn nước. 
Trong những thời kỳ khí hậu lạnh hơn nhiều 
đỉnh núi băng và những dòng sông băng 
được hình thành, một lượng nước trái đất 
khá lớn được tích lại dưới dạng băng làm 
giảm bớt lượng nước trong những thành 
phần khác của vòng tuần hoàn nước. Điều 
này thì ngược lại trong thời kỳ ấm. Cuối thời 
kỳ băng hà những sông băng bao phủ 1/3 bề 
mặt trái đất, và mực nước các đại dương thì 
thấp hơn ngày nay khoảng 122 m (400 feet). 
Cách đây khoảng 3 triệu năm, khi trái đất 
ấm hơn, mực nước của các đại dương có thể 
đã cao hơn hiện nay khoảng 50 m (165 feet). 
Có những dòng chảy trong đại dương di 
chuyển một khối lượng lớn nước khắp thế 
giới. Những sự di chuyển này có ảnh hưởng 
lớn đến vòng tuần hoàn nước và khí hậu. 
Dòng Gulf Stream được biết đến nhiều như 
là một dòng biển nóng trong vùng Đại Tây 
Dương, vận chuyển nước từ vùng Vịnh 
Mexicongang qua Đại Tây Dương hướng 
đến nước Anh. Với tốc độ 60 dặm (97 km) 
một ngày, dòng Gulf Stream đem theo một 
lượng nước nhiều bằng 100 lần tất cả các 
sông trên trái đất. Xuất phát từ những vùng 
khí hậu ấm, dòng Gulf mang theo nước ấm 
hơn đến Bắc Đại Tây Dương, làm ảnh 
hưởng đến khí hậu của một vài vùng, như 
phía tây nước Anh. 
Bốc hơi 
Bốc hơi nước là một quá trình nước chuyển 
từ thể lỏng sang thể hơi hoặc khí. Bốc hơi 
nước là đoạn đường đầu tiên trong vòng 
tuần hoàn mà nước chuyển từ thể lỏng thành 
hơi nước trong khí quyển. Nhiều nghiên cứu 
cho thấy rằng các đại 
dương, biển, hồ và sông cung cấp gần 
90% độ ẩm của khí quyển qua bốc hơi, với 
10% còn lại do thoát hơi của cây. 
Nhiệt (năng lượng) là nhân tố cần thiết cho 
bốc hơi xuất hiện. Năng lượng được sử dụng 
để bẻ gãy những liên kết giữa các phân tử 
nước, nó là nguyên nhân tại sao nước có thể 
dễ dàng bốc hơi tại điểm sôi (212°F, 100°C) 
nhưng bốc hơi rất chậm tại điểm đóng băng. 
Khi độ ẩm tương đối không khí đạt 100%, 
tức là ở trạng thái bão hoà hơi nước, bốc hơi 
không thể tiếp tục diễn ra. Quá trình bốc hơi 
nước tiêu thụ nhiệt năng từ môi trường, đó 
là nguyên nhân tại sao nước bốc hơi từ da 
làm bạn mát. 
Bốc hơi nước từ các đại dương là cách chính 
để nước được luân chuyển vào trong khí 
quyển. Diện tích rất lớn của các đại dương 
(trên 70% diện tích bề mặt của Trái Đất 
được bao phủ bởi các đại dương) cung cấp 
những cơ hội lớn cho quá trình bốc hơi diễn 
ra. Trên phạm vi toàn cầu lượng nước bốc 
hơi cũng bằng với lượng giáng thủy. Mặc dù 
vậy, tỉ lệ giữa lượng nước bốc hơi và lượng 
giáng thuỷ biến đổi theo vùng địa lý. Thông 
thường trên các đại dương lượng bốc hơi 
nhiều hơn lượng giáng thủy, trong khi đó 
trên mặt đất, lượng giáng thủy vượt quá 
lượng bốc hơi. Phần lớn lượng nước bốc hơi 
từ các đại dương rơi ngay trên đại dương 
qua quá trình giáng thrủy. Chỉ khoảng 10% 
của nước bốc hơi từ các đại dương được vận 
chuyển vào đất liền và rơi xuống thành 
giáng thuỷ. Khi bốc hơi, một phân tử nước 
tồn tại trong khí quyển khoảng 10 ngày. 
[sửa]Nước khí quyển 
Mặc dù khí quyển không là kho chứa khổng 
lồ của nước, nhưng nó là một “siêu xa lộ” để 
luân chuyển nước khắp toàn cầu. Trong khí 
quyển luôn luôn có nước: những đám mây là 
một dạng nhìn thấy được của nước khí 
quyển, nhưng thậm chí trong không khí 
trong cũng chứa đựng nước - những phần tử 
nước này quá nhỏ để có thể nhìn thấy được. 
Thể tích nước trong khí quyển tại bất kỳ thời 
điểm nào vào khoảng 12.900 km3. Nếu tất cả 
lượng nước khí quyển rơi xuống cùng một 
lúc, nó có thể bao phủ khắp bề mặt trái đất 
với độ dày 2,5 cm. 
Sự ngưng tụ hơi nước là quá trình hơi nước 
trong không khí được chuyển sang thể nước 
lỏng. Ngưng tụ hơi nước rất quan trọng đối 
với chu trình tuần hoàn nước bởi vì nó hình 
thành nên các đám mây. Những đám mây 
này có thể tạo ra mưa, nó là cách chính để 
nước quay trở lại trái đất. Ngưng tụ hơi 
nước là quá trình ngược với bốc hơi nước. 
Sự ngưng tụ hơi nước cũng là nguyên nhân 
của hiện tượng sương, hoặc nước trên mắt 
kính khi ta đi từ một phòng lạnh đi ra ngoài 
trong một ngày nóng, ẩm ướt, còn trong một 
ngày lạnh nước có thể nhỏ giọt bên ngoài 
cốc uống nước hay có nước ở phía bên trong 
cửa sổ. 
[sửa]Sự ngưng tụ hơi nước 
Thậm chí trên những bầu trời trong xanh 
không một gợn mây, thì nước vẫn tồn tại 
dưới hình thức hơi nước và những giọt nước 
li ti không thể nhìn thấy được. Những phân 
tử nước kết hợp với những phân tử nhỏ bé 
của bụi, muối, khói trong khí quyển để hình 
thành nên các hạt nhân mây (giọt mây nhỏ, 
đám mây nhỏ), nó gia tăng khối lượng và 
phát triển thành những đám mây. Khi những 
giọt nước kết hợp với nhau, gia tăng về kích 
thước, những đám mây có thể phát triển và 
mưa có thể xãy ra. 
Các đám mây hình thành trong khí quyển do 
không khí chứa hơi nước bốc lên cao và lạnh 
đi. Phần quan trọng của quá trình này là 
không khí sát mặt đất ấm lên do bức xạ mặt 
trời. Nguyên nhân lớp khí quyển phía bên 
trên mặt đất lạnh đi là do áp lực không khí. 
Không khí có trọng lượng và tại mực nước 
biển trọng lượng của một cột không khí nén 
xuống trên đầu bạn khoảng 32 kg trên 
mỗiinch vuông, áp lực này, được gọi là khí 
áp, nó là kết quả của mật độ không khí trong 
cột không khí phía trên. Càng lên cao càng ít 
không khí phía bên trên, và vì thế càng ít áp 
lực. Khí áp thấp hơn và mật độ không khí 
giảm theo độ cao. Điều này làm cho không 
khí trở nên lạnh hơn. 
Giáng thủy 
Lượng giáng thủy trung bình hàng năm theo 
mm và inch trên thế giới. Vùng màu xanh 
nhạt là sa mạc. 
Giáng thủy là nước thoát ra khỏi những đám 
mây dưới các dạng mưa, mưa tuyết, mưa 
đá, tuyết. Nó là cách chính để nước khí 
quyển quay trở lại Trái Đất. Phần lớn lượng 
giáng thuỷ là mưa. Các hạt mưa hình thành 
như thế nào? 
Những đám mây trên bầu trời chứa hơi nước 
và những hạt nhân mây nhỏ, các hạt nhân 
mây này quá nhỏ để có thể rơi xuống thành 
mưa, nhưng nó cũng đủ lớn để hình thành 
nên các đám mây có thể nhìn thấy được. 
Nước vẫn tiếp tục bốc hơivà ngưng tụ hơi 
nước trong bầu trời. Nếu nhìn gần một đám 
mây, ta có thể nhìn thấy những phần đang 
biến mất (đang bốc hơi) trong khi những 
phần khác đang phát triển (ngưng tụ). Phần 
lớn lượng nước được ngưng tụ trong các 
đám mây không rơi xuống thành giáng thuỷ. 
Vì để giáng thuỷ xảy ra, trước tiên những 
giọt nước nhỏ phải được ngưng tụ. Những 
phân tử nước có thể kết hợp với nhau thành 
những giọt nước lớn hơn và đủ nặng để rơi 
thành mưa. Cần tới hàng triệu hạt mây để 
hình thành chỉ một hạt mưa nhỏ. 
Lượng giáng thủy phân bố không đều trên 
thế giới, trong một nước hoặc thậm chí trong 
một thành phố. Ví dụ, tại Atlanta,Georgia, 
Mỹ, một trận mưa giông mùa hè có thể sản 
sinh ra một lớp nước mưa dày 2,5 cm hoặc 
nhiều hơn trên một con đường, trong khi đó 
ở một vùng khác cách đó vài km thì vẫn khô 
ráo. Nhưng, tổng lượng mưa một tháng tại 
Georgia thường nhiều hơn tổng lượng mưa 
năm tại Las Vegas, Nevada. Kỷ lục thế giới 
về lượng mưa năm trung bình thuộc về Đỉnh 
Waialeale, Hawaii với lượng mưa trung bình 
là 1.140 cm. Đặc biệt, tại Arica là 1.630 cm 
trong mười hai tháng (nghĩa là gần 5 cm mỗi 
ngày). Tương phản với lượng nước mưa dồi 
dào tại Arica, ở Chile đã từng không có mưa 
trong 14 năm. 
Nước băng và tuyết 
Nước được giử lâu dài trong băng, tuyết, và 
các sông băng là một thành phần của vòng 
tuần hoàn nước toàn cầu. Vùng Nam cực 
chiếm 90% tổng lượng băng của trái đất, các 
đỉnh núi băng ở Greenland chiếm 10% tổng 
lượng băng toàn cầu. Băng và sông băng đến 
và đi 
Trên phạm vi toàn cầu, khí hậu luôn luôn 
thay đổi một cách chậm chạp mà con người 
khó nhận biết. Đã từng có những thời kỳ ấm 
thuộc kỷ khủng long cách đây 100 triệu 
năm, và những thời kỳ lạnh, như kỷ băng hà 
cuối cùng cách đây 20.000 năm. Trong kỷ 
băng hà cuối cùng này nhiều nơi của bắc bán 
cầu bị bao phủ trong băng và những dòng 
sông băng. Gần hết Canada, nhiều vùng phía 
Bắc Châu Á và Châu Âu, một vài vùng ở 
nước Mỹ cũng bị những dòng sông băng bao 
phủ. Bản đồ thế giới trình bày những vùng 
sông băng tồn tại cách đây 20.000 năm 
Một vài sự thật về các dòng sông băng và 
những đỉnh núi băng 
 Băng hà bao phủ 10 - 11% lục địa trái 
đất 
 Nếu tất cả băng hà tan chảy ngày nay, 
mực nước biển sẽ tăng lên khoảng 70 m 
(nguồn: Trung tâm Tư liệu Băng và Tuyết 
Quốc gia) 
 Trong kỷ băng hà cuối cùng, mực nước 
biển thấp hơn ngày nay khoảng 122 m, và 
những dòng sông băng bao phủ gần 1/3 
lục địa trái đất. 
 Trong thời kỳ ấm cuối cùng, cách đây 
125.000 năm, mực nước biển cao hơn 
ngày nay khoảng 5,5 m. Khoảng 3 triệu 
năm trước đây nước biển có thể đã cao đến 
hơn 50,3 m. 
[sửa]Dòng chảy tuyết tan 
Trên toàn bộ thế giới dòng chảy tuyết là 
phần chính của sự luân chuyển nước toàn 
cầu. Trong thời kỳ mùa xuân ở những vùng 
khí hậu lạnh hơn, nhiều dòng chảy mặt và 
dòng chảy sông ngòi xuất phát từ tuyết và 
băng. Bên cạnh việc gây ra lũ lụt, tuyết tan 
nhanh có thể gây ra sạt lở đất và dòng chảy 
bùn đá. 
Để hiểu được dòng tuyết tan ảnh hưởng như 
thế nào đến dòng chảy sông ngòi có thể dựa 
vào biểu đồ đường quá trình lưu lượng trung 
bình ngày trong 4 năm của sông North Fork 
American tại đập North Fork ở California. 
Các đỉnh cao trong biểu đồ phần lớn là do 
dòng tuyết tan. So sánh các giá trị nhận thấy 
dòng chảy ngày trung bình nhỏ nhất trong 
tháng 3/2000 là 1.200 feet khối trên giây, 
trong khi đó lưu lượng trong tháng 8 là 55 - 
75 feet khối trên giây. 
Dòng chảy từ tuyết tan biến đổi theo mùa và 
theo năm. So sánh các đỉnh lũ giữa trận lũ 
lớn trong năm 2000 và trận lũ nhỏ hơn nhiều 
trong năm 2001, giống như có một trận hạn 
hán lớn ảnh hưởng đến California trong năm 
2001. Nhưng sự thiếu hụt nước là do nước 
được trữ trong băng vào mùa đông ảnh 
hưởng đến tổng lượng nước các tháng còn 
lại của năm. Sự thiếu hụt nước cũng ảnh 
hưởng đến lượng nước trong các hồ tại hạ 
lưu, và sự thiếu hụt nước ở các hồ lại ảnh 
hưởng đến lượng nước tưới và nước cấp 
thành phố. 
Dòng chảy mặt 
Nhiều người chỉ nghĩ đơn giản rằng mưa rơi, 
chảy tràn trên mặt đất (dòng chảy mặt) và 
chảy vào sông, sau đó đổ ra các đại dương. 
Đó là sự đơn giản hoá, bởi vì các sông còn 
nhận và mất nước do thấm. Tuy nhiên, 
lượng lớn nước trong sông là do dòng chảy 
trực tiếp trên mặt đất cung cấp và được định 
nghĩa là dòng chảy mặt. 
Thông thường, một phần nước mưa rơi thấm 
ngay vào đất, nhưng khi đất đạt tới trạng 
thái bão hoà hay không thấm, thì bắt đầu 
chảy theo sườn dốc thành dòng chảy. Trong 
một trận mưa lớn, bạn có thể nhìn thấy các 
dòng nước nhỏ chảy xuôi sườn dốc. Nước sẽ 
chảy theo những kênh trên mặt đất trước khi 
chảy vào trong các sông lớn. Hình vẽ biểu 
diễn dòng chảy mặt (dòng chảy ra từ con 
đường) chảy vào một con lạch nhỏ như thế 
nào. Trong trường hợp này dòng chảy mặt 
chảy trên những vùng đất trống và lắng đọng 
bùn cát vào trong sông (không tốt cho chất 
lượng nước). Dòng chảy mặt chảy vào sông, 
lại bắt đầu hành trình quay trở về đại dương. 
Cũng giống như tất cả các thành phần khác 
trong vòng tuần hoàn nước, quan hệ giữa 
mưa và dòng chảy cũng biến đổi theo thời 
gian và không gian. Những trận mưa tương 
tự nhau xuất hiện trong vùng rừng rậm 
Amazon và trong vùng sa mạc tây bắc nước 
Mỹ sẽ sản sinh những dòng chảy mặt khác 
nhau. Dòng chảy mặt bị chi phối bởi các 
nhân tố khí tượng địa vật lý và địa hình. Chỉ 
khoảng 1/3 lượng nước mưa rơi trên bề mặt 
đất chảy vào sông suối và quay trở lại đại 
dương. 2/3 còn lại bị bốc thoát hơi hoặc 
thấm vào nước ngầm. Con người thường sử 
dụng nước cho các mục đích khác nhau từ 
dòng chảy nước mặt. 
Dòng chảy sông ngòi 
Cục Địa chất Mỹ định nghĩa “dòng chảy” là 
lượng nước chảy trong sông, suối, hoặc lạch 
nước. 
Sông ngòi rất quan trong không chỉ đối với 
con người mà đối với cuộc sống khắp mọi 
nơi. Sông ngòi không chỉ là một nơi rộng 
lớn cho con người và những con vật của họ 
hoạt động, con người còn sử dụng nước 
sông cho nhu cầu nước uống và nước tưới, 
sản xuất ra điện, làm sạch chất thải (xử lý 
nước thải), giao thông thuỷ, và kiếm thức 
ăn. Sông ngòi còn là môi trường sống chính 
cho tất cả các loài động và thực vật nước. 
Sông ngòi bổ sung cho tầng ngậm nước 
ngầm dưới mặt đất qua lòng sông, và tất 
nhiên cả đại dương. 
Một điều rất quan trọng khi nghiên cứu về 
sông ngòi là phải xem xét các lưu vực sông. 
Lưu vực sông là gì? Nếu bạn đang đứng trên 
mặt đất ngay bây giờ, hãy nhìn xuống. Bạn 
và tất cả mọi người đang đứng trên một lưu 
vực sông. Một lưu vực sông là vùng mà tại 
đó tất cả nước rơi và tiêu thoát chảy theo 
cùng một dòng. Lưu vực sông có thể chỉ nhỏ 
bằng một vết chân trên bùn hoặc đủ rộng để 
bao phủ toàn bộ vùng thoát nước vào trong 
sông Mississippi ở đó nước chảy vào Vịnh 
Mexico. Các lưu vực nhỏ hơn được chứa 
trong những lưu vực lớn hơn. Các lưu vực 
sông rất quan trọng vì dòng chảy và chất 
lượng nước của một con sông chịu tác động 
của nhiều thứ, có ảnh hưởng của con người 
hay không có ảnh hưởng của con người, 
xuất hiện trong những vùng phía trên mặt 
cắt cửa ra của lưu vực. Dòng chảy sông ngòi 
luôn luôn biến đổi 
Dòng chảy sông ngòi luôn thay đổi từng 
ngày thậm chí từng phút. Tất nhiên, mưa tác 
động chính tới dòng chảy trên các lưu vực. 
Mưa rơi làm tăng mực nước sông, và mực 
nước sông có thể tăng ngay cả khi mưa ở rất 
xa trên lưu vực sông. Ghi nhớ rằng nước 
mưa rơi trên lưu vực cuối cùng phải chảy ra 
ở mặt cắt cuối lưu vực. Độ lớn của sông phụ 
thuộc vào độ lớn của lưu vực. Sông lớn có 
lưu vực sông rộng, sông nhỏ có lưu vực 
sông nhỏ hơn. Tương tự như vậy, sông có 
kích thước khác nhau tác động khác nhau 
lượng mưa rơi. Trong các sông lớn mực 
nước lên xuống chậm hơn các sông nhỏ. 
Trong lưu vực nhỏ, mực nước sông có thể 
lên xuống tính theo phút và giờ. Những sông 
rộng có thể mất vài ngày để biến đổi mực 
nước lên xuống và thời gian lũ lên có thể 
kéo dài vài ngày. 
[sửa]Lượng trữ nước ngọt 
Nước ngọt trên mặt đất, một thành phần của 
chu trình nước, yếu tố cần thiết cho mọi sự 
sống trên trái đất. Nước mặt bao gồm nước 
trong các dòng sông, ao, hồ, hồ nhân tạo, và 
các đầm lầy nước ngọt. 
Lượng nước trong các sông và hồ luôn luôn 
thay đổi phụ thuộc vào lưu lượng vào và ra. 
Dòng chảy vào từ mưa, dòng chảy tràn trên 
mặt đất, lượng nước ngầm dưới đất, và 
lượng nước gia nhập từ các sông nhánh. 
Dòng chảy ra khỏi các hồ và sông bao gồm 
lượng bốc hơi và dung tích nước bổ sung 
cho nước ngầm. Con người cũng sử dụng 
nước mặt cho các nhu cầu thiết yếu của 
mình. Lượng và vị trí của nước mặt thay đổi 
theo thời gian và không gian, một cách tự 
nhiên hay dưới sự tác động của con người. 
Nước mặt duy trì sự sống 
Trong vùng châu thổ sông Nile ở Ai Cập, 
cuộc sống có thể sinh sôi tại những vùng sa 
mạc nếu được cung cấp đủ lượng nước (mặt 
hoặc ngầm). Nước trên mặt đất thực sự giúp 
duy trì cuộc sống. Nước ngầm tồn tại thông 
qua sự di chuyển của nước mặt vào trong 
tầng nước ngầm dưới mặt đất. Nước ngọt 
trên bề mặt trái đất tương đối khan hiếm. 
Chỉ khoảng 3% của tổng lượng nước trái đất 
là nước ngọt, các hồ nước ngọt và các đầm 
(nước) ngọt chiếm 0,29% tổng lượng nước 
ngọt trên trái đất, hồ BaiKal ở Châu Á 
chiếm 20% tổng lượng nước ngọt trên trái 
đất, Hồ Lớn (Huron, MichiGan, và Superior) 
cũng chiếm 20% tổng lượng nước ngọt trên 
trái đất. Các sông chỉ chiếm khoảng 0,006% 
tổng lượng nước ngọt trên trái đất. Ta có thể 
nhận thấy rằng nước ngọt, yếu tố cần thiết 
cho sự tồn tại cuộc sống trên trái đất, chỉ 
chiếm một phần cực nhỏ “một giọt nước 
trong biển cả mênh mông” của tổng lượng 
nước trên trái đất. 
[sửa]Thấm 
Bất cứ nơi nào trên thế giới, một phần lượng 
nước mưa và tuyết đều thấm xuống lớp đất 
và đá dưới bề mặt. Lượng thấm bao nhiêu 
phụ thuộc vào một số các nhân tố. Trên đỉnh 
băng của Greenland lượng nước mưa thấm 
xuống là rất nhỏ, ngược lại, một dòng sông 
chảy vào trong hang động ở vùng Georgia, 
Mỹ, cho thấy sông cũng có thể chảy trực 
tiếp vào trong nước ngầm. 
Một phần lượng nước thấm xuống sẽ được 
giữ lại trong những tầng đất nông, ở đó nó 
có thể chảy vào sông nhờ thấm qua bờ sông. 
Một phần nước thấm xuống sâu hơn, bổ 
sung cho các tầng nước ngầm. Nếu tầng 
nước ngầm nông hoặc đủ độ rỗng để cho 
phép nước chảy tự do qua nó, con người có 
thể khoan các giếng trong tầng nước ngầm 
này và sử dụng nước cho những mục đích 
của mình. Nước ngầm có thể di chuyển được 
những khoảng cách dài hoặc được trữ lại 
trong tầng nước ngầm trong một thời gian 
dài trước khi quay trở lại bề mặt hoặc qua 
thấm vào các thuỷ vực khác, như thấm vào 
các sông và đại dương. 
Khi nước mưa thấm v