TÓM TẮT
Vũ Bằng có một mảng sáng tác về đời sống và đời viết của những nhà văn cùng thời với ông. Đó
là chân dung những nhà văn được dựng nên bằng những hồi ức, bằng những tình cảm nhớ
thương, quý trọng và cả biết ơn.
Qua chân dung những nhà văn cùng thời được mô tả rất thật và sinh động, Vũ Bằng cho người
đọc hiểu hơn về cuộc sống, tâm hồn, phong cách và tài năng của họ. Đồng thời, người đọc cũng
thấy được diện mạo của văn học Việt Nam những năm ba mươi, bốn mươi của thế kỉ hai mươi.
7 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 244 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vũ Bằng và việc xây dựng chân dung các nhà văn cùng thời, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VŨ BẰNG VÀ VIỆC XÂY DỰNG CHÂN DUNG CÁC NHÀ VĂN CÙNG THỜI
HÀ MINH
CHÂU
(*)
TÓM TẮT
Vũ Bằng có một mảng sáng tác về đời sống và đời viết của những nhà văn cùng thời với ông. Đó
là chân dung những nhà văn được dựng nên bằng những hồi ức, bằng những tình cảm nhớ
thương, quý trọng và cả biết ơn.
Qua chân dung những nhà văn cùng thời được mô tả rất thật và sinh động, Vũ Bằng cho người
đọc hiểu hơn về cuộc sống, tâm hồn, phong cách và tài năng của họ. Đồng thời, người đọc cũng
thấy được diện mạo của văn học Việt Nam những năm ba mươi, bốn mươi của thế kỉ hai mươi.
ABSTRACT
Through the real lively description, readers will know more about the writers’life, their thoughts,
style, and talents as well as the aspect of Vietnamese Literature in the 30s, 40s of the 20
th
century.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Cuộc đời, tư tưởng của bất cứ một nhà văn lớn nào cũng có ảnh hưởng sâu sắc đến tác phẩm văn
học – con đẻ tinh thần của họ. Nắm bắt được đầy đủ, cụ thể, chi tiết về những ước mơ, hoài bão,
những thăng trầm trong cuộc đời và cả những tính cách, thói quen của các nhà văn, người đọc sẽ
có thêm điều kiện hiểu sâu sắc tác phẩm của nhà văn.
2. NỘI DUNG
Nhiều nhà văn Việt Nam, sau quá trình sống và sáng tác, đã viết tự truyện, hồi kí kể lại cuộc đời
viết văn của mình, trong đó có những câu chuyện liên quan đến đồng nghiệp, đến diện mạo văn
học. Đời viết văn của tôi của Nguyễn Công Hoan, Bước đường viết văn của Nguyên Hồng, Cát
bụi chân ai, Chiều chiều của Tô Hoài, Hồi ký song đôi của Huy Cận là những hồi kí mà qua
đó, người đọc biết và hiểu rõ hơn về chuyện đời, chuyện văn của những văn nghệ sĩ.
Vũ Bằng không viết về chính cuộc đời viết văn của ông nhưng trong hồi kí về cuộc đời làm báo
(Bốn mươi năm nói láo), về chuyện cai thuốc phiện (Cai), ông luôn đề cập đến bạn văn và những
câu chuyện về làng văn Việt Nam hồi tiền chiến. Ngoài Nhà văn lắm chuyện tập hợp những câu
chuyện vui về các nhà văn, Vũ Bằng còn viết nhiều bài dựng chân dung các đồng nghiệp đăng
trên Tạp chí Văn học (Sài Gòn) từ những năm sáu mươi.
Nổi rõ trong những câu chuyện làng văn của Vũ Bằng là những vấn đề về cuộc sống và sáng tác
của các nhà văn, nhà thơ, có chuyện lành chuyện dữ, có chuyện vui chuyện buồn, có những lúc
thuận buồm xuôi gió, có lắm khi lên thác xuống ghềnh. Có khi Vũ Bằng kể chuyện về một
khoảnh khắc, có khi là chuyện về một quãng đời hoặc đôi khi là cả một đời văn.
Từng phụ trách việc đọc, sửa, chọn bài và trông nom phần kĩ thuật của Tiểu thuyết thứ bảy,
Truyền bá, Phổ thông Bán nguyệt san, Vũ Bằng được giao thiệp với đủ mặt anh em văn nghệ sĩ,
được kết giao với nhiều bạn mới. Ông xem đó là được cái may. Vũ Bằng ý thức rằng: “Trừ vấn
(*)
NCS, Khoa Sư phạm Khoa học xã hội, Trường Đại học Sài Gòn
đề nhuận bút hay vay mượn, anh em viết văn lúc đó hầu hết đều tiếp xúc với tôi, cho nên ngoài
cái lợi được học hỏi thêm về văn hoá, văn chương ngoại quốc, ngoài cái lợi rút kinh nghiệm và
trau dồi nghề nghiệp, tôi lại còn được biết rõ hơn về tài đức, tư tưởng, sở trường, sở đoản của
từng anh em văn nghệ” (2, 365).
Nhà văn Tam Ích từng viết thư tâm sự cùng Vũ Bằng:“Đời nhà văn và chuyện nhà văn thiếu gì
chuyện thực như voi, không lấy nón úp được mà cứ như là vọng ngôn” (3, 633). Vũ Bằng viết
chân dung đồng nghiệp cùng thời, dựng lại bóng dáng người xưa trong niềm bâng khuâng nghĩ
đến những bạn văn cùng cộng tác với nhau, trong sự am tường, thấu hiểu, trong quan niệm văn
sĩ là người và trong ý thức lời nói đọi máu. Vì lẽ đó, ông đã viết trong sự thành thật với những
nhớ thương, quý tiếc, trân trọng, biết ơn và cả hối hận. Chân dung nhà văn của Vũ Bằng là chân
dung hồi kí. Bởi lẽ tất cả được vẽ lại bằng trí nhớ, bằng hồi ức, bằng tâm tưởng.
Vũ Bằng có nhiều bạn văn nhưng những người được ông dựng chân dung là những người ông
quý trọng cả về tài năng lẫn nhân cách. Đó là các nhà văn, nhà thơ: Tản Đà, Hoàng Ngọc Phách,
Ngô Tất Tố, Nguyễn Tuân, Tú Mỡ, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Vũ Hoàng Chương, Nguyễn
Bính, Thâm Tâm, Quang Dũng, Tam Ích, Vũ Đình Long, Tô Hoài, Hữu Loan, Văn Cao, Thạch
Lam, Khái Hưng, Nguyễn Nhược Pháp, Đái Đức Tuấn, Hồ Dzếnh,v.v.
Vũ Bằng không dựng chân dung theo một khuôn mẫu nào. Bởi lẽ, mỗi nhà văn để lại trong ông
những ấn tượng khác nhau - có thể đó là hoàn cảnh sống, là tính cách, tài năng, là những điều
bình thường lẫn khác thường. Tất cả được dựng lại trong trí nhớ của Vũ Bằng và khi thể hiện,
Vũ Bằng tránh sự kể lể khô khan hoặc theo kiểu liệt kê năm tháng, sự kiện, mà bày tỏ tình cảm
và phân tích, nhận định, đánh giá. Chính từ ý thức đó, ông đã dựng nên những chân dung có
dáng dấp, có máu thịt, có sức, có hồn qua đời sống và đời viết của họ. Từ những chân dung riêng
lẻ, ta thấy những điểm tương đồng và cả những khác biệt của các nhà văn.
2.1. Đời sống
Làng văn Việt Nam thời trung đại đã từng tồn tại một Cao Bá Quát nghèo khó, dạy học trò kiếm
tiền độ nhật, một Tú Xương gạo cứ lệ ăn đong một bữa. Đến thời tiền chiến, đời sống vật chất
của các nhà văn cũng không khác gì. “Ở Việt Nam hồi tiền chiến, số nhà văn nghèo nhiều hơn số
nhà văn giàu. Nói thật đúng ra, ở Việt Nam ít có nhà văn giàu” (9, 550). Vũ Bằng không nằm
trong số những nhà văn nghèo. Tuy nhiên, cùng sống, cùng làm việc, ông am hiểu tường tận và
đồng cảm, sẻ chia sâu sắc với cái nghèo, cái khổ của bạn văn.
Đó là một Vũ Trọng Phụng với cuộc đời khổ ải, đắng cay, viết tối tăm mặt mũi, viết đến nỗi lao
tâm lao tứ nhưng khi chết, ông vẫn phải chết trong nghèo nàn túng thiếu. Đó là một Nam Cao
nghèo nhất trong các nhà văn, phải nuôi bà, mẹ, vợ và một đàn con. Đó còn là một Trần Huyền
Trân sống heo hút trong một cái chòi đánh cá trên sông, thường thường mỗi tháng nhịn ăn ít nhất
cũng năm sáu ngày. Đó cũng là một Thâm Tâm cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, cả gia đình
người nào người nấy trông buồn và xanh như thiếu máu. Và đó còn là một Nguyễn Bính gần hết
kiếp người đi ở nhờ nhà của bạn,v.v. Quả là ngòi bút khó nuôi được nhà văn và người thân.
Nói tuốt tuồn tuột hoàn cảnh sống của các nhà văn cũng là cái cách Vũ Bằng khẳng định phẩm
cách và tài năng của họ: nghèo nhưng không phàn nàn than thở, nghèo nhưng vẫn giữ được tiết
tháo, không vì nghèo mà sợ kẻ giàu, không vì nghèo mà phải gục đầu với kẻ mạnh, không vì
nghèo mà sợ khó khăn vất vả (2, 373), khổ thế nào cũng thuỷ chung như nhất với anh em. Hơn
nữa, chính trong hoàn cảnh nghèo túng đó, tác phẩm - những đứa con máu thịt của họ - đã nên
vóc nên hình.
Quan niệm nhà văn cũng là người, Vũ Bằng rất tự nhiên kể lại những thú chơi gọi là dật lạc của
họ, trong đó có ông. Thời đó, các nhà văn cảm nhận về lẽ sống là sống thật, sống đủ đầy, sống
cho bõ sống nên họ sống nhiều, sống gấp với rượu chè, hút xách, hát cô đầu và cả cờ bạc. Thế
Lữ, Lưu Trọng Lư, Thạch Lam, Nguyễn Tuân, Thâm Tâm, Đái Đức Tuấn, Tam Ích, Nguyễn
Bính là những nhà văn như thế. Họ vui thú với những cuộc chơi, để tận hưởng thú vui trần thế,
để thoát li hiện tại, phiêu diêu trong trạng thái bay bổng, và cũng để tìm nguồn cảm hứng cho
những trang văn, trang thơ. Chính tại những nơi ăn chơi đó, trong những lúc rượu say phiện đã,
ý tưởng đã nảy sinh - người thì vừa hút vừa nghĩ, người thì vừa uống vừa bàn (1, 62)
Miêu tả những thú chơi của bạn văn, Vũ Bằng không xem đó là những thú tật, những điều đáng
chê trách. Bởi lẽ, nói như Văn Giá, Vũ Bằng cũng là người ham chơi thuộc diện có tiếng và xem
những niềm sinh thú là một lẽ tự nhiên trong cuộc sống con người. Cho nên, Vũ Bằng không
thuyết minh cho những chân dung bằng cách tô hồng cái tốt, che lấp cái không hay. Ông trung
thực với những điều vốn dĩ đã từng tồn tại trong cuộc sống đời thường của đồng nghiệp. Có kể ra
thế mới thấy Nam Cao và Vũ Trọng Phụng là hai trường hợp đặc biệt, không vướng vào những
dật lạc, không nằm dài chốn nhà hút, xóm cô đầu, chỉ chú tâm viết, lại viết thật hay. Đọc Lục xì,
Làm đĩ, Lấy nhau vì tình, Cạm bẫy người của Vũ Trọng Phụng, người đọc có khi nghĩ nhà văn là
một tay chơi có hạng. Thôi, đi về, Từ ngày mẹ chết, Mua nhà, Chí Phèo, Trẻ con không được ăn
thịt chó của Nam Cao là những truyện sinh động về những con bạc và những cơn say. Điều
này gián tiếp lí giải về tài năng của nhà văn, cụ thể là khả năng quan sát và thể hiện.
Viết về đời sống của các nhà văn, Vũ Bằng chú ý đến đời sống tinh thần, tình cảm của họ. Ông
nói về thời kì các nhà văn thích nói tiếng Pháp, bắt đầu tìm hiểu tinh hoa Âu Tây, thích đọc
những tác phẩm văn chương phương Tây, đặc biệt là văn học Pháp. Nam Cao thích đọc
Alphonse Daudet, Vũ Bằng và Nguyễn Tuân thích Dostoievsky, Lưu Trọng Lư mê André
Gide Trong Văn thi sĩ tiền chiến, Nguyễn Vỹ cũng đề cập đến việc nhà văn Lan Khai, Lưu
Trọng Lưu, Vũ Bằng,v.v. thường nằm trong các tiệm thuốc phiện với những quyển sách Pháp,
tiểu thuyết hoặc thơ. Theo Vũ Bằng, đó cũng là thời điểm cảm xúc, tâm hồn của người Việt Nam
– nhất là thanh niên - chuyển mình mà chính người trong cuộc nhiều khi không biết (5, 284). Rõ
rệt nhất là sự chuyển mình trong quan niệm về sự yêu thương và hạnh phúc, về đời sống tinh
thần của mỗi người. Riêng với nhà văn, đó là sự tiếp thu, chịu ảnh hưởng từ phương Tây về quan
niệm, phong cách, thể loại trong sáng tác.
Quan niệm văn thi sĩ vốn là người lính tiên phong trên con đường tư tưởng và xúc cảm, Vũ Bằng
đề cập đến những mối quan hệ riêng tư, những cuộc tình đau khổ của bạn văn. Điều đó cũng giải
thích nguyên cớ của cái buồn, cái đau, cái sầu, cái thảm trong những sáng tác đã từng gây âm
vang và vẫn mãi neo đậu trong lòng người thưởng thức. Chính những mối tình lãng mạn gieo
vào lòng văn thi sĩ nỗi buồn mênh mang đã tạo nên cảm xúc, ý tưởng. Văn học Pháp đã từng có
Lamartine với truyện Graziella, bài thơ Premier regret, Arvers với bài Sonet Malherbe, Stance à
Du Perrier, Apollinaire với Le pont Mirabeau. Đó là những sáng tác ra đời bắt nguồn từ những
cuộc tình tan vỡ. Vũ Bằng nhắc đến trường hợp Nguyễn Bính yêu vụng nhớ thầm, yêu mà không
được chia sẻ tình yêu đã làm nên Lỡ bước sang ngang. Tản Đà nếm trải cái mùi vị thiết tha, say
sưa, cay đắng của ái tình mà làm nên những bài thơ thương mây khóc gió. Hoàng Ngọc Phách bị
một hình ảnh người đẹp ám ảnh, lấy người ấy làm nhân vật sống để viết nên câu chuyện hận tình,
sầu thảm “Tố Tâm”.
Sau những mối quan hệ riêng tư, Vũ Bằng quan tâm đến tinh thần, ý thức về đất nước, xã hội của
các nhà văn. Điều đáng trân trọng là Vũ Bằng viết chân dung các nhà văn, nhà thơ trong khi
đang ở đô thị Sài Gòn trước 1975 nhưng có thể nói, ông không viết theo thiên kiến chính trị,
cũng không hề tỏ thái độ sợ sệt, mà xem việc các bạn văn yêu nước, hoà vào cuộc kháng chiến
chống giặc cứu nước của dân tộc là lẽ đương nhiên. Về thái độ này, ta cũng bắt gặp ở Tạ Tỵ,
Nguyễn Vỹ. Vũ Bằng đã phác lại bầu không khí xã hội những năm bốn mươi: “Về phương diện
chính trị, Pháp đô hộ ta, đất nước, với một bề ngoài thanh bình giả tạo, nuôi một mối oan hờn,
chỉ rình cơ hội để phát tiết ra” (5, 226). Trước thực tế đó, một anh học trò sơ học lúc ấy cũng
cảm thấy cái nhục “mất nước” và muốn làm một cái gì (5, 226). Hành động bỏ thành theo kháng
chiến của các nhà văn Bùi Hiển, Lý Văn Sâm, Nguyễn Tất Thứ, Tô Hoài, Nguyên Hồng, Thâm
Tâm, Trần Huyền Trân, Nam Cao, Nguyễn Bính, với Vũ Bằng, là hành động của những người
biết suy nghĩ . Kể chuyện văn thi sĩ bị tù đày, bị tra tấn (trong đó có Tam Ích, Nguyễn Bính),
chuyện Nam Cao hi sinh trên chiến trường, Vũ Bằng tỏ thái độ cảm phục họ - những tấm gương
yêu nước sáng ngời. Cần nói thêm, đây là vấn đề vô cùng nhạy cảm đối với nhà văn bên này
chiến tuyến lại nói về chuyện một thời bên kia chiến tuyến. Khi ung dung kể lại những điều này,
Vũ Bằng đã khẳng định bản lĩnh, cách nhìn và cái tâm của ông về con người, cuộc sống. Nó
cũng cho ta hiểu hơn những phẩm chất tốt đẹp của những nhà văn - vốn là những con người bình
thường. Theo chân Nguyễn Trãi, Nguyễn Đình Chiểu, họ tiếp tục làm phong phú thêm đội ngũ
những nhà văn, nhà thơ yêu nước.
Trong mối quan hệ gắn bó lâu dài cùng sống, cùng sáng tác, Vũ Bằng có cái nhìn khá tinh tế về
tính cách của từng người - không ai giống ai, không có một mẫu chung. Ở mỗi người, Vũ Bằng
đều nhận ra những cá tính riêng. Ngô Tất Tố ngăn nắp, quy củ, nho nhã. Lưu Trọng Lư lúc nào
cũng lơ mơ như ở trên mặt trăng rớt xuống. Tô Hoài hiền lành, chân thành nhưng ranh mãnh.
Thâm Tâm “lì” và “kín”. Đái Đức Tuấn thân tình, khiêm nhường, suốt một đời chỉ sống với
bạn, vì bạn, cho bạn. Vũ Trọng Phụng ít nói, khảnh ăn, tiết kiệm từng đồng xu. Thạch Lam lạnh
lẽo, ít nói, ít cười, khiêm nhường, nhẹ nhàng, lặng lẽ. Nam Cao hiền lành, tử tế, chân thật và
nhũn nhặn, Khái Hưng lanh chân, lẹ miệng. Vũ Bằng hiểu bạn đến thế là cùng.
Đề cập đến đời sống, trong đó có hoàn cảnh, đời tư, tính cách, tâm hồn, Vũ Bằng muốn lí giải:
những điều này có ảnh hưởng đến đời viết, đến quá trình hình thành tác phẩm của các nhà văn.
Mặt khác, khi nói về đời sống của mỗi nhà văn, bao giờ Vũ Bằng cũng đặt nhân vật của mình
trong mối quan hệ với các nhân vật nhà văn khác. Do vậy, ta không chỉ biết, chỉ hiểu về nhân vật
chính mà qua đó còn thấy được hoàn cảnh, không khí chung của thời kì hoạt động văn học đó.
Nói cách khác, trong đời sống văn học có dấu ấn của đời sống các nhà văn, nhà thơ. “Hai chữ
Làng Văn rất là thông dụng thời bấy giờ, “làng” chính là ngụ ý đại gia đình, ý nghĩa anh em
thân thuộc” (9, 536).
2.2. Đời viết
Thấu hiểu hoàn cảnh, sở thích, tính cách của những bạn văn thời tiền chiến, Vũ Bằng nhận ra khả
năng, ý thức, cá tính của họ trong sáng tạo văn chương. Như đã nói, Vũ Bằng dựng chân dung
không theo một khuôn mẫu có sẵn mà từ chính sự phong phú trong đời sống, đời viết của bản
thân các nhà văn và từ cách nhìn, cách nghĩ của Vũ Bằng về những nhà văn ấy.
Không nói đến nguyên cớ đưa các bạn văn đến với con đường viết lách, rồi gắn chặt đời mình
với nghiệp văn chương nhưng Vũ Bằng cho thấy khi đã vào nghề thì mỗi người đều có phong
cách riêng với những đóng góp riêng.
Từng nhắc đến cái nghèo của các nhà văn trong đời sống vật chất, Vũ Bằng cũng rất thành thật
nói về ảnh hưởng của sự nghèo túng đến thái độ viết, lối viết của họ. Tuy nhiên, ông cho thấy họ
sống kiếp nhà văn ngoài lí do hoàn cảnh khó khăn thì quan trọng nhất vẫn là xuất phát từ sự yêu
thích, say mê, từ niềm khao khát khôn nguôi đối với nghề và có cả cái duyên kiếp sẵn có của mỗi
nhà văn với việc cầm bút. Vũ Trọng Phụng đến với nghề văn còn vì thích viết văn, thích nghề
báo. Thâm Tâm viết còn là vì để trong lòng không nổi thì viết ra, hay Nguyễn Tuân viết là để
cho thoả cái lòng mình và chỉ viết khi nào thích chí thôi.
Theo Vũ Bằng, điều quan trọng đòi hỏi nhà văn phải có là khả năng, là năng khiếu, là cái tài.
Xuất phát từ sự cảm thụ các tác phẩm, từ việc quan sát cách sáng tác, sức sáng tác của nhà văn
và từ sự yêu thích của công chúng, Vũ Bằng đánh giá cái tài của bạn văn. Những truyện ngắn
đầu tay của Vũ Trọng Phụng đã là những truyện “bực thầy”. Cái tài của Vũ Trọng Phụng là chỉ
nghe kể đã hình dung, liên tưởng. Nam Cao viết truyện đầu tiên đã thành công ngay, rồi càng
viết càng hay. Đái Đức Tuấn là một nghệ sĩ tuyệt vời, tài hoa đến chân lông kẽ tóc. Ngô Tất Tố
là người mà Vũ Bằng không chỉ kính phục về đức độ, mà còn cả về văn tài, học lực.Tô Hoài
thuộc loại văn nghệ sĩ viết dễ dàng. Tản Đà say rượu làm thơ hay, là tay sành làm văn. Thâm
Tâm lúc say làm thơ rất nhanh, khi viết truyện thì viết một mạch từ đầu chí cuối không xoá, sửa
một chữ nào. Thanh Châu thấy bất cứ một sự việc gì cũng rung cảm mà lại viết nhanh, viết khoẻ.
Dưới mắt Vũ Bằng, từ niềm say mê, từ sự tài hoa, họ đã cống hiến cả cuộc đời cho nghề viết,
suốt cả một đời vẫn cứ âm thầm sống để mà viết (Vũ Trọng Phụng), viết chết thôi (Thâm Tâm)
với ý thức trách nhiệm và tinh thần luôn học hỏi, trau dồi. Vũ Trọng Phụng là người theo sát tình
hình quốc tế và là người tìm hiểu nhiều nhất những danh từ khó hiểu trong báo “Canard
enchainé”. Thanh Châu phàm đã viết thì phải thích, chớ không thể viết miễn cưỡng. Tạ Tỵ là
người trung thành với nghệ thuật. Tản Đà khi viết thì viết bằng những chữ chọn như thần, những
vần lựa rất thánh, chữ hay vần khéo. Tô Hoài là một nhà văn chuyên tìm tòi, học hỏi, không lúc
nào không chú tâm nhận xét thu thập tài liệu để làm một cái vốn cho công việc trước tác.
Cùng ăn, cùng chơi, cùng làm việc, cùng tâm sự nên Vũ Bằng cũng biết được quan niệm sáng
tác của các nhà văn. Quan niệm của Nam Cao về tiểu thuyết và đời người gom trong hai từ giản
dị: “ Đời không có nhiêu khê như người ta vẫn viết trong tiểu thuyết trữ tình. Đói thì ăn khát thì
uống. Tôi thấy thế nào cứ viết in như thế, không thêm bớt. Thế cũng đủ rồi, lọ là phải bầy đặt ra
thêm làm gì” (5, 39). Nguyễn Tuân quan niệm đi giang hồ phải vui vẻ, viết thì phải làm thoả cái
lòng mình. Thạch Lam cho rằng trong văn chương cũng như ngoài thực tế, lúc nào cũng thuần
nhất trong ý niệm về cái sống. Tô Hoài sống với nhiều người và đã tìm những người cùng một
tâm lý, tâm trạng, hoàn cảnh, ngưỡng vọng như nhau đúc lại thành nhân vật điển hình. Nhắc lại
những quan niệm ấy cũng là cái cách Vũ Bằng muốn lí giải phần nào về xuất phát điểm hình
thành nên phong cách sáng tác của họ.
Trong các chân dung, Vũ Bằng cũng chỉ ra những nét riêng thuộc phong cách, nói đến quá trình
sáng tác hoặc những tác phẩm tiêu biểu của các nhà văn, nhà thơ gắn liền với những chặng
đường sống của họ. Đồng thời, ông định giá vai trò và vị trí của họ trong nền văn học nước nhà,
cụ thể là những đóng góp của họ trong lịch sử văn học Việt Nam hiện đại. Do đó, có thể thấy, Vũ
Bằng viết chân dung văn học trong sự tụ hội cả văn tự sự lẫn văn phân tích bình luận.
Cùng dựng chân dung Nguyễn Tuân nhưng Nguyễn Vỹ (Văn thi sĩ tiền chiến) không khẳng định
tài năng và đánh giá vị trí của Nguyễn Tuân trong nền văn học dân tộc. Tạ Tỵ (Mười khuôn mặt
văn nghệ) đánh giá Nguyễn Tuân là một văn tài lỗi lạc của nền văn học Việt Nam. Riêng Vũ
Bằng cho rằng Nguyễn Tuân đã tìm được một lối đi riêng, truyện ngắn nào, tuỳ bút nào hay
truyện dài nào của Nguyễn Tuân cũng có đóng một thứ dấu riêng, có cái gì độc đáo, không
giống các nhà văn khác.
Nguyễn Vỹ đau buồn, thấy mất mát trước cái chết của Vũ Trọng Phụng: Vũ Trọng Phụng chết,
chúng tôi thấy một trống rỗng lớn trong làng văn Việt Nam ở những ngày tàn của thời Tiền
chiến (9, 74). Vũ Bằng nhìn cả đời văn của Vũ Trọng Phụng để khẳng định Vũ Trọng Phụng đã
phụng sự nghệ thuật vị nhân sinh, mất hơn mười năm (1952) vẫn chưa có người thay thế được.
Không chỉ dựng diện mạo cho chân dung mà hầu như với chân dung nào, Vũ Bằng cũng phân
tích, bình luận. Nhận xét về lối văn không cầu kì nhưng “đánh phát nào trúng phát ấy”, đi sâu
vào tâm hồn người của Nam Cao, tác giả cho rằng Nam Cao chết giữa lúc chiến tranh sôi động
là một thiệt thòi rất lớn cho phe văn nghệ. Nguyễn Bính là một nhà thơ bình dân nhưng đã gảy
đúng khúc đàn lòng của con người. Về phương diện văn chương cũng như về tác phong đạo đức
của Thạch Lam thì Thạch Lam quả là một con người độc đáo. Thơ Thâm Tâm làm rung động
lòng người, gieo vần chọn chữ rất tài tình, đặc biệt là dùng ít chữ mà nói lên rất nhiều ý nghĩ và
hình ảnh. Cho rằng Ngô Tất Tố là một nhà văn sống với dân chúng và phục vụ trung thành dân
chúng, Vũ Bằng khẳng định Ngô Tất Tố xứng được một chỗ ngồi trong văn học sử. Theo Vũ
Bằng, Song An Hoàng Ngọc Phách chính là một thứ văn gia, tiểu thuyết “của một cuốn sách”
trong văn học sử nước ta, giọng thơ Hữu Loan mộc mạc, thật thà tạo nên cái độc đáo, truyện
Trần Huyền Trân thì hay mà thơ thì tuyệt, riêng Tản Đà thì đã đánh một dấu son cho thi văn học
sử hiện đại, đã để lại những lời thơ trác tuyệt.
Dựng chân dung các bạn văn qua đời sống, đời viết của họ cũng có nghĩa là Vũ Bằng đã lí giải
về cách tồn tại của nhà văn trong nền văn học cũng như trong lòng công chúng.
Cách dựng chân dung của Vũ Bằng đa dạn