Tóm tắt
Vùng cửa sông, cửa biển, ven biển thường là nơi tích tụ các chất ô nhiễm có
nguồn gốc từ nội địa. Cửa Đại là nơi gặp nhau của ba con sông Thu Bồn, Trường
Giang và Đế Võng trước khi đổ về biển Đông, cửa biển này cũng là nơi tiếp nhận
phần lớn các hệ thống nước thải từ các khu công nghiệp và khu dân cư, tại đây
hàm lượng tổng kim loại Pb được tích lũy trong trầm tích ở các dạng liên kết. Kết
quả phân tích cho thấy hàm lượng tổng chì trong 5 mẫu trầm tích mặt tại Cửa Đại
dao động trong khoảng từ 42,182 mg/kg đến 358,981 mg/kg trong đó có 3/5 mẫu
cho thấy hàm lượng chì vượt quá giới hạn cho phép theo QCVN 43:2012/BTNMT
từ 2,57 đến 3,20 lần. Hàm lượng tổng kim loại Pb ở các vị trí chịu nhiều tác động
của con người đều cao hơn so với vị trí nền (cửa biển). Sử dụng quy trình chiết liên
tục cải tiến Tessier để xác định 5 dạng liên kết của kim loại Pb trong trầm tích, gồm
có dạng trao đổi, dạng liên kết với cacbonat, dạng liên kết với sắt và mangan oxit,
dạng liên kết với hợp chất hữu, dạng cặn dư. Chỉ số RAC được tính toán cho thấy
mức độ rủi ro ở mức trung bình đến mức cao.
7 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 434 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xác định hàm lượng tổng và hàm lượng các dạng liên kết của chì trong trầm tích mặt tại cửa Đại, Quảng Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu
Tạp chí Khoa học Tài nguyên và Môi trường - Số 16 - năm 2017
67
XÁC ĐỊNH HÀM LƯỢNG TỔNG VÀ HÀM LƯỢNG CÁC
DẠNG LIÊN KẾT CỦA CHÌ TRONG TRẦM TÍCH MẶT
TẠI CỬA ĐẠI, QUẢNG NAM
Đỗ Thị Hiền; Nguyễn Thành Trung
Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội
Tóm tắt
Vùng cửa sông, cửa biển, ven biển thường là nơi tích tụ các chất ô nhiễm có
nguồn gốc từ nội địa. Cửa Đại là nơi gặp nhau của ba con sông Thu Bồn, Trường
Giang và Đế Võng trước khi đổ về biển Đông, cửa biển này cũng là nơi tiếp nhận
phần lớn các hệ thống nước thải từ các khu công nghiệp và khu dân cư, tại đây
hàm lượng tổng kim loại Pb được tích lũy trong trầm tích ở các dạng liên kết. Kết
quả phân tích cho thấy hàm lượng tổng chì trong 5 mẫu trầm tích mặt tại Cửa Đại
dao động trong khoảng từ 42,182 mg/kg đến 358,981 mg/kg trong đó có 3/5 mẫu
cho thấy hàm lượng chì vượt quá giới hạn cho phép theo QCVN 43:2012/BTNMT
từ 2,57 đến 3,20 lần. Hàm lượng tổng kim loại Pb ở các vị trí chịu nhiều tác động
của con người đều cao hơn so với vị trí nền (cửa biển). Sử dụng quy trình chiết liên
tục cải tiến Tessier để xác định 5 dạng liên kết của kim loại Pb trong trầm tích, gồm
có dạng trao đổi, dạng liên kết với cacbonat, dạng liên kết với sắt và mangan oxit,
dạng liên kết với hợp chất hữu, dạng cặn dư. Chỉ số RAC được tính toán cho thấy
mức độ rủi ro ở mức trung bình đến mức cao.
Từ khóa: Cửa Đại, trầm tích, các dạng liên kết, Pb.
Abstract
Determination of total concentration and chemical forms of lead in surface
sediments collected from Cua Dai, Quang Nam
Cua Dai is the intersecting place of three rivers: Thu Bon, Truong Giang
and De Vong. This area receives most of the wastewater from coastal industrial
and residential areas. This paper presents a study results on concentrations of
lead in surface sediment samples collected at five locations in Cua Dai. Total
Pb concentrations ranged from 42,182 mg/kg to 358,981 mg/kg dry weight in
sediment samples. The total Pb content in the areas affected by human activities is
higher than that of the rivermouth substrate. Chemical forms in which the metal is
associated will not only determine the metal behaviour but also the mobility and
bioavailability within the environment. Sequential extraction procedures based on
the method proposed by Tessier et al., (1979) were used to determine five chemical
forms of Pb in sediments, including exchangeable, bound to carbonates, reducible,
oxidisable and residual. The RAC index calculated indicates that the level of risk is
between moderate to high.
Keywords: Cua Dai, sediment, chemical forms, Pb.
1. Mở đầu
Trong thời gian gần đây, vấn đề ô
nhiễm kim loại nặng bắt đầu được quan
tâm nhiều hơn tại Việt Nam xuất phát
từ thực trạng xả chất thải chứa kim loại
nặng từ các ngành công nghiệp, nông
nghiệp và dịch vụ như y tế, du lịch,
thương mại,... Trong môi trường thủy
sinh, trầm tích có vai trò quan trọng
trong sự hấp thụ các kim loại nặng bởi
sự lắng đọng của các hạt lơ lửng và các
quá trình có liên quan đến bề mặt các
vật chất vô cơ và hữu cơ trong trầm tích.
Nghiên cứu
Tạp chí Khoa học Tài nguyên và Môi trường - Số 16 - năm 2017
68
Đặc biệt, tại các vùng cửa biển diễn ra
quá trình nước trong lục địa đổ ra từ các
con sông có giá trị pH thấp mang theo
các cation kim loại ở dạng tan gặp nước
đại dương do sóng đưa vào có giá trị pH
cao, các cation kim loại sẽ kết tủa và
lắng đọng xuống trầm tích.
Khu vực Cửa Đại là nơi tiếp nhận
phần lớn các hệ thống nước thải từ các
khu công nghiệp, khai thác mỏ và khu
dân cư. Bên cạnh đó, vùng còn là nơi
chịu ảnh hưởng mạnh của các hoạt động
tàu thuyền, cảng biển, du lịch, nuôi trồng
thủy sản,... Các nguồn thải từ tự nhiên
và con người từ đất liền đã đưa vào cửa
biển lượng lớn các kim loại nặng, trong
đó có kim loại chì. Chì là một nguyên tố
có độc tính cao đối với con người. Khi
xâm nhập vào cơ thể, kim loại chì kết
hợp với một số enzym làm rối loạn hoạt
động của cơ thể, có thể gây ra các bệnh
ung thư, bệnh về xương,... Tuy nhiên,
độc tính của chì còn phụ thuộc vào dạng
liên kết cụ thể của nó. Dưới một số điều
kiện lí hóa nhất định ion kim loại chì từ
trong nước có thể tích lũy vào trầm tích
đồng thời cũng có thể hòa tan ngược trở
lại nước.
Nghiên cứu nhằm đánh giá mức độ
tích lũy hàm lượng tổng kim loại nặng
Pb trong trầm tích tại Cửa Đại và tỉ lệ của
các dạng liên kết của từng kim loại. Đó là
cơ sở để đề xuất các giải pháp giám sát và
quản lý chặt chẽ để giảm thiểu và ngăn
ngừa tác động tiêu cực của chúng đến hệ
sinh thái và hạn chế được ảnh hưởng xấu
đến sức khỏe con người.
2. Đối tượng và phương pháp
nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu: Trầm
tích mặt tại Cửa Đại - Quảng Nam.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Lấy mẫu, bảo quản và vận
chuyển mẫu
Các vị trí lấy mẫu được lựa chọn
trên cơ sở khảo sát thực tế và bản đồ địa
giới khu vực tiếp giáp giữa các cửa sông
với biển (tính theo tọa độ). Mẫu trầm
tích được lấy tại các vị trí trên đoạn sông
dài 3 km tính từ cửa biển vào sâu trong
đất liền. Thời gian lấy mẫu vào tháng 9
năm 2013.
Bảng 1: Tọa độ và đặc điểm vị trí các điểm lấy mẫu trầm tích
STT Ký hiệu mẫu Tọa độ Ghí chú
1 CD1
15.52.20.94 N
108.24.16.89E
Cửa biển, cách bờ về phía Nam 200m
2 CD2
15.52.20.29 N
108.23.31.31E
Điểm thắt, nơi cửa sông nối với biển, gần
bãi bồi
3 CD3 15.52.40.68 N
108.22.57.47E
Trong vịnh Cửa Đại, cách bờ về phía Đông
100m
4 CD4
15.52.5.02 N
108.22.0.01E
Nhánh sông giữa hai xã Duy Vinh và Duy
Thành
5 CD5
15.51.39.45 N
108.22.27.47E
Ngay gần chân cầu đang thi công, khu dừa
nước
Nghiên cứu
Tạp chí Khoa học Tài nguyên và Môi trường - Số 16 - năm 2017
69
Hình 1: Sơ đồ vị trí lấy mẫu trầm tích
Mẫu trầm tích mặt được lấy bằng
cuốc bùn Peterson ở lớp bề mặt khoảng
0 - 10 cm, trộn đều, tiến hành bao gói
cẩn thận bằng giấy nhôm, cho vào túi
polyetilen (PE) có kẹp và bảo quản
trong hộp, làm lạnh bằng đá muối. Mẫu
được gửi ngay về phòng thí nghiệm và
bảo quản ở điều kiện lạnh sâu (-200C).
Trước khi phân tích, mẫu trầm tích được
lấy ra khỏi tủ lạnh sâu, đập nhỏ và phơi
khô không khí rồi rây đến kích thước
0,2 mm [2].
2.2.2. Xử lý mẫu phân tích hàm
lượng tổng và hàm lượng các dạng liên
kết của kim loại
Mẫu xác định hàm lượng tổng kim
loại Pb được xử lý theo phương pháp vô
cơ hóa ướt. Để xác định hàm lượng các
dạng của kim loại Pb, mẫu được xử lý
dựa trên quy trình chiết liên tục cải tiến
của Tessier (Vũ Đức Lợi, 2010) [3,4,5].
- Xử lý mẫu xác định hàm lượng
các dạng liên kết:
Quy trình thực hiện được mô tả
trong hình 2.
- Xử lý mẫu xác định hàm lượng
tổng kim loại:
Cân chính xác 1,0 gam trầm tích
khô không khí vào bình tam giác, thêm
20 ml nước cường thủy (dung dịch hỗn
hợp HCl 36% : HNO3 68% theo tỉ lệ
3:1), đun ở 950C đến gần cạn thì lấy ra
để nguội, lặp lại quy trình đến khi không
còn khói bay lên. Sau đó định mức và
xác định Pb.
2.2.3. Xác định hàm lượng tổng
và hàm lượng các dạng liên kết của Pb
trong trầm tích
Dung dịch sau khi phá mẫu xác định
hàm lượng tổng kim loại và các dịch
chiết từ F1 đến F5 và được lọc qua giấy
lọc băng xanh và đo phổ hấp thụ nguyên
tử Pb với kỹ thuật ngọn lửa tại phòng thí
nghiệm Môi trường - trường Đại học Tài
nguyên và Môi trường Hà Nội.
Từ nồng độ của kim loại ở dung
dịch đo, tính toán hàm lượng của kim
loại trong trầm tích theo đơn vị mg/kg.
2.2.4. Đánh giá mức độ ô nhiễm
kim loại trong trầm tích theo quy chuẩn
kỹ thuật quốc gia và tiêu chuẩn quốc tế
Kết quả phân tích hàm lượng tổng
kim loại Pb được đánh giá thông qua
QCVN 43:2012/BTNMT - Quy chuẩn
kỹ thuật quốc gia về chất lượng trầm
tích, một số tiêu chuẩn về chất lượng
trầm tích của Mỹ, Canada [1, 6, 7].
Nghiên cứu
Tạp chí Khoa học Tài nguyên và Môi trường - Số 16 - năm 2017
70
Hình 2: Quy trình xác định hàm lượng các dạng liên kết của Pb trong trầm tích
Bảng 2: Tiêu chuẩn đánh giá ô nhiễm
kim loại Pb trong trầm tích theo hàm
lượng tổng của Canada (2002)
Mức độ ô nhiễm Hàm lượng Pb (mg/kg)
Yếu 32
Trung bình 48
Mạnh 64
Rất mạnh 96
Mức gây ảnh hưởng 112
Bảng 3: Tiêu chuẩn đánh giá ô nhiễm
kim loại nặng trong trầm tích theo hàm
lượng tổng của Mỹ (US EPA (1997))
Mức độ ô nhiễm Hàm lượng Pb (mg/kg)
Không ô nhiễm < 40
Ô nhiễm nhẹ 40-60
Ô nhiễm nghiêm trọng Lớn hơn 60
Kết quả phân tích các dạng liên kết
của kim loại được đánh giá qua chỉ số
đánh giá rủi ro RAC (Risk Assessment
Nghiên cứu
Tạp chí Khoa học Tài nguyên và Môi trường - Số 16 - năm 2017
71
Code). RAC là thông số để đánh giá
khả năng kim loại trong trầm tích giải
phóng vào nước, đi vào chuỗi thức ăn và
dẫn đến nguy cơ tích lũy kim loại nặng
trong cơ thể con người (Rath et.al, 2009
[9]). Trong trầm tích, ở dạng trao đổi
(F1) và dạng cacbonat (F2) kim loại liên
kết tương đối yếu với trầm tích do đó
dễ giải phóng vào nước và đi vào chuỗi
thức ăn. Vì vậy chỉ số RAC được tính
theo tổng phần trăm của dạng trao đổi
và cacbonat.
Bảng 4: Tiêu chuẩn đánh giá mức độ rủi
ro theo chỉ số RAC
Mức độ rủi ro RAC (%) (dạng F1+ F2)
Không < 1
Thấp 1-10
Trung bình 11-30
Cao 31-50
Rất cao > 50
3. Kết quả nghiên cứu
3.1. Kết quả phân tích hàm lượng
tổng Pb trong trầm tích mặt tại Cửa Đại
Kết quả phân tích hàm lượng tổng
Pb được thể hiện trong bảng 5.
Bảng 5: Hàm lượng tổng kim loại Pb trong trầm tích mặt Cửa Đại
Ký hiệu
mẫu
CD1 CD2 CD3 CD4 CD5
QCVN 43 :
2012/BTNMT
Tổng Pb
(mg/kg)
42,182 73,012 289,271 358,981 288,023
112
Tiêu chuẩn
Canada
Trung bình Rất mạnh
Mức gây
ảnh hưởng
Mức gây
ảnh hưởng
Mức gây
ảnh hưởng
Tiêu chuẩn
Mỹ
Ô nhiễm
nhẹ
Ô nhiễm
nghiêm
trọng
Ô nhiễm
nghiêm
trọng
Ô nhiễm
nghiêm
trọng
Ô nhiễm
nghiêm
trọng
Hàm lượng tổng chì trong 5 mẫu
trầm tích mặt tại Cửa Đại dao động
trong khoảng từ 42,182 đến 358,981
mg/kg. Có 3 trong 5 mẫu trầm tích có
hàm lượng chì vượt quá giới hạn cho
phép theo QCVN 43 : 2012/BTNMT.
Trong đó, vị trí CD4 (thuộc nhánh sông
giữa hai xã Duy Vinh và Duy Thành) có
hàm lượng tổng chì trong trầm tích mặt
cao nhất, vượt quá giới hạn cho phép 3,2
lần. Vị trí CD5 (gần cầu Cửa Đại đang
xây dựng) và CD3 (vịnh Cửa Đại, nơi
có nhiều tầu thuyền qua lại) vượt quá
giới hạn cho phép lần lượt là 2,57 và
2,58 lần. Hai vị trí CD1(cửa biển, cách
bờ về phía Nam 200m) và CD2 (điểm
thắt, nơi cửa sông nối với biển, gần bãi
bồi) đều có hàm lượng tổng chì trong
trầm tích mặt nằm trong mức cho phép
theo QCVN 43 : 2012/BTNMT.
Căn cứ vào hàm lượng tổng chì
trong các mẫu trầm tích mặt tại Cửa Đại
cho thấy trầm tích mặt tại các vị trí chịu
nhiều tác động từ hoạt động của con
người như giao thông, khai thác thủy
sản, du lịch và xây dựng có hàm lượng
chì cao. Các vị trí ở xa đất liền, chịu ít
ảnh hưởng của con người có hàm lượng
chì trong trầm tích thấp hơn.
Đối chiếu với 2 tiêu chuẩn của
Mỹ và Canada đều cho thấy mức độ ô
nhiễm Pb trong trầm tích mặt tại Cửa
Đại tại các vị trí CD2, CD3, CD4, CD5
rất nghiêm trọng và đã vượt ngưỡng gây
ảnh hưởng đến sức khỏe của người dân
trong khu vực. Bên cạnh đó, có thể thấy
rằng những vị trí ở sâu trong đất liền thì
mức độ ô nhiễm kim loại nặng cao hơn
nhiều so với vị trí cửa biển.
3.2. Kết quả phân tích hàm lượng
các dạng liên kết Pb trong trầm tích
mặt tại Cửa Đại
Hàm lượng các dạng kim loại chì
trong các mẫu trầm tích được trình bày
trong bảng 6 và hình 3.
Nghiên cứu
Tạp chí Khoa học Tài nguyên và Môi trường - Số 16 - năm 2017
72
Bảng 6. Hàm lượng các dạng Pb trong các mẫu trầm tích Cửa Đại
Đơn vị: mg/kg
STT Ký hiệu mẫu CD1 CD2 CD3 CD4 CD5
1 F1 2,695 3,717 1,678 1,993 5,751
2 F2 12,367 32,448 142,625 122,057 54,578
3 F3 15,567 36,979 116,626 192,726 128,805
4 F4 2,470 0,216 11,288 40,051 65,555
5 F5 13,163 6,177 27,503 27,659 49,808
6 Tổng
(F1+F2+F3+F4+F5)
46,262 79,537 299,722 384,486 304,497
Hình 3: Biểu đồ hàm lượng các dạng liên kết của kim loại Pb trong trầm tích mặt tại
Cửa Đại
Trong trầm tích mặt tại Cửa Đại, kim
loại chì ít tồn tại ở dạng trao đổi (F1), tỉ
lệ cao nhất là 6% (tại vị trí CD1). Đây là
dạng kim loại có độ linh động cao nhất,
dễ dàng trao đổi với môi trường nước.
Chì ở dạng liên kết với cacbonat (F2) với
tỉ lệ khá cao, tại vị trí CD3 có tỉ lệ cao nhất
là 52%, tại vị trí CD5 có tỉ lệ thấp nhất
là 18%. Chì ở dạng này có thể phân ly
ra môi trường nước khi pH giảm xuống.
Nguyên nhân dạng cacbonat chiếm tỉ lệ
cao có thể là do ion kim loại chì có trong
nước từ lục địa chảy ra cửa biển có pH
thấp, gặp nước đại dương có pH cao và
hàm lượng HCO3
-, CO3
2- cao nên tạo keo
hình thành kết tủa chì cacbonat. Dạng
liên kết với sắt và mangan oxit (F3) hầu
như chiếm tỉ lệ cao nhất trong các mẫu.
Đây là dạng liên kết không bền vững khi
thế oxy hóa khử Eh thay đổi [8,9,10].
Dạng liên kết với hợp chất hữu cơ (F4)
chiếm tỉ lệ cao ở vị trí CD5 (22%). Các
vị trí còn lại có tỉ lệ khá thấp. Dạng cặn
dư (F5) là dạng liên kết chặt chẽ nhất của
kim loại. Ở vị trí CD1 và CD5, dạng này
chiếm tỉ lệ khá lớn, tương ứng là 28 và
16%. Các vị trí còn lại có tỉ lệ thấp. Kết
quả này phù hợp với nghiên cứu của các
tác giả khác [8, 9].
Như vậy, có sự tương đồng về tỉ lệ
các dạng liên kết của kim loại chì trong
trầm tích mặt tại Cửa Đại giữa các vị
trí lấy mẫu. Dạng liên kết với cacbonat
và dạng liên kết với oxit sắt, mangan là
hai dạng chiếm tỉ lệ cao nhất. Vì vậy,
cần phải thường xuyên theo dõi các đại
lượng pH và Eh của môi trường nhằm
hạn chế được sự giải phóng kim loại chì
từ trầm tích vào nước.
Bảng 7: Chỉ số đánh giá rủi ro RAC từ
kim loại Pb tại các vị trí lấy mẫu trầm tích
Ký hiệu mẫu
RAC
F1+F2 (%)
Đánh giá
CD1 33 Cao
CD2 46 Cao
CD3 48 Cao
CD4 33 Cao
CD5 20 Trung bình
Nghiên cứu
Tạp chí Khoa học Tài nguyên và Môi trường - Số 16 - năm 2017
73
Chỉ số RAC trong khoảng từ 20 -
48 %, ứng với mức độ kim loại Pb trong
trầm tích có khả năng gây ảnh hưởng
thực tế đến sức khỏe con người từ mức
trung bình đến mức cao.
4. Kết luận
Kết quả nghiên cứu đã xác định
được hàm lượng tổng kim loại chì và
hàm lượng các dạng liên kết của chì
trong trầm tích mặt khu vực Cửa Đại,
căn cứ vào hàm lượng tổng chì trong các
mẫu trầm tích mặt tại Cửa Đại cho thấy
trầm tích mặt tại các vị trí chịu nhiều
tác động từ hoạt động của con người có
hàm lượng chì cao, các vị trí ở xa đất
liền, chịu ít ảnh hưởng của con người có
hàm lượng chì trong trầm tích thấp hơn.
Kết quả phân tích hàm lượng các
dạng liên kết Pb có sự tương đồng về tỉ lệ
các dạng liên kết của kim loại chì trong
trầm tích mặt tại Cửa Đại giữa các vị trí
lấy mẫu. Dạng liên kết với cacbonat và
dạng liên kết với oxit sắt, mangan là hai
dạng chiếm tỉ lệ cao nhất. Từ những kết
quả phân tích trên nghiên cứu đã được
so sánh với QCVN 43 : 2012/BTNMT
và tiêu chuẩn của Mỹ và Canada, kết quả
phân tích các dạng liên kết của kim loại
được đánh giá qua chỉ số đánh giá rủi ro
RAC làm cơ sở để đề xuất các giải pháp
giám sát và quản lý chặt chẽ để giảm
thiểu và ngăn ngừa tác động tiêu cực của
chúng đến hệ sinh thái và hạn chế được
ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. QCVN 43:2012/BTNMT - Quy
chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng trầm tích.
[2]. TCVN 6663 -15: 2004 - Chất
lượng nước - Lấy mẫu. Hướng dẫn bảo
quản và xử lý mẫu bùn và trầm tích
[3]. Dương Thị Tú Anh (2014), “Xác
định dạng một số kim loại nặng trong trầm
tích thuộc lưu vực sông Cầu”, Tạp chí phân
tích Hóa, Lý và Sinh học, tập 19, trang 44.
[4]. Vũ Đức Lợi, Nguyễn Thanh Nga,
Trịnh Anh Đức, Phạm Gia Môn, Trịnh Hồng
Quân, Dương Tuấn Hưng, Trần Thị Lệ Chi và
Dương Thị Tú Anh (2010), “Phân tích dạng
một số kim loại nặng trong trầm tích thuộc
lưu vực sông Nhuệ và Đáy”, Tạp chí phân tích
Hóa, Lý và Sinh học, tập 15, trang 26.
[5]. A. Tessier, P.G.C. Campbell and
M. Bisson (1979), “Sequential extraction
procedure for the speciation of particulate
trace metals”, Analytical Chemistry, vol,
51, pp, 844 - 851.
[6]. Canadian Council of Ministers
of the Environment (2002), “Canadian
sediment quality guidelines for the
protection of aquatic life, Summary tables,
Updated. In:Canadian Environmental
Quality Guidelines 1999”, Canadian
Council of Ministers of the Environment,
Winnipeg, Excerpt from Publication No.
1299; ISBN 1-896997-34-1.
[7]. NewYork State Departmentoff
Environmental Conservation (1993),
“Technical guidance for Screening
Contaminanted Sediment”, Division of
Fish, Wildlife and Marine Resourse: New
York State Department of Environment
Conservation.
[8]. Rafael Pardo, Enrique Barrado,
Lourdes Perez and Marisol Vega (1990) ,
“Determination and speciation of heavy
metals in sediments of the Pisuerga River”
, Water Research, vol, 24(3), pp, 373-379.
[9]. Rath P, Panda UC, Bhata D, Sahu
KC (2009), “Use of sequential leaching,
mineralogy, morphology, and multivariate
statistical technique for quantifying metal
pollution in highly polluted aquatic sediments
- a case study: Brahmani and Nandira Rivers,
India” , Journal of Hazardous Materials,
vol. 163, pp. 632-644.
[10]. Sangjoon Lee, Ji- Won Moon
and Hi-Soo Moon (2003), “Heavy metals
in the bed and suspended sediments of
anyang River, Korea: Implication for water
quality”, Environmental Geochemistry and
Health, vol. 25, pp. 433-452.
BBT nhận bài: Ngày 10/5/2017; Phản biện xong: Ngày 30/5/2017