Trong thời kỳ Đệ nhị thế chiến, xe hơi ở
Việt Nam chạy ethanol chế biến từ gạo.
Mặc dầu có nhiều mỏ dầu với trữ lượng rất
khổng lồ (khoảng 600 triệu barrel ước tính
năm 2006, 1 barrel » 159 lít), nhưng Việt
Nam phải nhập cảng xăng và diesel cho xe
cộ và kỹ nghệ còn phôi thai của mình.
Chẳng hạn năm 2005, Việt Nam khai thác
được 32,4 triệu tấn than và 18,5 triệu tấn
dầu thô, nhưng đã phải nhập 11,45 triệu
tấn xăng và diesel.
22 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 1985 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Xăng sinh học Phần 3, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Xăng sinh học
Phần 3
VIỆT NAM VÀ XĂNG-SINH-HỌC.
Trong thời kỳ Đệ nhị thế chiến, xe hơi ở
Việt Nam chạy ethanol chế biến từ gạo.
Mặc dầu có nhiều mỏ dầu với trữ lượng rất
khổng lồ (khoảng 600 triệu barrel ước tính
năm 2006, 1 barrel » 159 lít), nhưng Việt
Nam phải nhập cảng xăng và diesel cho xe
cộ và kỹ nghệ còn phôi thai của mình.
Chẳng hạn năm 2005, Việt Nam khai thác
được 32,4 triệu tấn than và 18,5 triệu tấn
dầu thô, nhưng đã phải nhập 11,45 triệu
tấn xăng và diesel.
Trước trào lưu sử dụng xăng-sinh-học của
thế giới, Việt nam cũng đã bị lôi cuốn theo
trào lưu này. Từ cả chục năm nay, báo chí
trong nước cũng thường đề cập đến việc
phát triển xăng-sinh-học trên thế giới, nhất
là khi giá cả xăng dầu tăng vọt. Tháng
7/2006 tại Sài Gòn, và tháng 10/2007 tại
Hà Nội, hàng trăm nhà khoa học và kinh
doanh ở Việt Nam hội thảo chung quanh
vấn đề xăng-sinh-học. Qua các cuộc hội
thảo này và báo chí trong nước vào thời
điểm này thì chính phủ Việt Nam chưa
chuẩn bị gì cho chiến lược, ngoài một số
cá nhân chuyên gia và nhà kinh doanh có
tầm nhìn xa, chạy trước thời cuộc. Chẳng
hạn, về nguyên liệu thì bàn về sử dụng lúa
gạo, mía đường, để tạo ethanol; cây dầu-
lai (miền Bắc gọi là cây dầu-mè –
Jatropha curcas), mở cá ba-sa (khoảng
40,000 tấn/năm).
Hội thảo cũng cho biết 3 lý do chính chưa
phát triển ngành xăng-sinh-học là:
(i) số lượng nguyên liệu sản xuất xăng-
sinh-học là tinh bột ngũ cốc, mật rỉ đường
và mở cá ba-sa còn hạn chế;
(ii) chưa có đầu tư thích đáng vì chưa có
hổ trợ của chính phủ,
(iii) chính phủ chưa có chính sách. Chung
qui, các nhà khoa học và kinh doanh đang
mong chờ chính phủ ban hành chính sách
và luật lệ rõ ràng. Các công ty mía đường
(như Lam Sơn ở Thanh Hoá), Sài Gòn
Petro, Công ty Rượu Bình Tây, Công ty
Chí Hùng, v.v. cũng đã có dự án sản xuất
ethanol làm nhiên liệu, khi chánh phủ phất
cờ cho phép. Tuy nhiên, hiện nay chưa có
một nhà kinh doanh nào dám bỏ tiền vào
nghiên cứu và đầu tư khi chính phủ chưa
có chính sách quy định, chưa có phối hợp
ăn khớp giữ các Bộ, thủ tục nhiêu khê: thủ
tục đất đai canh tác thì quản lý bởi Bộ
Nông nghiệp; quy định tiêu chuẩn sản xuất
pha chế xăng-sinh-học thì quản lý bởi Bộ
Khoa học-Công nghệ; và sử dụng xăng
dầu phải có ý kiếng của Bộ Giao thông-
Vận tải, v.v.
Theo báo “Khoa Học Phổ Thông” ngày
14/12/2006, thì “Bộ Công nghiệp
VN đang xây dựng đề án “Phát triển nhiên
liệu sinh học đến năm 2015, tầm nhìn
2020”, theo đó “Giai đoạn 2011-2015, sẽ
phát triển mạnh sản xuất và sử dụng nhiên
liệu sinh học thay thế nhiên liệu truyền
thống, mở rộng quy mô sản xuất và mạng
lưới phân phối phục vụ cho giao thông và
các ngành sản xuất công nghiệp khác. Đến
năm 2020, công nghệ sản xuất sinh học ở
VN sẽ đạt trình độ tiên tiến trên thế giới,
với sản lượng đạt khoảng 5 tỷ lít xăng E10
và 500 triệu lít dầu biodiesel B10/năm”
Ngày 20/11/2007, Thủ tướng chính phủ đã
ký phê duyệt “Đề án phát triển nhiên-liệu-
sinh-học đến năm 2015, tầm nhìn đến năm
2025” trong đó đặt mục tiêu đến năm
2015, sản lượng ethanol và dầu thực vật
đạt 250 nghìn tấn, đáp ứng 20% nhu cầu
xăng dầu của cả nước bằng xăng E5 (pha
5% cồn) và dầu B5 (Diesel pha 5% dầu
sinh học), và đến năm 2025, đạt 1.8 triệu
tấn, đáp ứng 100% nhu cầu của cả nước
bằng xăng dầu pha nhiên liệu sinh học
trên. Và khoảng thời gian từ nay đến 2010
là nghiên cứu và ban hành luật lệ liên quan
đến sản xuất và sử dụng xăng-sinh-học.
Việt Nam với đất hẹp (diện tích canh tác
khoảng 9.3 triệu ha), dân đông (85 triệu
năm 2007, trung bình mỗi đầu người 0.11
ha), lại nghèo (GDP trung bình toàn dân là
US$726/đầu người năm 2006, của nông
dân chỉ khoảng 1/2), vùng sản xuất nông
nghiệp chính là đồng bằng Cửu Long và
Sông Hồng đã quá tải. Đất canh tác hiện
nay phải tiếp tục sản xuất nông phẩm thiết
yếu cho đời sống người dân (chánh yếu là
lúa, hoa màu phụ, cây kỹ nghệ) để tự túc
và xuất cảng.
Vì vậy Việt Nam phải tìm nguồn nguyên
liệu thực vật nào để sản xuất xăng-sinh-
học mà:
(i) không tranh giành đất đai với canh tác
hoa màu, chăn nuôi gia súc, nuôi cá tôm
hiện tại,
(ii) không được phá thêm rừng,
(iii) thích hợp trên diện tích đất bỏ hoang
cằn cổi, sa mạc hoá, tổng cộng khoảng 10
triệu ha, gồm đất đồi trọc ở Miền Bắc
(4.77 triệu ha), Bắc Trung Việt (1.9 triệu
ha), phía Nam Trung Việt (1.63 triệu ha),
và Tây nguyên (1.05 triệu ha),
(iv) có hiệu quả kinh tế cao, và
(v) tăng lợi tức, giúp xoá đói giảm nghèo
cho nông dân.
Sau đây, tác giả gợi ý một vài nguyên liệu.
1. Sản xuất diesel-sinh-học từ hạt cao-
su. Việt nam hiện nay đã có 250,000 ha
cao su trưởng thành, và diện tích sẽ gia
tăng nhiều trong tương lai (có thể tới 1
triệu ha). Nếu thu góp được tất cả hạt của
250,000 ha này, ngay từ bây giờ Việt Nam
có thể sản xuất được 54,250 tấn dầu-cao-
su, tương ứng với 1 triệu tấn diesel-sinh-
học B5. Dầu hột cao su chứa 18.9%
saturated acid (palmitic acid và stearic
acid), và 80% unsaturated acid (oleic acid,
24.6 %; linoleic acid, 39.6 %; và linolenic
acid, 16.3 %). Hột cao su chín rụng rộ vào
khoảng tháng 7 và 8 dương lịch, rất thuân
tiện cho các em học sinh nghỉ hè kiếm lợi
tức trong việc thu lượm hột. Các cơ sở đồn
điền cao su đều đã có sẵn máy móc và
phương tiện ép dầu.
2. Canh tác sorgho-đường (Sweet
sorghum) trong mùa hạn trên vùng
ruộng sạ ở đồng bằng Cửu Long. Trước
1960, sau khi gặt lúa sạ, tại An Giang
Châu Đốc đất bỏ hoang từ tháng 1 đến
tháng 5 dương lịch là lúc mùa khô, thiếu
nước canh tác. Bắt đầu khoảng sau 1965,
nông dân trồng sorgho-hạt (grain sorghum,
lúa miến) trong các tháng này trên đất
thiếu nước bơm để làm thực phẩm gia súc
và cá, và lúa thần-nông trên một số ruộng
đất dọc sông rạch có khả năng bơm nước.
Hiện nay, đa số đất còn bỏ hoang trong
mùa nắng vì thiếu nước, hay không lợi khi
canh tác lúa (vì giá xăng, phân, thuốc quá
cao).
Các vùng ấm hay nóng ở miền Nam Hoa
Kỳ đã canh tác sorgho-đường từ hàng trăm
năm nay để sản xuất xi-rô (sirup). Các
giống Hoa Kỳ này cho năng suất hột thấp
nhưng thân có nhiều đường. Viện Nghiên
Cứu Quốc Tế Nông Nghiệp Vùng Khô
Hạn (ICRISAT) dùng các giống này để lai
tạo thành các “giống lai” vừa cho năng
suất hột cao, năng suất thân cao và độ
đường cao ở cả hột và thân. Thân sorgho-
đường chứa 15 đến 23% đường, thân mía
chứa 12-15% đường. Chẳng hạn giống lai
“Madhura” được lai tạo để có thân chứa
nhiều đường (sweet-stem sorghum hybrid)
dùng để chế biến ethanol, sirup và đường
kẹo. Giống lai Madhura ngắn hạn (120
ngày), trồng 2 vụ/năm cho năng suất hột
tổng cộng từ 2 đến 4 tấn/ha, 5-7 tấn lá khô
(cho trâu bò ăn), 15-20 tấn bả (thân sau khi
ép lấy đường, làm thức ăn trâu bò), 3-6 tấn
đường kẹo hay 5-9 tấn sirup (75% đường),
hay 3000 - 4000 lít ethanol 95%. Giống
SSH-104 có chu kỳ sinh trưởng 100 – 115
ngày, thân chứa 23% đường, một vụ trồng
(4 tháng) cho năng suất thân cây 95-125
tấn/ha, so với mía khoảng 65-90 tấn/ha với
vụ trồng dài 10-12 tháng.
Tại vùng Imperial Valley của California, 1
ha trồng sorgho-đường trong 1 vụ 4 tháng
sản xuất: 5,600 lít ethanol + 20 tấn xác bả
khô (có thể biến thành 10 Megawatt-giờ
điện).
Sorghum chịu hạn hán, chịu được đất
phèn, đất mặn, đất kiềm, chịu được nước
ngập, ít sâu bọ bệnh tật, ít đòi hỏi phân
bón, ít tốn nước tưới (chỉ bằng 1/4 nhu cầu
nước của mía). Mới đây, các khoa học gia
đã cài vào bộ máy di truyền sorgho-đường
gen chịu đựng đất phèn nặng vì nhôm.
Vùng đất phèn Tứ Giác Long Xuyên nên
chọn các giống chịu phèn này.
Sorgho-đường, cũng như sorgho hạt, chịu
được khô hạn, nhu cầu nước tối thiểu là
175 m3/ha/vụ, chỉ bằng 1/4 nhu cầu nước
để canh tác mía (700 m3/ha/vụ), trong lúc
lúa nước cần từ 9,000 đến 15,000 m3/ha/vụ
. Lá sorgho có một lớp sáp ngăn chận thoát
hơi nước, nên sorgho sử dụng nước hiệu
quả hơn các ngũ cốc khác. Chồi và hoa
được sinh sản và phát triển trong một thời
gian dài, nên khi gặp khô nóng ngắn hạn
không bị ảnh hưởng vào thụ phấn. Nếu
khô hạn kéo dài, phát hoa ít và nhỏ hơn,
trong lúc thân cây chứa nhiều đường hơn.
Sorgho cần 310 lít nước để sản xuất 1 kg
chất khô, trong khi bắp cần 370 lít nước.
Chỉ cần 4000 m3 nước để canh tác, sorgho-
đường sản xuất được 1000 lít ethanol,
trong lúc mía phải cần tới 36,000 m3 nước
để cho kết quả tương đương. Tổng hợp hết
mọi chi phí tại Hoa Kỳ kể từ canh tác cho
tới chế biến xong xuôi, sản xuất 1000 l
ethanol từ sorgho-đường tốn 81.6 USD, từ
bắp tốn 89.2 USD, và từ mía tốn 111.5
USD. năng suất toàn cây trung bình 90-
120 tấn/ha/vụ (4 tháng).
năng suất đường, cũng như năng suất toàn
cây cao nhất khi nhiệt độ không khí trung
bình 26-27°C, nhiệt độ đất 18-20°C. Lục
hoá tối đa ở nhiệt độ ban ngày 32°C.
Trong một mùa canh tác (4 tháng), 1 ha
sorgho hấp thụ 40 tấn C từ không khí qua
lục hoá.
Năng lượng cần thiết để biến nước ép từ
thân sorgho-đường (chính là đường) ra
ethanol chỉ bằng 50% năng lượng cần thiết
để biến hạt bắp (chính là tinh bột) ra
ethanol.
Ần độ cũng nghiên cứu tuyển chọn dòng
men hữu hiệu để lên men nước ép từ thân
sorgho-đường thành rượu, cho biết dòng
men NCIM 3319 hữu hiệu nhất, biến 90%
đường thành rượu trong 48-72 giờ.
Cây dầu-lai (Jatropha curcas L.). Cũng
còn gọi là cây-dầu-mè hay cây-hàng-rào,
cùng họ với khoai mì, cao su
(Euphorbiaceae). Trên thế giới có khoảng
175 loài, Việt Nam có 5 loài, trong số đó
có cây dầu-lai (Jatropha curcas L.). Cây
dầu-lai gốc Trung Mỷ, trồng ở Việt Nam
từ lâu đời để lấy dầu từ hạt, hạt chứa
khoảng 40% dầu. Cây cao 1-5 m, trồng
được nơi khô hạn với vủ lượng 200
mm/năm cho tới nơi có vủ lượng 1200
mm/năm, lý tưởng là 600 – 1000 mm/năm.
Khô hạn liên tục 3 năm chỉ làm lá rụng
nhưng cây không chết. Vùng duyên hải
khô cằn Ninh Thuận Bình Thuận với vũ
lượng trung bình 600 mm/năm, hiện bỏ
hoang, là nơi thích hợp canh tác cây-dầu
lai. Cũng canh tác được trên các đồi trọc
(vừa bảo vệ chống xoi mòn, vừa cho dầu),
đất đang sa-mạc-hoá, đất kiềm vùng duyên
hải Trung Việt. Cây không chịu được úng
nước, hay đất dốc quá 30 độ, và đất acid
(pH <7), pH thích hợp 8-9, thích hợp vùng
đất cà giang duyên hải Trung Việt. Không
có sâu bọ hay bệnh tật, ngoại trừ đốm lá
do Cercospora. Cây trồng bằng hột hay
bằng nhánh giâm dễ dàng. Nhánh giâm
cho trái sau một năm, trồng bằng hạt sau 2
năm. Khoảng cách trồng 2m x 2 m,
khoảng 2500 cây/ha. Cho năng suất hạt
cao kể từ năm thứ 4, và thọ khoảng 50
năm. Một cây đơn độc cho 2 kg trái/cây,
trung bình năng suất hột từ 3 đến 6 tấn
hột/ha/năm, tuỳ đất tốt hay xấu. Trên đất
xấu, cho trung bình 0.9 tấn dầu/ha/năm,
đất trung bình 1.6 – 2 tấn dầu/ha/năm.
Trung bình 4 kg hột ép được 1 lít dầu. Cây
dầu-lai có thể trồng xen kẻ với cà phê, cây
ăn trái và rau hoa. Dầu có chất độc (không
ăn được), trước đây dùng làm đèn cầy, xà
phòng, ngày nay làm diesel-sinh-học. Ấn
độ dự trù canh tác 14 triệu ha để sản xuất
diesel-sinh-học.
Lục bình (Eichornia crassipes). Lục bình
xưa nay coi như cỏ dại, sống bềnh bồng
trên sông, rạch, ao, hồ, cản trở ghe tàu lưu
thông, ngăn cản dòng nước chảy, v.v. Tuy
nhiên, nghiên cứu gần đây cho biết lục
bình là một nguyên liệu hữu hiệu để sản
xuất khí-đốt-sinh-học và xăng-sinh-học.
Lục bình cũng dùng để lọc nước phế thải
từ nhà máy biến chế thực phẩm, trại chăn
nuôi, nước cống rảnh thành phố. Rể lục
bình hấp thụ các kim loại độc trong nước
phế thải như chì, thuỷ ngân, strontium, v.v.
và chứa các chất này trong rể với nồng độ
gấp 10,000 lần nồng độ kim loại chứa
trong nước. Phần cây tươi chứa 95.5%
nước, 0.04% N, 0.06% P2O5, 0.2% K2O,
1% chất tro, và 3.5% chất hữu cơ. Lục
bình được dùng làm thức ăn cho trâu bò
(lên men dưa lục bình với 2% muối, hay
ăn tươi), phơi khô đun bếp, tro làm phân,
cọng lục bình phơi khô dùng đan giỏ, thủ
công, v.v.
Lục bình tăng trưởng rất nhanh, mỗi năm
có thể thâu hoạch 4 lần, tổng năng suất
chất tươi/ha/năm biến thiên giữa 20 và 200
tấn ở Florida canh tác từ trong nước sông
hồ (không phân bón), cho 300 tấn nếu
canh tác trong nước sa thải của thành phố,
từ chưồng trại gia súc. Canh tác tại Ấn độ
cho năng suất khoảng 150 tấn chất
tươi/ha/năm. Lục bình không sống được ở
nước mặn chứa quá 5 g muối/l.
Lục bình sản xuất chất khô (dry matter)
khoảng 60-80 tấn/ha/năm ở miền nam Hoa
Kỳ (không phân bón), như vậy cao hơn cỏ
voi (57 tấn), mía (55 tấn), sorghum (37
tấn), cây rừng Eucalyptus (15 tấn), thông
(9 tấn), hướng dương (6 tấn) canh tác với
phân bón.
Năng lượng chứa trong 1 tấn chất khô lục
bình tương đương với 2.4 barrels dầu hoả
(= 381 lít). Cứ mỗi kg chất khô lục bình
sản xuất 370 lít khí-sinh-học cho năng
lượng 22,000 KJ/m3 (580 Btu/ft3), còn
methane ròng 100 % cho 895 Btu/ft3.
NAS của Hoa kỳ ước lượng rằng 1 ha lục
bình ở miền nam Hoa Kỳ sản xuất 70,000
m3 khí-sinh-học (gồm 70% methane, 30%
CO2). Nước phế thải từ lên men sản xuất
khí-sinh-học dùng làm phân hữu cơ.
Tại Ấn độ, 1 tấn lục bình phơi khô (không
phải chất khô) cho khoảng 50 lít ethanol
và 200 kg chất phế thải dùng làm phân
bón. Lên men yếm khí 1 tấn lục bình khô
cho 750 m3 khí-sinh-học (600 Btu), trong
đó chứa 51.6% methane, 25.4% hydrogen,
22.1% CO2, và 1.2% oxygen. Với kỹ thuật
hoá-khí (gasification) ở nhiệt độ cao
(800°C) với hơi nước, 1 tấn chất khô lục
bình sản xuất 1,100 m3 khí-đốt-tổng-hợp
(syngas) chứa 16.6% H2, 4.8% methane,
21.7% CO, 4.1% CO2, và 52.8% N.
Hiện nay, trên sông Tiền Giang, Hậu
Giang và một số sông rạch lớn, một số ít
nông dân đóng cọc dọc bờ sông trồng lục
bình để lấy sợi dùng đan lác thủ công xuất
cảng (như mủ, giỏ xách, ..). Các dề lục
bình này cũng bảo vệ được bờ sông tránh
xói lở do sóng ghe tàu gây nên, trong khi
giữa dòng sông trống trải để ghe tàu lưu
thông. Cần phát triển trồng lục bình dọc
sông rạch bên trong các cọc, như nông dân
canh tác hiện nay. Đặc biệt, lục bình có
năng suất rất cao ở những ao hồ thanh lọc
nước thải ở các nhà máy biến chế hải sản,
chăn nuôi gia súc, nơi thải nước cống
thành phố.
Tảo (Algae): là nguồn thực vật đầy hứa
hẹn để sản xuất diesel-sinh-học. Cũng cần
biết rằng dầu hoả bắt nguồn từ huỷ hoại
tảo, chất hữu cơ trầm tích, phiêu sinh, vi
sinh vật ở thời cổ đại. Tảo là thực vật có
khả năng lục hoá, lấy năng lượng mặt trời
biến CO2 thành đường, từ đó tạo protids và
lipids. Tảo mọc trong nước ngọt hay nước
mặn, từ trong vủng nước nhỏ, ao hồ hay
biển. Tuỳ theo loại, tảo giàu protein
(như Spirulina maxima chứa 60-
70%;Chlorella vulgaris chứa 51-58%
protein trọng lượng chất khô), chất bột
(carbohydrates) (như Botryococcus
braunii chứa 86%, Spirogyra sp. chứa 33-
64%; Porphyridium cruentum chứa 40-
57% trọng lượng chất khô), và lipids
(như Scenedesmus dimorphus, chứa 16-
40%; Prymnesium parvumchứa 22-40%).
Các vi sinh gồm tảo, diatoms, và
cyanobasteria được gọi chung là “vi-tảo”
(microalgae) chứa nhiều dầu và chất béo
(trên 30%) là nguyên liệu chế diesel-sinh-
học.
Tảo có thể canh tác trong thùng (tank),
trong ao, hồ, biển. Quan trọng là phải đầy
đủ ánh sáng (mặt trời hay đèn), đầy đủ
CO2 hoà tan trong nước (bằng cách bơm
không khí vào nước như nuôi cá, hay bơm
khí CO2), chất dinh dưởng như phân bón
hoá học, chất hữu cơ như nước thải từ
cống rảnh. Nếu canh tác tảo ngoài biển,
cần phải bón thêm phân chứa sắt (iron).
Loại tảo xanh Chlorophyceae (green
algae) cho nhiều carbohydrates hơn lipids,
tăng trưởng mạnh ở 30°C, cần nhiều ánh
sáng và nước có độ dẩn điện 55 mmho/cm.
Tảo cho tỷ lệ dầu cao khi canh tác trong
môi trường thiếu chất dinh dưởng, nhưng
năng suất tảo kém nên năng suất dầu cũng
kém ở môi trường canh tác này.
Nghiên cứu mới đây cho biết An Giang có
137 loài tảo nước ngọt, đa số là tảo
lụcChlorophyta. Ở vùng nước nhiễm mặn
phải chọn giống thích ứng nước mặn, để
canh tác. Cần phải nghiên cứu để khám
phá khả năng chứa dầu trong các loài tảo
này.
Để lấy dầu, giản dị nhất là ép để lấy
khoảng 75% dầu chứa trong tảo, phần xác
còn pha với dung môi cyclo-hexane để
trích lấy dầu còn lại. Xác tảo sau khi ép
chứa nhiều chất bột, nên cho lên men để
sản xuất ethanol, hay làm thức ăn gia súc.
năng suất dầu/ha từ tảo canh tác trong điều
kiện lý tưởng cho 200 lần nhiều hơn dầu từ
hoa màu, và trong điều kiện canh tác thông
thường cho năng suất dầu cao 30 lần hay
tệ lắm cũng 15 lần nhiều hơn canh tác dầu-
cải, dừa dầu, đậu nành hay cây dầu-lai
(jatropha). năng suất tại Hoa Kỳ hiện tại
với vi tảo canh tác là 17,300 lít
dầu/ha/năm (gấp 3 lần dừa-dầu của Mã
Lai), trong các tank phòng thí nghiệm với
điều kiện lý tưởng cho 46,000 đến 140,000
lít/ha/năm. Phòng Nghiên Cứu Năng
Lượng của Hoa Kỳ ước tính rằng chỉ với
diện tích 5 triệu ha trồng tảo, tức khoảng
1% đất nông nghiệp của Hoa kỳ hiện nay
(khoảng 500 triệu ha), thì đủ cung cấp
diesel-sinh-học cho Hoa Kỳ, thay thế hoàn
toàn diesel từ dầu hoả.
Ngày 11/12/2007, Công Ty Shell tuyên bố
thiết lập cơ sở canh tác tảo để biến chế dầu
ăn và diesel-sinh-học tại Hawaii, trong các
ao hồ chứa nước mặn để canh tác tảo biển.
Cũng cần biết thêm rằng tại Hawaii đã có
nhiều cơ sở thương mại canh tác tảo biển
để làm dược liệu từ mấy chục năm nay.
Tảo Diatom chứa khoảng 30% dầu, có thể
sản xuất 45.6 tấn dầu/ha/năm.
TảoBotryococcus braunii chứa 86%
hydrocarbons cuả trọng lượng chất khô, có
thể biến chế thành ethanol.
Nếu đầy đủ ánh sáng, CO2 (hoà tan trong
nước), và dinh dưởng, 1 ha tảo cho 100 tấn
tảo, và mỗi tấn tảo sản xuất được 410 lít
diesel-sinh-học. Nếu lên men yếm khí, thì
mỗi tấn tảo sản xuất được 6 MJ khí
methane. Một m3 tảo khô nặng khoảng 448
kg.
Nghiên cứu ghép gen cho nhiều
dầu cũng cho kết quả khả quan. Enzyme
Acetyl-CoA carboxylase (ACC) chi phối
số lượng lipids tích trữ trong cơ thể vi-tảo,
và gen chi phối ACC đã được đánh dấu và
ghép vào bộ máy di truyền của tảo.
Tại Hoa Kỳ có dự án dẩn ống khí
thải CO2 từ nhà máy nhiệt điện đốt than đá
đến hồ canh tác tảo để tái tạo Carbon-sinh-
học, thay vì thải CO2 vào khí quyển làm
gia tăng nhiệt độ hoàn cầu.
Việt Nam có bờ biển dài 3,200 km,
nhiều đầm, vũng, ao, hồ, nước ngọt hay
nước mặn đều có thể canh tác tảo. Dùng
tảo vừa để xử lý nước thải từ chuồng trại
chăn nuôi, nước thải thành phố, vừa sản
xuất diesel-sinh-học, cần nên được nghiên
cứu ở Việt Nam.