Mục đích chính của chiến lược công ty xây dựng và duy trì các vị thế cạnh tranh.
Tuy nhiên trước khi xác định các vị thế này, cần phải có một sự thoả thuận rõ ràng về thị
trường,phốithức thị trườngvà cácnguồnlực cầnthiết. Sựliênkết giữa mộtbênlàcác vị
thếcạnhtranhvới bên kia là phối thức thị trường và các nguồn lực, được hình thành cùng
vớikháiniệmvề hoạt động kinhdoanh chiếnlược
21 trang |
Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 1976 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Xây dưng chiến lược công ty, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương 5
XÂY DỰNG CHIẾN LƯỢC CÔNG TY
Mục tiêu học tập:
- Xác định các hoạt động kinh doanh chiến lược của doanh nghiệp.
- Đánh giá các hoạt động kinh doanh chiến lược của doanh nghiệp, xác định các
hoạt động kinh doanh mà công ty sẽ tiếp tục duy trì, thiết lập mới hoặc loại bỏ
nếu có.
- Xác định các vị thế cạnh tranh mục tiêu mà các hoạt động kinh doanh khác nhau
sẽ phải đạt được trong các thị trường tương ứng.
- Xác định và đánh giá các lựa chọn chiến lược và các phương thức cần thiết để
duy trì hay mở rộng các hoạt động kinh doanh chiến lược.
70
5.1. Xác định các hoạt động kinh doanh chiến lược
5.1.1. Định nghĩa hoạt động kinh doanh chiến lược
Mục đích chính của chiến lược công ty xây dựng và duy trì các vị thế cạnh tranh.
Tuy nhiên trước khi xác định các vị thế này, cần phải có một sự thoả thuận rõ ràng về thị
trường, phối thức thị trường và các nguồn lực cần thiết. Sự liên kết giữa một bên là các vị
thế cạnh tranh với bên kia là phối thức thị trường và các nguồn lực, được hình thành cùng
với khái niệm về hoạt động kinh doanh chiến lược.
Một hoạt động kinh doanh chiến lược là một cấu trúc gồm ba yếu tố cần nhận
dạng là thị trường đặc thù, các phối thức thị trường và các nguồn lực cụ thể. Phối thức thị
trường được hiểu theo nghĩa rộng không chỉ bao gồm các sản phẩm và dịch vụ trọng tâm
mà cả các dịch vụ kèm theo, các điều kiện về giá và các yếu tố khác. Một phối thức bao
gồm nhiều biện pháp khác nhau trong một phối thức tiếp thị. Cần hiểu rằng khi nhận
dạng các hoạt động kinh doanh chiến lược thì không chỉ xem xét đến các khác biệt trong
sản phẩm hay dịch vụ cơ bản mà còn xem xét việc sử dụng khác biệt hoá của các yếu tố
khác trong phối thức tiếp thị.
Việc xác định các hoạt động kinh doanh chiến lược là cơ sở để đánh giá và hoạch
định các tiềm lực thành công ở cấp độ vị thế thị trường. Các hoạt động kinh doanh phải
được xác định độc lập với cấu trúc tổ chức hiện có. Mặc dù có thể có trường hợp một
hoạt động kinh doanh chiến lược sẽ tương ứng với một đơn vị tổ chức, nhưng quan trọng
là phải hiểu rằng các hoạt động kinh doanh và các bộ phận tổ chức là những vấn đề hoàn
toàn khác nhau. Việc xác định các hoạt động kinh doanh phải dựa trên thị trường, các
phối thức thị trường và các nguồn lực, trong khi cấu trúc công ty thường dựa trên các tiêu
chí hoàn toàn khác. Tuy nhiên, việc xác định các hoạt động kinh doanh chiến lược và
việc hình thành chiến lược công ty, dựa trên các hoạt động kinh doanh này, thường sẽ yêu
cầu xem xét lại cấu trúc tổ chức.
Cần lưu ý rằng không phải mọi hoạt động kinh doanh đều được xem là hoạt động
kinh doanh chiến lược và đưa vào hoạch định chiến lược. Theo yêu cầu trong hoạch định
chiến lược, chúng ta tập trung toàn bộ công ty và các bộ phận quan trọng của nó, tiếp
theo các hoạt động kinh doanh chỉ được đưa vào quá trình hoạch định chiến lược nếu
chúng quan trọng cho sự thành công. Nói chung, điều này có nghĩa là hoạt động kinh
doanh phải có tiềm năng tạo ra một phần lợi nhuận đáng kể cho công ty.
5.1.2. Lĩnh vực kinh doanh chiến lược và đơn vị kinh doanh chiến lược
Khi thiết lập các định hướng chiến lược cho một hoạt động kinh doanh cụ thể,
quan trọng cần biết là có phải hiệu chỉnh chúng theo định hướng của bất kì hoạt động
kinh doanh nào khác hay không. Ví dụ như, việc bán đi hay giải thể một hoạt động kinh
doanh bị lỗ kéo dài không phải là vấn đề đơn giản nếu chúng sử dụng nguồn thiết bị
chung với các hoạt động kinh doanh khác. Bởi vì chi phí sản xuất của các hoạt động còn
lại sẽ phải chịu thêm phần chi phí của hoạt động bị dừng, làm ảnh hưởng đến lợi nhuận
trước đó. Hoặc có thể cần điều chỉnh các chiến lược cạnh tranh của hai hoạt động kinh
doanh có nhãn hiệu khác nhau trong cùng một thị trường sao cho giảm thiểu sự cạnh
tranh giữa chúng với nhau. Để nhấn mạnh tầm quan trọng về sự phụ thuộc hay độc lập
của các hoạt động kinh doanh, cần phân biệt hai loại hoạt động kinh doanh chiến lược :
Đơn vị kinh doanh chiến lược và lĩnh vực kinh doanh chiến lược.
71
Loại hoạt động kinh doanh có nhu cầu phối hợp nhiều với các hoạt động kinh
doanh khác được gọi là đơn vị kinh doanh chiến lược. Các yếu tố để xác định các hoạt
động kinh doanh bao gồm thị trường, phối thức thị trường và nguồn lực. Để thiết lập các
đơn vị kinh doanh thì yếu tố thứ hai, phối thức thị trường có tầm quan trọng trên hết. Một
đơn vị kinh doanh tạo ra một phối thức thị trường riêng.
Trong htực tế, các đơn vị kinh doanh luôn có một cách định vị thị trường hay phối
thức tiếp thị riêng. Nhưng yêu cầu phù hợp chiến lược không có nghĩa là mỗi nhóm sản
phẩm với cách định vị thị trường hay phối thức tiếp thị riêng của nó sẽ thành sức mạnh
của đơn vị kinh doanh chiến lược.
Các đơn vị kinh doanh chiến lược tạo ra một phối thức thị trường độc lập. Mặt khác,
các đơn vị kinh doanh chiến lược có rất ít quyền tự trị về thị trường phục vụ và /hay
nguồn lực. Vì lý do này, các đơn vị kinh doanh thường cần có các điều chỉnh so với các
hoạt động kinh doanh khác:
• Hai đơn vị kinh doanh hoạt động trong cùng một thị trường có thể gây thiệt hại
lẫn nhau thông qua các hoạt động cạnh tranh của chúng. Trường hợp xấu nhất là
chúng có thể xâm chiếm doanh thu lẫn nhau. Ở đây các chiến lược không được
điều chỉnh qua lại sẽ có nguy cơ "bị cộng hưởng tiêu cực" mạnh về doanh thu.
• Hai đơn vị kinh doanh sử dụng cùng loại nguồn lực thì phụ thuộc lẫn nhau, hoặc
phụ thuộc về cấu trúc chi phí hoặc về chất lượng sản phẩm của chúng. Ví dụ,
chúng chỉ có thể có các chuyên gia chất lượng cao bằng cách cùng chia sẻ các chi
phí có liên quan. Ở đây, các chiến lược nếu không được điều chỉnh qua lại với
nhau sẽ bị mất đi tính hiệp lực về chi phí hay chất lượng.
Do đó, các đơn vị kinh doanh chiến lược tạo ra phối thức thị trường độc lập nhưng
cần phải phối hợp với các hoạt động kinh doanh khác về thị trường hay / và nguồn lực.
Ngược lại, lĩnh vực kinh doanh chiến lược được tự chủ ở mức độ lớn: các lĩnh vực kinh
doanh chiến lược không phải chia sẻ hoặc thị trường hoặc nguồn lực với các hoạt động
kinh doanh khác.
Tuy nhiên, trên thực tế hiếm khi có sự tự chủ tuyệt đối. Do đó, tiêu chí độc lập không
nên áp dụng quá nghiêm ngặt, đặc biệt là về nguồn lực. Vẫn có thể nói về các lĩnh vực
kinh doanh chiến lược miễn là các lĩnh vực này được độc lập sử dụng nguồn lực phù hợp
với các lợi thế cạnh tranh của chúng. Cũng có vài trường hợp công ty phải tái tổ chức sao
cho các nguồn lực dùng chung được phân chia và các đơn vị kinh doanh được cân nhắc
cẩn thận để chuyển thành các lĩnh vực kinh doanh.
Điều này nên làm khi mà lợi ích của động lực làm việc hay sự thực hiện được kì vọng
là có thể bù đắp cho những mất mát có thể về sự cộng hưởng hay chi phí phát sinh do
việc phân chia nguồn lực. Loại xê dịch này thường không đuọc xem xét trong lúc xác
định các hoạt động kinh doanh chiến lược ban đầu, nhưng có thể xuất hiện sau đó trong
quá trình thảo luận, đánh giá lựa chọn chiến lược .
Cũng cần lưu ý là sự tự chủ chiến lược không được dụng để gợi ý sự độc lập về tài
chính. ví dụ, một đơn vị kinh doanh chiến lược có thể hi vọng ở sự tiếp sức tài chính ban
đầu từ các hoạt động kinh doanh khác trong công ty.nói cách khác, chiến lược của công
ty có thể yêu cầu một hoạt động kinh doanh chiến lược tạo ra một dòng tiền tự do dương
để dùng đầu tư vào các hoạt động kinh doanh chiến lược khác của công ty. Sự tự chủ
72
chiến lược luôn luôn vận hành trong các giới hạn tài chính vì các nguồn lực tài chính luôn
hạn chế.
Bây giờ chúng ta có thể trình bày các định nghĩa của hai loại hoạt động kinh doanh chiến
lược.
Lĩnh vực kinh doanh chiến lược
• Là một hoạt động kinh doanh có đóng góp quan trọng vào sự thành công của công
ty
• Là hoạt động có thể được hoạch định độc lập
• Có một phối thức thị trường độc lập và không có sự chia sẻ đáng kể nào về các thị
trường hay/ và các nguồn lực với bất kì hoạt động kinh doanh nào khác trong
công ty.
Đơn vị kinh doanh chiến lược
• Là một hoạt động kinh doanh có đóng góp quan trọng vào sự thành công của công
ty
• Có một phối thức thị trường độc lập riêng
• Khi hoạch định, cần phải điều chỉnh chiến lược của nó với các chiến lược của các
đơn vị kinh doanh khác trong công ty, vì chúng hoạt động trong cùng một thị
trường hay/và chia sẻ các nguồn lực với nhau.
Hình 5.1. Định nghĩa lĩnh vực kinh doanh chiến lược và đơn vị kinh doanh chiến lược
Hình 5.2. Lĩnh vực kinh doanh chiến lược và đơn vị kinh doanh chiến lược
73
ĐV
ĐV ĐV
ĐV
ĐV
ĐV ĐV
Lĩnh vực
Mức độ phụ thuộc
qua lại yếu
Mức độ phụ thuộc
qua lại mạnh
Định nghĩa về các lĩnh vực kinh doanh chiến lược là các bộ phận tương đối độc
lập trong công ty cho thấy rằng mức độ phụ thuộc lẫn nhau và tiềm năng cho sự hiệp lực
giữa chúng là yếu. Do đó, lĩnh vực kinh doanh là một công ty trong công ty. Mặt khác,
các đơn vị kinh doanh chiến lược hoặc thể hiện phối thức thị trường riêng biệt bên trong
một lĩnh vực kinh doanh chiến lược, hoặc là một phối thức thị trường riêng biệt trong một
công ty, trong trường hợp của một công ty nhỏ với sự phụ thuộc qua lại về thị trường
hay/ và các nguồn lực chung, các đơn vị kinh doanh liên kết tương đối chặt với các đơn
vị kinh doanh khác trong một lĩnh vực kinh doanh hay một công ty nhỏ. Điều này tạo ra
tiềm năng cho việc hiệp lực cần phải được khám phá và khai thác.
Hình 5.3. Các nhóm lĩnh vực kinh doanh chiến lược và các đơn vị kinh doanh chiến lược
Nguồn: Kuhn and Grunig (2004)
74
Phân chia công ty thành
các lĩnh vực kinh doanh
Phân chia công ty thành
các đơn vị kinh doanh
Phân chia lĩnh vực kinh
doanh thành các đơn vị
kinh doanh
Không
phù hợp Phù hợp
Không phù
hợp Phù
hợp
Không phù
hợp Phù
hợp
Nhóm 1
- Cửa hàng bán
lẻ địa phương
- Toà soạn báo
trong vùng
Nhóm 2
Nhóm 2a
Công ty sản xuất thực phẩm đóng
hộp với nhãn hiệu riêng và cũng bán
cho hệ thống bán lẻ nước ngoài theo
nhãn của riêng họ.
Nhóm 2b
Nhà sản xuât dụng cụ trượt tuyết có
2 công ty, mỗi công ty có nhà máy
và thương hiệu riêng.
Nhóm 2c
Nhà lắp ráp đồng hồ nhỏ có một dây
chuyền lắp ráp và các nhãn hiệu
khác nhau
Nhóm 3
(Ít gặp trong thực tế)
Công ty có cần cẩu
di động và xe tải để
vận chuyển các chất
nguy hiểm
Nhóm 4
- Tập đoàn hoá
chất đa quốc
gia
- Công ty sản
xuất thực
phẩm đa dạng
hoá
Hình 5.2 trình bày các mức độ tự chủ khác nhau của các lĩnh vực kinh doanh và các đơn
vị kinh doanh của một công ty có ba lĩnh vực kinh doanh chiến lược, hai trong ba lĩnh
vực đó lại được chia nhỏ thành những đơn vị kinh doanh chiến lược khác nhau.
5.1.3. Các nhóm lĩnh vực kinh doanh chiến lược và các đơn vị kinh doanh chiến lược
Chúng ta có thể nhận dạng 4 nhóm khác nhau đối với các lĩnh vực và đơn vị kinh doanh
chiến lược. Ba trong bốn trường hợp chúng ta có thể tìm thấy nhiều ví dụ trong thực tế,
trong khi trường hợp còn lại là hiếm và được nêu ở đây cho đầy đủ.
Nhóm1 đại diện cho công ty không thể chia nhỏ thành các lĩnh vực hay đơn vị kinh
doanh. Loại công ty này hoạt động trong một thị trường duy nhất với một phối thức tiếp
thị thống nhất và một nhóm sản phẩm duy nhất. Ví dụ như các cửa hàng nhỏ bán quần áo
thời trang hay văn phòng phẩm. Các công ty quy mô vừa nằm trong loại này có thể là
công ty của những người làm đồ gỗ hoạt động chỉ trong một vùng hay toà soạn báo địa
phương. Một số công ty chuyên biệt lớn như Benneton hay Coca-cola cũng thuộc về loại
này trong những năm đầu phát triển.
Nhóm 2 bao gồm các công ty chỉ có một lĩnh vực kinh doanh, nhưng lĩnh vực kinh doanh
này có thể chia thành một số đơn vị kinh doanh. Nhóm này có ba loại nhỏ, rất phổ biến
trong thế giới kinh doanh ngày nay:
• Trong nhóm 2A, các đơn vị kinh doanh bán các sản phẩm của họ một cách độc
lập nhưng sử dụng chung nguồn lực. Ví dụ, một nhà sản xuất thực phẩm đồ hộp
có thể bán sản phẩm với nhãn hiệu riêng của họ qua các cửa hàng bán lẻ độc lập,
cùng lúc với việc hợp tác với một hệ thống bán lẻ lớn ở nước ngoài và cung cấp
cho họ những sản phẩm sẽ được bán dưới tên nhãn riêng hoặc như những sản
phẩm không nhãn hiệu.
• Nhóm 2B Đại diện cho trường hợp ngược lại. Các đơn vị kinh doanh khác nhau
có các nguồn lực độc lập, nhưng công tác tiếp thị phải được phối hợp chặt chẽ.
Ví dụ cho trường hợp này là một khi một nhà sản xuất dụng cụ trượt tuyết mua
đứt một đối thủ cạnh tranh nhỏ hơn nhưng vẫn tiếp tục sản xuất và bán sản phẩm
của nó một cách độc lập. Để giới hạn cạnh tranh giữa hai công ty phải phối hợp
hoạt động tiếp thị của chúng.
• Nhóm 2C là sự kết hợp của hai nhóm đầu. Có sự hiệp lực cả trong tiếp thị cũng
như nguồn lực. Ví dụ, trong ngành sản xuất đồng hồ Thuỵ Sĩ có một nhà lắp ráp
nhỏ tạo ra các kiểu đồng hồ khác nhau với các phương tiện sản xuất và chúng
được tiếp thị dưới nhiều nhãn hiệu khác nhau. Trong trường hợp này phải có sự
phối hợp trong sản xuất và định vị thị trường giữa các đơn vị kinh doanh khác
nhau.
Trong thực tế, hiếm khi có nhóm 3. Các công ty có thể được chia thành các lĩnh vực
kinh doanh nhưng chúng rất đồng nhất đến mức không thể chia nhỏ hơn thành các đơn vị
kinh doanh. Ví dụ, một công ty với quy mô vừa, chuyên cung cấp các cần trục cho những
dự án xây dựng đặc biệt khó và các dịch vụ vận chuyển chuyên biệt các chất liệu nguy
hiểm.
Nhóm 4 tiêu biểu cho trường hợp phức tạp nhất. Một công ty có một số lĩnh vực
kinh doanh được chia nhỏ thành các đơn vị kinh doanh. Hầu hết các công ty sản xuất hoá
75
chất lớn, các công ty sản xuất hàng công nghiệp và các công ty sản xuất thực phẩm đa
dạng hoá, quy mô lớn thuộc nhóm này.
5.1.4. Xác định các hoạt động kinh doanh chiến lược
Trước khi đánh giá tình hình chiến lược hiện tại và thiết lập các mục tiêu chiến
lược, phải xác định các hoạt động kinh doanh chiến lược của công ty. Đây là giai đoạn
đầu tiên trong quá trình xây dựng một chiến lược công ty.
Để xác định các hoạt động kinh doanh chiến lược cần thực hiện các bước sau:
• Nhận dạng và phân loại cac phối thức thị trường hiện tại.
• Xác định các đơn vị kinh doanh chiến lược.
• Nhóm các đơn vị kinh doanh thành các lĩnh vực kinh doanh theo thị trường và/ hay sự
phụ thuộc về nguồn lực. Có thể nâng cấp các đơn vị kinh doanh lênthành các lĩnh vực
kinh doanh.
Mục tiêu của bước đầu tiên là nhận dạng các phối thức thị trường hiện tại và phân
loại chúng theo sự giống nhau hay quan hệ thứ bậc. Cần có một cái nhìn khái quát và hệ
thống về các hoạt động quan trọng tạo ra doanh thu, cả trong hiện tại và tương lai. Thông
thường, phân tích chiến lược ban đầu phải tạo sự hiểu biết đủ về các mối quan hệ qua lại
giữa các thị trường được phục vụ. các phối thức thị trường và các nguồn lực để tạo ra
danh mục các phối thức thị trường.
Bước thứ hai là xác định các đơn vị kinh doanh chiến lược. Cần gom nhóm lại tất cả
các sản phẩm hay dịch vụ cùng đáp ứng các nhu cầu giống nhau và có hay nên có định vị
thị trường giống nhau.
Hoạt động kinh doanh cũng cần có một quy mô tối thiểu nhất định nào đó để đạt tầm
quan trọng chiến lược. Để đánh giá chiến lược của các hoạt động kinh doanh chúng ta có
thể sử dụng các tiêu chí định lượng; ví dụ như phần trăm doanh thu cụ thể của công ty mà
hoạt động kinh doanh phải đạt được trong tương lai, để đạt tầm quan trọng chiến lược.
Phần trăm tối thiểu này phải được các nhà hoạch định đánh giá theo chủ quan. Trong thực
tế, các giá trị giữa 3% và 5% thường hữu dụng. Các ước lượng về tương lai luôn không
chắc chắn, vì vậy thật sáng suốt khi xem những con số này chỉ là định hướng sơ bộ hơn là
một tiêu chí nghiêm ngặt. Doanh thu là tiêu chí chính, nhưng cần linh hoạt. Khi các hoạt
động kinh doanh có tiềm lực mạnh về đóng góp biện tế hoặc lợi nhuận, có thể phân loại
chúng tương ứng là có tầm quan trọng chiến lược cho dù phần trăm doanh thu có thấp.
Nếu nhận thấy một đơn vị kinh doanh không xứng với tầm vóc chiến lược thì có thể
kết hợp nó với một đơn vị lớn hơn có cùng sản phẩm.Các nhà sản xuất dược phẩm và hoá
phẩm nông nghiệp rất thường có một số loại sản phẩm có liên quan trong một đơn vị kinh
doanh.
Trong Bước Ba các đơn vị kinh doanh được nhóm vào các lĩnh vực kinh doanh hoặc
được nâng cấp lên thành các lĩnh vực kinh doanh . để thực hiện phải xem xét cẩn thận sự
phụ thuộc lẫn nhau về quan hệ thị trường và /hay cơ sở nguồn lực giữa các đơn vị kinh
doanh.
Khi một đơn vị chiến lược không có sự phụ thuộc chủ yếu qua lại với các đơn vị
khác, tức là nó tương đối độc lập trong thị trường phục vụ và trong nguồn lực thì có thể
76
nâng cấp lên thành một lĩnh vực kinh doanh. Tuy nhiên đây là một trường hợp ngoại lệ.
Thông thường các đơn vị kinh doanh sẽ được kết hợp thành các lĩnh vực kinh doanh.
• Khi có sự hiệp lực đáng kể giữa các đơn vị kinh doanh trong các thị trường được
phục vụ và/hay trong nguồn lực sử dụng, chúng cùng tạo nên một lĩnh vực kinh
doanh duy nhất.
• Trong một số trường hợp, sẽ có sự cộng hưởng mạnh giữa toàn bộ hoạt động
trong cùn một công ty. Ở đây công ty có một số đơn vị kinh doanh khác nhau
nhưng tất cả tạo thành một lĩnh vực kinh doanh duy nhất.
Kinh nghiệm cho thấy, trong thực tế thường khó quyết định xem một mối quan hệ thị
trường hay nguồn lực giữa các đơn vị kinh doanh có đủ mạnh để nhóm các đơn vị kinh
doanh thành một lĩnh vực kinh doanh.
• Đôi khi khó xác định là hai phối thức thị trường có cạnh tranh với nhau hay
không, và do đó có nên phối hợp các hoạt động của hai đơn vị kinh doanh hay
không. Trong những trường hợp này, quyết định phải dựa trên tốc độ có thể thay
thế cho nhau của các phối thức thị trường trong việc thoả mãn nhu cầu khách
hàng và mức độ phân khúc khách hàng chồng chéo lên nhau.
• Những sự phụ thuộc về nguồn lực phải được diễn dịch theo một ý nghĩa hạn chế.
Sự phụ thuộc chỉ tồn tại khi nguồn lực đang được xem xét là rất quan trọng cho
việc đạt các tiềm lực thành công thiết yếu hoặc tránh được những bất lợi cạnh
tranh quan trọng.
Chiến lược công ty phải đảm bảo rằng công ty sẽ hướng các hoạt động vào những thị
trường hấp dẫn, nơi mà nó có thể xây dựng hoặc duy trì vị thế cạnh tranh thuận lợi. Do
đó, chiến lược công ty phải xác định xu hướng và sự phát triển lâu dài cho các hoạt động
của công ty.
5.2. Đánh giá độ hấp dẫn của thị trường bằng mô hình năm tác lực cạnh tranh
Các yếu tố cạnh tranh Các giá trị có thể làm
tăng áp lực cạnh tranh
trong một ngành (giảm
độ hấp dẫn của ngành)
(1) Nguy cơ xâm nhập của các nhà cạnh tranh tiềm năng
Lợi thế chi phí tuyệt đối của các công ty đã thiết lập Thấp
Sự khác biệt của sản phẩm Thấp
Doanh thu tối thiểu cần phải đạt được Thấp
Các đòi hỏi về vốn Thấp
Chi phí chuyển đổi Thấp
Khả năng tiếp cận với kênh phân phối Dễ
Lòng trung thành của khách hàng đối với nhà cung cấp Thấp
Các yêu cầu và hạn chế về pháp lý Không đáng kể
77
(2) Các đối thủ cạnh tranh hiện tại trong ngành
Số lượng các đối thủ cạnh tranh có qui mô tương đương nhau Lớn
Tốc độ tăng trưởng của ngành Trì trệ và suy thoái
Chi phí cố định Cao
Các cam kết thị trường giữa các công ty Không tồn tại
Các phân khúc khách hàng với nhu cầu đặc biệt Không đáng kể
Năng lực của ngành Dư thừa
Tính đa dạng của ngành Thấp
Quan hệ chiến lược của các hoạt động kinh doanh chiến lược Cao
Sự đặt cược vào ngành của các đối thủ cạnh tranh Cao
Chi phí rút khỏi thị trường Cao
(3) Áp lực từ các sản phẩm thay thế
Hiệu quả hoạt động của các ản phẩm và dịch vụ thay thế Tốt hơn sản phẩm và
dịch vụ của ngành
Chi phí của các sản phẩm và dịch vụ thay thế Thấp hơn sản phẩm và
dịch vụ của ngành
(4) Áp lực từ phía khách hàng
Mức độ tập trung của người mua Cao
Số lượng người mua Ít
Tỷ lệ chi phí sản phẩm và dịch vụ được cung cấp trong tổng chi
phí của người mua
Cao
Mức độ tiêu chuẩn hoá của sản phẩm và dịch vụ Cao
Mức độ quan trọng của sản phẩm và dịch vụ được cung cấp đối
với chất lượng sản phẩm và dịch vụ của người mua
Thấp
Chi phí chuyển đổi của người mua Thấp
Mức độ phụ thuộc của nhà cung cấp đối với người m