Xây dựng nội dung tích hợp giáo dục tài chính cho học sinh lớp 3 tại thành phố Hồ Chí Minh

Abstract: Our research has built a system of financial education contents for 3rd grade students base on the current curriculum of subjects and new general education curriculum in primary school. The contents of financial education are designed according to SOS principles (Saving - Offering - Spending) and integrated into the subjects and activities of 3rd grade students. Content of integrating financial education is designed in the form of games, practice exercises and solving situations related to how to use money according to SOS principles.

pdf6 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 278 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xây dựng nội dung tích hợp giáo dục tài chính cho học sinh lớp 3 tại thành phố Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 466 (Kì 2 - 11/2019), tr 22-27 22 Email: giangnm@hcmue.edu.vn XÂY DỰNG NỘI DUNG TÍCH HỢP GIÁO DỤC TÀI CHÍNH CHO HỌC SINH LỚP 3 TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Nguyễn Minh Giang - Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh Ngày nhận bài: 22/8/2019; ngày chỉnh sửa: 27/9/2019; ngày duyệt đăng: 04/10/2019. Abstract: Our research has built a system of financial education contents for 3rd grade students base on the current curriculum of subjects and new general education curriculum in primary school. The contents of financial education are designed according to SOS principles (Saving - Offering - Spending) and integrated into the subjects and activities of 3rd grade students. Content of integrating financial education is designed in the form of games, practice exercises and solving situations related to how to use money according to SOS principles. Keywords: Financial education, 3rd grade students, primary, SOS. 1. Mở đầu Giáo dục tài chính (GDTC) được hiểu là một quá trình trong đó người tiêu dùng/nhà đầu tư hiểu biết về các khái niệm, sản phẩm và rủi ro tài chính để phát triển các kĩ năng nhận biết các rủi ro và cơ hội tài chính. Từ đó, họ đưa ra các quyết định và hành động một cách hiệu quả nhằm cải thiện tình trạng tài chính của mình. GDTC giúp cải thiện trình độ hiểu biết về tài chính, giúp các cá nhân vượt qua những tổn thương do hoàn cảnh, phá vỡ các rào cản tâm lí và khoảng cách địa lí [1]. Bắt đầu từ những năm 50 của thế kỉ XX, Nhật Bản đã đưa ra chính sách tiết kiệm thông qua các tổ chức như ngân hàng trẻ em và tiết kiệm bưu điện. Sau đó, các nước như Hàn Quốc, Singapore, Malaysia và Trung Quốc cũng đã thực hiện các chính sách xúc tiến tiết kiệm tương tự. Đây chính là tiền thân của việc đưa GDTC vào trong trường học hiện nay [2]. Năm 2010, các nước thuộc G20 chỉ ra tầm quan trọng của chính sách hòa nhập và thiết lập quan hệ tài chính đối với các quốc gia thành viên trong G20 và với các quốc gia khác trên toàn cầu [1]. Sự ra đời của GDTC được tích hợp vào các chủ đề của nhiều môn học tại các trường học ở các quốc gia châu Á bắt đầu từ khá sớm như ở Nhật Bản (2007), New Zealand (2007), Philippines (2009), Hàn Quốc (2009), Malaysia (2011), Singapore (2012), Trung Quốc (2014), Ấn Độ (2015), [2]. Từ năm 2012, kiến thức về tài chính là một phần tùy chọn trong chương trình của OECD để đánh giá học sinh (HS) quốc tế (PISA). Trên cơ sở đó đã xây dựng chương trình chi tiết về GDTC trong trường học và bộ tiêu chuẩn quốc tế duy nhất về mức độ hiểu biết tài chính của những người trẻ [3]. Ở Việt Nam, hiện nay chưa có chính sách GDTC quốc gia. Tuy nhiên, một số ngân hàng và tổ chức phi chính phủ đã thực hiện GDTC trong rất ít trường học và cộng đồng dân cư, nhưng hiệu quả tác động đến thay đổi nhận thức về tài chính không đáng kể. Theo kết quả điều tra về thái độ và hành vi tài chính của Việt Nam cho thấy, song song với việc cải thiện giáo dục phổ thông nói chung, việc trang bị các kiến thức về GDTC là cần thiết để cải thiện các hành vi tài chính như tiết kiệm và tiêu dùng hợp lí [4]. Theo nghiên cứu của Đại học Cambridge (2013), thói quen sử dụng tiền của trẻ định hình từ khi chúng 7 tuổi. Với độ tuổi còn nhỏ, HS khó nhận thức mọi thứ xung quanh đúng đắn nếu không có sự tác động tích cực cũng như các biện pháp giáo dục phù hợp từ gia đình, nhà trường và xã hội [5]. GDTC cần được dạy và cần thực hành thường xuyên để hình thành kĩ năng quản lí tài chính từ giai đoạn trẻ em và thanh thiếu niên một cách hệ thống [6]. Nội dung GDTC cho trẻ em bao gồm các kiến thức về tiền bạc, cách quản lí khôn khéo, hiệu quả và thông minh nhất số tiền của mình, từ đó giúp trẻ nhận thức giá trị của tiền, biết quản lí tiền và hình thành thói quen tài chính tốt. Mục tiêu của việc GDTC là giúp HS có thể đưa ra các quyết định về tài chính tốt nhất, tránh những sai lầm, có thể kháng lại những áp lực tài chính từ bạn bè, xã hội trong tương lai. Trong chương trình giáo dục hiện hành ở tiểu học, một số nội dung GDTC đã đề cập trong môn Toán và Đạo đức, nhưng không tuân theo một nguyên tắc GDTC nào, nên chưa thực sự mang lại hiệu quả. Mặt khác, HS chỉ đọc hết các giá trị của tiền Việt Nam ở hàng trăm ngàn liên quan đến các con số trong môn Toán lớp 3. Vì vậy, trong nghiên cứu “Thiết kế nội dung GDTC cho HS lớp 3 tại TP. Hồ Chí Minh”, chúng tôi đã xây dựng hệ thống các nội dung GDTC theo nguyên tắc SOS (Saving - Offering - Spending: tiết kiệm - từ thiện - chi tiêu). Các nội dung này được tích hợp vào các môn học và hoạt động cho HS, nên không ảnh hưởng đến chương trình giáo dục hiện hành. Đồng thời, đây cũng chính là tài liệu hỗ trợ giáo viên (GV) dạy học GDTC trong chương trình giáo dục phổ thông mới ở cấp tiểu học. VJE Tạp chí Giáo dục, Số 466 (Kì 2 - 11/2019), tr 22-27 23 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Phương pháp nghiên cứu 2.1.1. Cách tiếp cận nghiên cứu Theo khảo sát của Tổ chức Cứu trợ trẻ em quốc tế, ngày nay HS ngày càng được cha mẹ cho tiền tiêu vặt nhiều hơn, dao động thấp nhất là 50.000 đồng và cao nhất là 300.000 đồng/tuần. Hiện có tới 86% HS được cha mẹ cho tiền tiêu vặt, nhưng có đến 68% chi tiêu không có kế hoạch. Thông thường, mỗi HS có bao nhiêu tiền thì sử dụng hết bấy nhiêu trong một ngày. Rất ít HS biết đặt mục tiêu, tiết kiệm một số tiền nhất định để sử dụng vào các mục đích lớn hơn như mua xe đạp, mua một quyển sách yêu thích, hay ủng hộ các hoạt động vì cộng đồng [7]. Hiện nay, chưa có nội dung và biện pháp GDTC cụ thể cho HS. Phụ huynh và GV rất mong muốn thực hiện GDTC nhưng chưa nắm vững được nguyên tắc và có rất ít tài liệu hỗ trợ. Quan điểm dạy cho trẻ biết tiền quá sớm sẽ ảnh hưởng không tốt là quan niệm sai lầm. Thay vì né tránh, cha mẹ hãy dạy cho các con những hiểu biết về tiền, cách kiếm tiền từ rất sớm để con hiểu tiền không phải tự nhiên mà có, từ đó trẻ em sẽ có trách nhiệm hơn với đồng tiền và biết sử dụng một cách hữu ích. Dạy cho trẻ cách tiết kiệm tiền và quản lí tài chính nên bắt đầu khi HS còn nhỏ, tiếp tục khi trẻ lớn lên và cần sự rèn luyện thành thói quen trong đời sống. Một nghiên cứu gần đây đối với 25 HS lớp 3 đã nhận được 20 giờ GDTC. Sau đó, mỗi HS nhận được một con heo đất với bốn khe (tiết kiệm, chi tiêu, đầu tư và quyên góp) để thực hành các nội dung đã học. Kết quả kiểm tra cho thấy kiến thức, thái độ về tiền và cách sử dụng đã được cải thiện đáng kể so với trước đó và số tiền tiết kiệm cũng tăng lên [8]. Theo chương trình giáo dục phổ thông hiện hành và Chương trình giáo dục phổ thông 2018, GDTC là một trong những nội dung tích hợp linh hoạt trong môn học và hoạt động giáo dục ngay từ cấp tiểu học. Trong đó, hoạt động trải nghiệm là môn học bắt buộc dạy cho HS tiểu học có tích hợp các nội dung GDTC trong các chủ đề như khám phá bản thân, rèn luyện bản thân, chăm sóc gia đình, xây dựng cộng đồng, hoạt động hướng nghiệp, [9]. 2.1.2. Phương pháp nghiên cứu Để đạt mục tiêu và nhiệm vụ đề ra, đề tài đã sử dụng các phương pháp chủ yếu như sau: - Phương pháp nghiên cứu lí thuyết, nghiên cứu thực tiễn: về cơ sở lí luận, nguyên tắc GDTC, lí thuyết về đặc điểm tâm - sinh lí cho HS tiểu học nói chung và HS lớp 3 nói riêng ở Việt Nam và các nước trên thế giới, phân tích Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể 2018 và sách giáo khoa hiện hành của các môn học để đề xuất các nội dung GDTC được tích hợp trong môn học và các hoạt động của HS tiểu học. - Phương pháp sử dụng bảng hỏi: được sử dụng để thu thập thông tin phản hồi của GV và HS khi tham gia các nội dung GDGT. - Phương pháp thống kê, phân loại, phân tích, so sánh: nhóm phương pháp này giúp rút ra những kết luận từ kết quả của quá trình thực nghiệm. - Phương pháp quan sát sử dụng để đánh giá mức độ hứng thú, tính hiệu quả khi tích hợp nội dung và đã đề xuất về GDTC. - Phương pháp thử nghiệm sư phạm: sử dụng để kiểm tra hiệu quả của một số nội dung tích hợp GDTC đã thiết kế. 2.2. Kết quả nghiên cứu 2.2.1. Xây dựng nội dung tích hợp giáo dục tài chính trong môn học và hoạt động cho học sinh lớp 3 Dựa trên nguyên tắc SOS và kết quả khảo sát thực trạng một số trường tiểu học trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh, chúng tôi đề xuất các nội dung GDTC theo một hệ thống. Các chủ đề có mối quan hệ mật thiết với nhau bao gồm: (1) “Tìm hiểu chung về tiền”, HS được tìm hiểu về những tờ tiền của Việt Nam đang sử dụng hằng ngày với tất cả các mệnh giá. Ngoài việc biết tất cả các mệnh giá tiền Việt Nam, HS còn được nâng cao tình yêu quê hương, đất nước thông qua việc khám phá những cảnh đẹp, địa danh nổi tiếng được in phía sau các tờ tiền. (2) “Em giữ tiền như thế nào”, HS nhận thức được số tiền mình hiện có và những nơi thích hợp để cất giữ cẩn thận tiền của mình. Làm thế nào để giúp HS ý thức và tự giác tiết kiệm tiền? (3) “Nguồn gốc, giá trị của tiền”, HS nhận thức được nguồn gốc của tiền chính là từ sức lao động của ba mẹ, từ phần thưởng khi em có điểm tốt, phụ giúp ba mẹ một số công việc ở nhà. (4) “Cá tính của em về tiền”, HS sẽ được trải nghiệm làm những nhà tranh luận, đưa ra quan điểm về tiền qua 04 câu chuyện về kẻ khoe khoang, né tránh, theo sau và tiết kiệm. Cuộc tranh luận nhằm phát huy kĩ năng hùng biện của HS chứ không đưa ra kết luận đúng sai. Qua cuộc tranh luận, HS sẽ xác định được cá tính của mình về tiền bạc. (5) “Những nguyên tắc đơn giản của tỉ phú”, HS được tìm hiểu về một số tỉ phú nổi tiếng trên thế giới và những nguyên tắc đơn giản của họ về vấn đề tiền bạc. Từ đó, HS có thể học hỏi, thử áp dụng để giúp tăng nhanh số tiền tiết kiệm. (6) “Phân biệt cần - muốn”, HS học một kĩ năng quan trọng trong việc quản lí tài chính, đó là kiểm soát được VJE Tạp chí Giáo dục, Số 466 (Kì 2 - 11/2019), tr 22-27 24 việc sử dụng tiền của mình. Chủ đề này nhằm giúp HS hệ thống lại những gì mình đã mua trong một khoảng thời gian ngắn nhất định. Từ đó, HS phân loại đâu là thứ mình cần và đâu là thứ mình muốn. HS sẽ tự rút ra quy tắc sử dụng tiền: Tập trung vào thứ mình cần, hạn chế mua thứ mình muốn. Ngoài ra, HS còn được học một số mẹo nhỏ để xác định nhanh chóng thứ mình cần và thứ mình muốn. (7) “Tiết kiệm tiền” là chủ đề giúp HS chia sẻ kinh nghiệm, trải nghiệm của chính bản thân trong quá trình học và áp dụng kĩ năng quản lí tài chính vào cuộc sống. Sau đó, HS tiếp tục lên kế hoạch cho việc tiết kiệm trong khoảng thời gian ngắn hạn và cụ thể. Theo quy tắc SOS, GV có thể khơi gợi ở HS sự đồng cảm và lòng yêu thương, mong muốn giúp đỡ người khác. Tập thể HS cùng nhau áp dụng kĩ năng mới này để thực hiện một dự án từ thiện vì cộng đồng. Hoạt động này vừa có ý nghĩa nhân đạo, vừa giúp nâng cao sự gắn kết tập thể. (8) “Tiêu dùng thông thái” là chủ đề cuối cùng sau khi HS được học cách tiết kiệm (S) và từ thiện (O). Ở lớp 3, đây là một kĩ năng khó, cần một thời gian tương đối dài để hình thành thói quen tiêu dùng thông minh. Chính vì vậy, nội dung này được tổ chức thông qua các hoạt động thực tế như đi chợ, đi siêu thị, hội chợ mini, để HS có cơ hội trải nghiệm và tự rút ra cho mình những bài học và kinh nghiệm tiêu dùng. Qua đó, kĩ năng này sẽ được hình thành kĩ năng một cách tự nhiên và dễ khắc sâu cho HS. Bảng tổng hợp nội dung tích hợp GDTC cho HS lớp 3 Chủ đề Bài học tích hợp Nội dung Tìm hiểu chung về tiền Bài 19: Các thế hệ trong một gia đình [10] Bài: Tiền Việt Nam [11] - HS được học về tiền sử dụng hiện hành của Việt Nam, thông qua xác định kích thước của hình chữ nhật bao gồm: + Các mệnh giá tiền đang được sử dụng: Từ 200 đồng đến 500.000 đồng. + Hình ảnh trực quan của từng mệnh giá. + Các chi tiết có trên mỗi tờ tiền. + Tìm hiểu các địa danh được in trên mặt sau mỗi tờ tiền. Em giữ tiền như thế nào? Bài 3: Tự làm lấy việc của mình [12] - HS được: + Chia sẻ về những thói quen giữ tiền của bản thân, của gia đình. + Hệ thống lại những cách giữ tiền thường gặp. + Phân tích những điểm tốt và hạn chế của từng cách giữ tiền. + Bổ sung thêm một số cách giữ tiền khác từ GV. + Trải nghiệm làm một sản phẩm thủ công. Đề xuất: Lợn tiết kiệm từ vỏ chai nhựa tái chế. Nguồn gốc, giá trị của tiền mình có Bài 20: Họ nội, họ ngoại [10] - Hoạt động chăm sóc gia đình [9] - HS biết được số tiền mình có được từ đâu đến, bao gồm: + Do cha mẹ cho để tiêu vặt. + Phụ giúp cha mẹ một số công việc như chăm sóc thú cưng, làm vườn. + Tiền tiết kiệm. - Mở rộng cho HS về nguồn gốc của tiền từ xa xưa: Tiền là vật trung gian để trao đổi hàng hóa. Cá tính của em về tiền - Hoạt động tìm hiểu về nghề nghiệp [3] - HS được học về 4 cá tính về tiền thường gặp trong cuộc sống, bao gồm: + Chú công Philly (Kẻ khoe khoang)? Bạn thích mọi người phải “wow wow wow” trước vẻ ngoài và sự xa hoa của bạn. + Cô đà điểu Orrie (Kẻ né tránh)? Bạn không thoải mái nếu phải nói về tiền. Khi gặp vấn đề tiền bạc, bạn thường thích vùi đầu vào cát hơn là tìm cách giải quyết. + Cô cừu Susie (Kẻ theo sau)? Bạn rất sợ ra những quyết định táo bạo và liều lĩnh. Bạn thích làm theo những gì người khác làm. + Chú sóc chuột Chipy (Kẻ tiết kiệm)? Bạn chăm chỉ lượm hạt dẻ và tích trữ cho mùa đông giá rét. Bạn thích tiết kiệm và lập kế hoạch cho tương lai. - HS được hướng dẫn xác định cá tính của em về tiền.  Mục đích: Biết mình là ai để lựa chọn những quy tắc thích hợp với bản thân qua các bài học. VJE Tạp chí Giáo dục, Số 466 (Kì 2 - 11/2019), tr 22-27 25 Những nguyên tắc đơn giản của tỉ phú - Hoạt động hướng vào bản thân [9] - Hoạt động hướng đến xã hội [9] - HS được tìm hiểu về một số vị tỉ phú trên thế giới và những quy tắc đơn giản của họ đối với tiền bạc. - Một số tỉ phú nhóm chúng tôi đề xuất: + Steve Jobs: Chỉ mua những gì mà bạn cần + Warren Buffett: Hãy thử tự kiếm tiền từ những công việc nhỏ + Mark Zuckerberg: Sống thật giản dị + Michael Bloomberg: Tiết kiệm từ đôi giày dưới chân - HS tự lựa chọn 1-2 nguyên tắc mà em thích nhất để áp dụng trong cuộc sống. - Sau khoảng 2 tuần, HS sẽ được chia sẻ về một trải nghiệm của bản thân khi áp dụng quy tắc của các tỉ phú. Phân biệt “cần” - “muốn” Bài 8: Vệ sinh cơ quan tuần hoàn [10] Bài 17+18: Ôn tập: Con người và sức khỏe [10] - Hoạt động rèn luyện bản thân [9] - HS được tìm hiểu về nhu cầu cần và nhu cầu muốn. + Cần: Là những thứ cần thiết để chúng ta tồn tại như quần áo, đồ ăn, uống, hoặc những thứ cần thiết cho học tập như sách vở, bút mực, + Muốn: Là những thứ chúng ta thích thú, phục vụ cho nhu cầu giải trí như đồ chơi, trò chơi điện tử, Tuy nhiên, nếu không có những thứ đó, chúng ta vẫn sống bình thường. - HS tự ghi nhận và phân loại những thứ mình đã mua trong 2 tuần vừa qua. Đâu là cần và đâu là muốn? - HS nêu suy nghĩ vì sao phải tập trung vào thứ mình cần và hạn chế những thứ mình muốn. - HS được học mẹo để giảm bớt việc mua những thứ mình muốn. Đó là: + Trả lời câu hỏi: Nếu mình không mua nó thì có sao không? + Thử để 1 tuần sau quay lại mua. Tiết kiệm tiền Bài 8: Vệ sinh cơ quan tuần hoàn [10] Bài 48: Quả ([10] Bài 47: Hoa [10] - Hoạt động xây dựng cộng đồng [9] - HS hiểu khái niệm về tiết kiệm một cách đơn giản nhất: Tiết kiệm tiền là sử dụng, tiêu tiền đúng mức và để dành tiền mua các vật dụng cần thiết. - HS được chia sẻ cách tiết kiệm tiền của bản thân. - HS được học thêm một số cách tiết kiệm khác của các bạn cùng lớp và GV. - HS xác định được mục đích của việc tiết kiệm tiền. - HS được trải nghiệm đặt mục tiêu ngắn hạn (2 tuần) để thực hiện dự án tiết kiệm của bản thân. Tiêu dùng thông thái Bài học: Cộng, trừ các số trong phạm vi 100 000 [11] - Hoạt động xây dựng cộng đồng [9] - HS được học tầm quan trọng của việc lập kế hoạch mua sắm. - HS điều tra các vật dụng của gia đình mình sử dụng trong 1 tháng. - HS trải nghiệm lên một kế hoạch mua sắm cho gia đình mình trong 1 tháng. - HS tự phân tích, nhận xét về xe hàng của nhau. - Từ đó, HS rút ra được kết luận về tiêu dùng thông thái: Lên kế hoạch trước khi mua, mua những thứ mình cần, hạn chế thứ mình muốn, đảm bảo mua đủ số lượng và vật dụng Tổng kết Hoạt động xây dựng cộng đồng [9] - Mỗi tổ chuẩn bị một sản phẩm thủ công hoặc chuẩn bị một số bánh, kẹo, nước ngọt, mang đến lớp. - Lớp học sẽ trở thành một ngôi chợ nhỏ. - Mỗi nhóm sẽ nhận được sự tư vấn của GV để định giá cho các món hàng của mình. - HS sẽ thay phiên nhau quản lí gian hàng và đi trao đổi - mua bán với các nhóm còn lại. VJE Tạp chí Giáo dục, Số 466 (Kì 2 - 11/2019), tr 22-27 26 2.2.2. Thiết kế và thử nghiệm một số nội dung giáo dục quản lí tài chính cho học sinh lớp 3 Chúng tôi đã tiến hành xây dựng kế hoạch dạy học và thử nghiệm 2 nội dung giáo dục quản lí tài chính tại lớp 3/3, sĩ số lớp là 25 HS tại Trường Tiểu học Khai Minh (Quận 1) và 34 HS lớp 3 của Trường Tiểu học Võ Thị Sáu (Quận 7). Kết quả thử nghiệm như sau: 2.2.2.1. Nội dung 1: Hái lộc đầu năm (Chủ đề “Tìm hiểu chung về tiền”) Nội dung này được tích hợp vào phần củng cố trong bài “Các thế hệ trong một gia đình” và “Họ nội, họ ngoại” của môn Tự nhiên và Xã hội 3 dưới dạng trò chơi học tập. Tiến trình của hoạt động: Mỗi bài học, sẽ tích hợp là 6 mệnh giá tiền Việt Nam trong 6 bao lì xì khác nhau gắn lên một cây mai. Nhiệm vụ của mỗi tổ là sẽ chọn một bao lì xì; để biết bên trong bao lì xì có gì, HS trong tổ phải trả lời được câu hỏi do GV đặt ra liên quan đến bài “Các thế hệ trong một gia đình” và “Họ nội, họ ngoại”. Nếu tổ nào trả lời đúng đáp án của câu hỏi, sẽ được cộng 10 điểm và trả lời sai, quyền trả lời sẽ dành cho các tổ còn lại. Sau khi trả lời chính xác đáp án, HS sẽ được mở bao lì xì. Nhiệm vụ tiếp theo của HS là đọc giá trị của tờ tiền và trả lời đúng nội dung được in phía mặt sau của tờ tiền. Nếu tổ không trả lời được thì phần trả lời sẽ dành cho các tổ còn lại. Sau mỗi lần mở bao lì xì, GV sẽ chốt giá trị của tờ tiền, nội dung phía sau tờ tiền và ghi điểm cho các tổ. Cuối cùng, GV sẽ chốt lại nội dung của hoạt động, tổng kết điểm và trao giải cho HS. Sau khi kết thúc thử nghiệm, qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy, 100% HS thích thú với tiết học, vì tiết học rất bổ ích và HS được học nhiều kiến thức. Hoạt động mà HS thích nhất là mở bao lì xì và hỏi về các địa danh ở trên tờ tiền. Khi được hỏi có bao nhiêu mệnh giá tiền Việt Nam sau mỗi bài học, 20/59 HS trả lời đúng 6/6 mệnh giá, 28 HS trả lời được đáp án đúng là 5/6 mệnh giá và 6 HS trả lời đúng từ 4/6 mệnh giá và 5 HS trả lời đúng 3/6 mệnh giá. Kết quả này cho thấy, đa số HS đã nhớ được 6 mệnh giá tiền Việt Nam trong tiết học. Khi được hỏi HS thích nhất mệnh giá nào, thì đáp án chọn cao nhất là tờ tiền có giá trị lớn nhất (27/59 HS), còn các giá trị tiền khác có từ 2 đến 4 HS chọn, nghĩa là không khác nhau nhiều và được lí giải vì thích hình ảnh được in trên tờ tiền. Khảo sát 03 GV dự giờ cho thấy: nội dung hái lộc đầu năm đã dạy cho HS các mệnh giá tiền Việt Nam và ý nghĩa các hình ảnh được in trên đó. Những hình ảnh này tích hợp vào trong bài học về gia đình, giúp HS mở rộng tri thức về lịch sử và văn hóa. Phương pháp dạy học được thực hiện dưới dạng trò chơi học tập hoàn toàn phù hợp HS lớp 3. GV sử dụng cây mai thật có trang trí bao lì xì đã làm tăng sự hứng thú của HS tham gia hoạt động GDTC. 2.2.2.2. Nội dung 2: Bữa tiệc buffet (Chủ đề “Tiêu dùng thông minh”) Nội dung này được tích hợp trong phần củng cố của bài “Vệ sinh cơ quan tuần hoàn” (Tự nhiên và Xã hội 3) dưới dạng trò chơi học tập. Tiến trình của hoạt động: Hình ảnh các món ăn, tháp dinh dưỡng được chuẩn bị sẵn và bày ra bàn. Mỗi HS sẽ có một số tiền ảo là 25.000 đồng v
Tài liệu liên quan