Tóm tắt: Trên cơ sở phân tích lý luận và nhận thức việc xây dựng
Trung tâm Tri thức số ở Việt Nam - như một động lực quan trọng
thúc đẩy sự nghiệp thư viện ở Việt Nam phát triển lên một tầm cao
mới; tác giả bài viết phác thảo đôi nét về việc chuyển đổi số trong
hệ thống thư viện công cộng Việt Nam trong khoảng 2 thập kỷ qua;
đồng thời đề xuất một số nội dung cơ bản, những giải pháp khả thi,
nhằm từng bước xây dựng và phát triển Trung tâm Tri thức số ở Việt
Nam trong tương lai; đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ của các thư viện
trường đại học và cao đẳng trong cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0.
12 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 60 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xây dựng trung tâm tri thức số ở Việt Nam cần phải làm gì và làm thế nào?, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
XÂY DỰNG TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ Ở VIỆT NAM
CẦN PHẢI LÀM GÌ VÀ LÀM THẾ NÀO?
Nguyễn Hữu Giới1*
Tóm tắt: Trên cơ sở phân tích lý luận và nhận thức việc xây dựng
Trung tâm Tri thức số ở Việt Nam - như một động lực quan trọng
thúc đẩy sự nghiệp thư viện ở Việt Nam phát triển lên một tầm cao
mới; tác giả bài viết phác thảo đôi nét về việc chuyển đổi số trong
hệ thống thư viện công cộng Việt Nam trong khoảng 2 thập kỷ qua;
đồng thời đề xuất một số nội dung cơ bản, những giải pháp khả thi,
nhằm từng bước xây dựng và phát triển Trung tâm Tri thức số ở Việt
Nam trong tương lai; đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ của các thư viện
trường đại học và cao đẳng trong cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0.
Từ khóa: Trung tâm Tri thức số; Lý luận; Nhận thức; Chuyển đổi số;
Quản trị; Giải pháp; Thư viện; Việt Nam.
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ LÝ LUẬN VÀ NHẬN THỨC CHUNG
Trước hết, tôi đánh giá rất cao ý tưởng và suy nghĩ mang tính
sáng tạo của Ban lãnh đạo Liên hiệp Thư viện các trường đại học Khu
vực phía Bắc (NALA) và Trung tâm Thông tin - Thư viện - Đại học
Quốc gia Hà Nội (VNU); cùng các đơn vị phối hợp về chủ đề Hội thảo
khoa học này. Đây là một chủ đề rất mới, nội hàm mang tính khoa
học & trí tuệ cao, song cũng rất thực tiễn và khách quan đối với hoạt
động thông tin - thư viện ở Việt Nam trong thời gian gần đây. Theo
tôi nghĩ, có 3 nguyên nhân chính để các đồng chí trong Ban Tổ chức
Hội thảo đưa ra quyết định về chủ đề sinh hoạt nghiệp vụ của chúng
ta lần này; đó là:
* Thạc sĩ, Hội Thư viện Việt Nam.
227
XÂY DỰNG TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ Ở VIỆT NAM CẦN PHẢI LÀM GÌ VÀ LÀM THẾ NÀO?
1. Cơ sở pháp lý đầu tiên, quan trọng, đó là Luật Thư viện vừa
được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua
ngày 21/11/2019, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2020,
trong đó có những nội dung quan trọng liên quan đến việc xây dựng
thư viện số, liên thông và chia sẻ tài nguyên thông tin trong các thư
viện và trung tâm thông tin - thư viện ở Việt Nam.
2. Chúng ta biết rằng vài năm trở lại đây, trên thế giới cũng như
ở Việt Nam đã xuất hiện cụm từ “Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”
hay “Cách mạng công nghiệp 4.0” (CMCN 4.0) (The 4th Industrial
Revolution). Đây không phải là một thuật ngữ bóng bẩy, thời thượng
trong một ngành nghề, một lĩnh vực khoa học và công nghệ nào đó
trên thế giới, mà đó thực chất là hệ quả tất yếu của sự vận động và tiến
trình lịch sử nền của văn minh nhân loại và nó sẽ có ảnh hưởng và tác
động vô cùng to lớn trên hành tinh của chúng ta, tới tất cả các quốc gia
trên thế giới. Chắc chắn cuộc cách mạng này sẽ làm thay đổi cơ bản
diện mạo của tất cả các nền kinh tế thế giới và đồng nghĩa nó cũng sẽ
làm thay đổi cuộc sống của đa số người dân trên hành tinh. Cuộc Cách
mạng Công nghiệp lần thứ 4 là kỷ nguyên công nghiệp lần thứ tư (kể
từ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất từ thế kỷ 18) cũng đã,
đang và sẽ có những ảnh hưởng vô cùng to lớn, tích cực và tác động
mạnh mẽ-như một yếu tố khách quan - tới lĩnh vực thông tin - thư
viện ở hầu hết các nước trên thế giới, trong đó có Viêt Nam. Để từ “đòn
bẩy”/công cụ mang tầm vĩ mô này, nhiều ứng dụng khoa học công
nghệ mới sẽ được áp dụng vào công tác thông tin - thư viện của nước
ta, mang lại hiệu quả mới, sự sáng tạo mới, thiết thực hơn cho ngành
thông tin - thư viện; để ngành thư viện Việt Nam sẽ có nhiều “Smart
Library” (thư viện thông minh); giống như các “nhà máy thông minh”;
“thành phố thông minh” trên thế giới v.v....; phục vụ cho tiện ích, cho
những nhu cầu của người dân trong xã hội hiện đại.
3. Nếu 2 lý do trên là khách thể/ khách quan, thì yếu tố thứ 3 sau
đây, có thể được coi là yếu tố chủ quan/ chủ thể (để Ban Tổ chức quyết
định chọn chủ đề Hội thảo khoa học hôm nay); đó là yếu tố thực tiễn/
thực tế sự phát triển của ngành thư viện Việt Nam vài chục năm trở lại đây.
228
PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM
Trên thực tế, khoảng hơn 2 thập kỷ trở lại đây, nhiều thư viện ở Việt
Nam - trong đó có hệ thống thư viện và Trung tâm thông tin - thư viện
(Trung tâm TT-TV) các trường đại học và cao đẳng nước ta đã từng
bước ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) trong tác nghiệp thư viện,
bức tranh này cho đến hôm nay, khách quan mà nói: chưa thể coi là
toàn bích, là thực sự hiệu quả. Bởi lẽ do nhiều nguyên nhân chủ quan
và khách quan, việc ứng dụng CNTT trong các Trung tâm TT-TV trong
các trường đại học ở nước ta cũng chưa đồng đều; đầu tư cơ sở vật
chất, trang thiết bị, kinh phí, thời gian và cả nguồn nhân lực cho công
việc này, cũng còn tùy thuộc vào sự quan tâm của Ban Giám hiệu/ lãnh
đạo từng nhà trường, từng cơ quan, vậy nên kết quả tính đến hôm nay,
sau gần hai thập kỷ, chúng ta vừa làm vừa điều chỉnh và cân đối kế
hoạch, ngân sách, kinh phí, con người, cũng vừa đồng thời tiến hành
song song việc tổ chức cơ sở dữ liệu (CSDL) (thư mục và toàn văn) số
hóa tài liệu v.v..., lại vừa tiến hành đồng thời phục vụ người dùng tin/
bạn đọc trong điều kiện có thể, nhằm phát huy tối đa mọi nguồn lực
của thư viện, phục vụ xã hội. Thế nghĩa là các thư viện chúng ta đã
và đang từng bước hiện đại hóa thư viện, chuyển dần từ hoạt động
truyền thống sang hướng hiện đại (với việc xây dựng thư viện số - thư
viện ảo); việc đó đồng nghĩa với việc thư viện của chúng ta đang từng
bước chuyển từ quản lý kho tài liệu/thông tin, trong đó chủ yếu là trên
giấy”, sang quản trị tri thức và tài nguyên thông tin, trong đó có nhiều
tài nguyên không ở dạng giấy. Đó có lẽ là lý do quan trọng nhất, là đòi
hỏi từ thực tiễn nội tại khách quan của ngành thông tin-thư viện Việt
Nam trên bước đường phát triển và hội nhập với thư viện trên thế
giới; để toàn ngành thư viện nước ta theo kịp con tàu “CMCN 4.0”, để
chúng ta nhận diện/ nhận thức rõ hơn nhiệm vụ của mình, đó là phải
từng bước xây dựng/ kiện toàn 3 trụ cột chính của thư viện hiện đại/
thư viện thông minh, đó là: “BIGDATA-TECHNOLOGY- HUMAN”
(Dữ liệu lớn - Công nghệ - Con người). Chính việc thay đổi phương
thức và tư duy quản lý/ quản trị thư viện như trên (kể cả việc xây dựng
Trung tâm Tri thức số ở từng cơ quan/ đơn vị rồi hợp lưu thành Trung
tâm Tri thức số Quốc gia trong tương lai), cũng là sự thay đổi cần thiết,
có tính quy luật của ngành thư viện Việt Nam từ quá khứ đến hiện đại.
229
XÂY DỰNG TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ Ở VIỆT NAM CẦN PHẢI LÀM GÌ VÀ LÀM THẾ NÀO?
Từ những phân tích nêu trên có thể thấy rằng: Việc xây dựng và phát
triển Trung tâm Tri thức số ở Việt Nam, đối với ngành thư viện Việt Nam cũng
như Trung tâm thông tin - thư viện các trường đại học ở nước ta; không chỉ đơn
thuần là nhiệm vụ/ kế hoạch công tác của một năm, mà thực sự có thể coi như một
chiến lược dài hơi cho ngành thư viện nước ta trên bước đường phát triển trong
tương lai; nó có thể được coi như một động lực quan trọng, thúc đẩy mạnh mẽ
sự nghiệp thư viện ở Việt Nam phát triển lên một tầm cao mới; đáp ứng nhu cầu
của người dân và xã hội trong Cách mạng công nghiệp 4.0.
II. THỰC TRẠNG VIỆC CHUYỂN ĐỔI SỐ TRONG CÁC THƯ VIỆN CÔNG CỘNG
Ở VIỆT NAM THỜI GIAN QUA
Ở Việt Nam, trong mấy thập kỷ qua, được sự chỉ đạo và quan tâm
của Chính phủ về hiện đại hóa thư viện, việc ứng dụng CNTT trong
thư viện đã được tiến hành trong thời gian khoảng 2 đến 3 thập kỷ
(bắt đầu từ những năm 90 thế kỷ XX). Tuy nhiên, hoạt động này (có
thể được coi như bước khởi đầu của chuyển đổi số) cũng không đồng
bộ (có nơi làm trước, có nơi làm sau, có thư viện lớn được cấp nhiều tỷ
đồng, có thư viện nhỏ chỉ được vài trăm triệu đồng), vì thế có thể nói
bức tranh và kết quả ứng dụng CNTT trong các hệ thống thư viện ở
Việt Nam cũng khá đa dạng, phong phú, nhiều màu, nhiều vẻ. Nếu coi
việc chuyển dạng số (tức là xây dựng CSDL thư mục và CSDL toàn văn
trong các thư viện) là bước đi ban đầu của chuyển đổi số và xây dựng
thư viện số trong hoạt động thư viện ở nước ta mấy chục năm qua là
những cố gắng, nỗ lực của các hệ thống thư viện công cộng Việt Nam,
thì sau đây là kết quả; ghi nhận bước đi đầu tiên, quan trọng và có ý
nghĩa của hoạt động này.
2.1. Xây dựng và phát triển hạ tầng số
- Trang thiết bị: Nếu như giai đoạn trước (từ năm 1995-2005), đầu tư
trang thiết bị qua các dự án của Bộ VHTTDL, thì hiện tại nhiều thư viện
được đầu tư hạ tầng CNTT với những dự án lớn, được trang bị thiết bị
tin học hiện đại, (ví dụ Thư viện Quốc gia Việt Nam (TVQGVN) với các
dự án “Mở rộng và nâng cấp hệ thống thư viện điện tử/ thư viện số tại Thư
viện Quốc gia Việt Nam và hệ thống thư viện công cộng (TVCC)” năm 2006-
230
PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM
2007 và 2013, Thư viện tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu và các Thư viện tỉnh: Bình
Dương; Quảng Ninh; Thanh Hóa; Nghệ An, Lạng Sơn; Bình Định; An
Giang; Đắc Lắc; Khánh Hòa; Đồng Nai, Phú Yên; Thừa Thiên - Huế...
đều được lãnh đạo địa phương quan tâm đầu tư kinh phí hàng tỷ đồng
để xây dựng Thư viện điện tử - Thư viện số).
Cùng với đó, từ năm 2011 đến 2017, dự án Nâng cao khả năng sử
dụng máy tính và tiếp cận Internet công cộng tại Việt Nam do Quỹ Bill &
Melinda Gates (Hoa Kỳ tài trợ), đã góp phần củng cố hạ tầng CNTT tại
40 thư viện tỉnh/ thành phố, 360 thư viện huyện, 500 thư viện xã, đã
cung cấp hơn 11.000 máy tính, tổng trị giá hơn 50 triệu USD Mỹ.
- Máy chủ/ Máy trạm: Máy chủ: 100% các thư viện đã có máy chủ
phục vụ vận hành các phần mềm quản lý thư viện, nhiều thư viện
được đầu tư máy chủ vận hành các dịch vụ khác như Internet, thư
điện tử, bảo mật. Về máy trạm: Số lượng máy tính dành cho hoạt động
nghiệp vụ, cho người sử dụng tăng dần hàng năm. Tuy nhiên, có sự
chênh lệch lớn về số lượng máy tính giữa các thư viện tỉnh/ thành
phố: nhiều thư viện có số lượng máy tính lớn như: Thư viện Quốc gia
Việt Nam (250 máy); Thư viện Tp. Hồ Chí Minh (180 máy); Thư viện
Tp. Hà Nội (118 máy); Thư viện tỉnh Đắc Lắc (103 máy); Thư viện tỉnh An
Giang (92 máy), ngược lại một số thư viện tỉnh có số lượng máy rất hạn
chế như: Thư viện tỉnh Kiên Giang (15 máy); Thư viện tỉnh Hải Dương
(15 máy); Thư viện tỉnh Hà Nam (13 máy); Thư viện tỉnh Lâm Đồng
(18 máy); Thư viện tỉnh Long An (14 máy); Thư viện tỉnh Bến Tre (16 máy).
- Đường truyền Internet: Ngoài Thư viện Quốc gia Việt Nam sử dụng
đường truyền kênh riêng (Leased-line), gần như 100% các TVCC đã chuyển
từ đường truyền ADSL sang sử dụng đường truyền cáp quang (fiber), tốc
độ trung bình là 34Mbps, thì tốc độ trên đã đảm bảo được hoạt động nghiệp
vụ cũng như phục vụ người sử dụng trong quá trình chuyển đổi số.
- Thiết bị số hoá tài liệu: Việc số hoá tài liệu cũng được coi trọng và
đang được triển khai tại phần lớn các thư viện công cộng, các thư viện
tỉnh đã được trang bị các thiết bị số hoá tài liệu ở các cấp độ hiện đại
khác nhau, chủ yếu là máy scanner dạng phẳng (flatbed scanner) và
231
XÂY DỰNG TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ Ở VIỆT NAM CẦN PHẢI LÀM GÌ VÀ LÀM THẾ NÀO?
máy ảnh kỹ thuật số, đặc biệt có Thư viện Quốc gia Việt Nam, Thư viện
Tp. Hồ Chí Minh, Thư viện Tp. Đà nẵng, Thư viện tỉnh Bình Dương
được trang bị máy scanner tự động hoặc bán tự động hiện đại, giúp
đẩy nhanh công tác số hoá tài liệu, xây dựng các bộ sưu tập số quan
trọng, phục vụ người sử dụng trong tương lai.
- Các phần mềm quản trị thư viện đang được ứng dụng trong hệ thống
TVCC như: iLib (CMC), Libol (Tinh Vân); CDS/ISIS (UNESCO), MyLib
(Nguyễn Thanh Nhã), InforLlib (Đức Minh), SmiLib (CMC), zLIS
(PSC), PYLIB, Vebrary (Lạc Việt), E-LIBMAN (Nguyễn Anh Tuấn), Elib
(Phạm Đăng Lâm), iLibMe (CMC), VNLIB, EMICLIB (DGSoft), KIPOS
(Hiện đại), EMICLIB (DGSoft)...
Đối với phần mềm quản trị các bộ sưu tập số, một số thư viện công
cộng được trang bị phần mềm thương mại như: TVQGVN với hệ thống
docWorks (CCS) + Veridian (DL Consulting); Thư viện Khoa học Tổng
hợp Tp. Hồ Chí Minh với Libol Digital, một số sử dụng phần mềm mã
nguồn mở quản trị bộ sưu tập số DSpace (20 thư viện), Greenstone (5 thư
viện), một số khác sử dụng chung tích hợp với phần mềm quản trị thư
viện, đã phần nào đáp ứng yêu cầu quản lý các bộ sưu tập số phục vụ
hoạt động chuyên môn, qua đó có thể nhận thấy nhu cầu trang bị phần
mềm quản trị các bộ sưu tập số tại thư viện công cộng là khá cao.
Các phân hệ chức năng đã được ứng dụng: Phần lớn các phân hệ chức
năng căn bản của phần mềm thư viện như: Quản lý bạn đọc; Quản lý
bổ sung; Quản lý biên mục; Quản lý báo cáo; Quản lý kho; Quản lý tra cứu
(OPAC); Quản lý lưu thông tại chỗ đang được ứng dụng, đảm bảo công
tác quản lý thư viện, phục vụ bạn đọc. Tuy nhiên 1 số phân hệ tồn tại
bất cập vẫn chưa được giải quyết triệt để như: Quản lý ấn phẩm định kỳ;
Quản lý mượn liên thư viện; Quản lý mượn - trả từ xa; Quản lý xuất nhập dữ
liệu; Quản lý an toàn bảo mật - phân quyền
2.2. Xây dựng nguồn lực thông tin dạng số
Đây là công việc có ý nghĩa lớn, có tính quyết định, khi chúng
ta tiến hành xây dựng thư viện điện tử/ thư viện số (TVĐT-TVS) và
chuyển đổi số trong thư viện, để có được “Big Data” phục vụ người
dùng tin/ bạn đọc.
232
PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM
- Thư viện Quốc gia Việt Nam: Có 5 CSDL thư mục (sách mới, báo
- tạp chí...) với tổng số hơn 700.000 biểu ghi. Đồng thời có Bộ sưu tập
số gồm 7 CSDL toàn văn (Luận án tiến sĩ; Sách về Đông Dương (thời
Pháp thuộc); Sách Hán - Nôm; Báo - Tạp chí; Vi phim - vi phiếu, băng
đĩa CD...), với hơn 5,5 triệu trang tài liệu.
- Thư viện Khoa học Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh: Có 03 CSDL thư
mục (CSDL Sách: khoảng 450.000 biểu ghi: CSDL Bài báo trích: khoảng
220.000 biểu ghi; CSDL ấn phẩm định kỳ, khoảng 4.000 biểu ghi). Bộ
sưu tập số, gồm CSDL toàn văn với hơn 1,2 triệu trang tài liệu, và CSDL
(toàn văn ) sách Hán-Nôm (khoảng: 800 ngàn trang).
- Thư viện TP. Hà Nội có 03 CSDL thư mục, (hơn 217.000 biểu ghi).
- Thư viện tỉnh Thừa Thiên - Huế có 05 CSDL thư mục (gần 200.000
biểu ghi).
- Thư viện tỉnh Thanh Hóa có 03 CSDL thư mục (hơn 210.000 biểu ghi).
- Thư viện tỉnh Bình Định có 02 CSDL thư mục(hơn 120.000 biểu ghi).
- Thư viện Tp. Cần Thơ có 03 CSDL thư mục (hơn 115.000 biểu ghi);
- Thư viện tỉnh An Giang có 03 CSDL thư mục (hơn 79.000 biểu ghi);
- Thư viện Thành phố Đà Nẵng có 04 CSDL thư mục (hơn 190.000
biểu ghi).
Bên cạnh đó các thư viện tỉnh rất chú trọng số hóa tài liệu địa
chí (Thư viện tỉnh Yên Bái đã số hóa được hàng ngàn trang; Thư viện
tỉnh Sơn La đã sưu tầm, số hóa được 313 tài liệu (sách chữ Thái cổ quí
hiếm, với 9.000 trang) và 269 tài liệu địa chí với 32.610 trang; Thư viện
tỉnh Khánh Hòa số hóa được 550 tài liệu quí hiếm. Thư viện tỉnh Thừa
Thiên Huế đã số hóa được gần 70.000 trang tài liệu Hán-Nôm. Thư viện
tỉnh Đồng Nai số hóa được 317 tài liệu địa chí với 24.544 trang; Thư
viện tỉnh Gia Lai đã số hóa được 47.200 trang tài liệu... Thư viện tỉnh
Bình Định số hóa được hơn 180 ngàn trang tài liệu địa chí....).
2.3. Về kinh phí chi cho xây dựng CSDL và chuyển đổi số
Từ năm 2001 đến nay; kinh phí chi cho xây dựng TVĐT-TVS và
chuyển đổi số đã có chiều hướng tăng lên (bình quân từ 250 triệu đến
233
XÂY DỰNG TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ Ở VIỆT NAM CẦN PHẢI LÀM GÌ VÀ LÀM THẾ NÀO?
450 triệu /năm). Các thư viện lớn như: Thư viện Quốc gia VN, Thư viện
Tp. Hồ Chí Minh, Thư viện Tp. Đà Nẵng... được cấp kinh phí nhiều
hơn (ví dụ: năm 2011, kinh phí cho việc số hóa tài liệu ở Thư viện Quốc
gia VN đã lên tới gần 20 tỷ đồng), một số thư viện lớn cũng được cấp
từ 1,5 đến 2 tỷ đồng/năm.
Cùng với việc xây dựng các CSDL thư mục, việc phát triển nguồn
thông tin số hoá toàn văn cũng được các thư viện coi trọng qua việc tự
xây dựng các bộ sưu tập số, ưu tiên bộ sưu tập địa chí; tham gia các liên
hiệp thư viện dùng chung CSDL; mua quyền truy cập CSDL trực tuyến
trong và ngoài nước, đăng ký sử dụng CSDL trực tuyến miễn phí
2.3. Xây dựng nguồn nhân lực có kỹ năng số
Có thể nói, thời gian qua, việc xây dựng nguồn nhân lực có kỹ
năng số trong các TVCC còn nhiều bất cập, hạn chế. Vì thế, đội ngũ
cán bộ CNTT, chuyên gia trong lĩnh vực thư viện có ứng dụng CNTT
vừa yếu vừa thiếu, là vì nhân lực CNTT trong hệ thống TVCC có độ
biến động lớn, nhiều đơn vị đào tạo được một cán bộ lành nghề sau
một thời gian làm việc, nếu có cơ hội tốt hơn ở một đơn vị khác họ sẽ
chuyển và như vậy thư viện luôn luôn đặt trong tình trạng phải đào
tạo cán bộ CNTT. Mặt khác các thư viện cũng tự đánh giá về số lượng,
chất lượng cán bộ CNTT tại đơn vị chỉ đáp ứng được một phần, với số
lượng rất ít thư viện cảm thấy hoàn toàn hài lòng về đội ngũ cán bộ
thư viện hiện tại của mình biết/ giỏi về ứng dụng CNTT trong thư viện.
Thiếu nhân lực CNTT và nhân lực đó không được đào tạo bài bản,
chuyên nghiệp về ứng dụng CNTT trong thư viện là những nguyên
nhân gây khó khăn lớn cho các đơn vị trong hệ thống TVCC Việt Nam
trong việc xây dựng TVĐT-TVS; dẫn đến hiệu quả ứng dụng CNTT tại
TVCC thời gian qua đạt hiệu quả chưa cao. Chính điều này cũng làm
cho việc xây dựng lực lượng lao động có kỹ năng số ở Việt Nam diễn
ra rất chậm chạp, chưa đáp ứng được yêu cầu của việc chuyển đổi số.
Tóm lại, việc chuyển đổi số trong các thư viện công cộng ở Việt
Nam trong 2 thập kỷ qua, được xem như bước tiến hành đầu tiên
cho việc xây dựng Trung tâm Tri thức số của ngành thư viện tại các
234
PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM
địa phương. Việc làm này tuy còn nhiều mới mẻ, chưa có nhiều kinh
nghiệm, song chúng ta đã từng bước định hình được công việc này,
nhiều nơi đã rút kinh nghiệm trong tổ chức, điều hành và phục vụ bạn
đọc qua ứng dụng CNTT tại các đơn vị, để thông tin/ tri thức đến được
độc giả nhanh hơn, hiệu quả hơn, so với cách phục vụ truyền thống
như trước kia. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận một điều, các thư viện
của chúng ta - hệ thống thư viện công cộng cũng như thư viện đại học
ở nước ta vẫn đang có những bất cập/ rào cản cần tháo gỡ trong việc
xây dựng và phát triển Trung tâm Tri thức số, đó là vấn đề bản quyền
tác giả, sở hữu trí tuệ (khi các thư viện tiến hành số hóa tài liệu toàn
văn, khi các trung tâm Thông tin - thư viện trường đại học xây dựng
thư viện số, khi mà Việt Nam chưa có Luật Truy cập mở giống như một
số nước trên thế giới, như Hàn Quốc, Nhật bản, Thụy Điển v.v?).
III. XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ Ở VIỆT NAM: CẦN PHẢI
LÀM GÌ VÀ LÀM THẾ NÀO (MỘT SỐ ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP)?
Thực ra, khi đặt tiêu đề cho bài tham luận của mình, tôi cũng thấy
một số khó khăn trong nội dung cần truyền tải, song thiết nghĩ đây là
Hội thảo khoa học của các trường đại học ở Việt Nam, nên tôi mạnh
dạn nêu ra một vài suy nghĩ. Giống như khi ta xây nhà mới, người thợ
cần xem xét, cân nhắc, tính toán rất kỹ, ví dụ: sẽ xây nhà này như thế
nào; mô hình, thiết kế ra sao, dạng nhà cổ truyền thống hay nhà hiện
đại; rồi nền, móng nhà có ổn định chắc chắn không, bền vững không;
xi măng, vôi, vữa, cát, sỏi, đá, gạch thế nào; lợp mái bằng vật liệu gì cho
đẹp, cuối cùng nội thất của ngôi nhà và phối cảnh cây cối xung quanh
nhà sao cho hài hòa, cân đối, đẹp mắt. Đó là chưa tính đến một điều
hết sức quan trọng đó là hạch toán chi phí xây dựng và công năng của
ngôi nhà sao cho việc sử dụng lâu bền và hiệu quả trong tương lai.
Vì vậy việc chúng ta bàn thảo để xây dựng và phát triển Trung tâm
Tri thức số ở Việt Nam tại Hội thảo khoa học này là một vấn đề hết sức
quan trọng, có tính chiến lược lâu dài - lại là vấn đề khá mới mẻ, chưa
có tiền lệ ở Việt Nam từ trước đến nay, cho nên, theo suy nghĩ của tôi,
cần lưu ý những vấn đề sau đây:
235
XÂY DỰNG TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ Ở VIỆT NAM CẦN PHẢI LÀM GÌ VÀ LÀM THẾ NÀO?
Một là, xây dựng và phát triển Trung tâm Tri thức số ở Việt Nam
phải căn cứ vào tình hình thực tiễn/ điều kiện thực tế của ngành thư
viện chúng ta và cần có lộ trình hết sức cụ thể. Trước mắt, có thể xây
dựng thử nghiệm mô hình này cho khối/ ngành nào đó (hoặc một