Sự tồn tại của cuộc sống con người phụ thuộc rất nhiều vào lớp đất trồng trọt để sản xuất ra lương thực, thực phẩm và các nguyên liệu sản xuất công nghiệp phục vụ cho đời sống của con nguời. Tuy nhiên sự tồn tại của lớp đất có khả năng canh tác này lại luôn chịu những tác động mạnh mẽ của các điều kiện tự nhiên và các hoạt động canh tác do con người có thể làm cho chúng bị thoái hóa và dần mất đi khả năng sản xuất, trong đó một trong những nguyên nhân làm cho đất bị thoái hóa mạnh nhất là do xói mòn.
17 trang |
Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 4024 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xói mòn và các biện pháp điều tiết, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Xói mòn và các biện pháp
điều tiết?
Sự tồn tại của cuộc sống con người phụ thuộc
rất nhiều vào lớp đất trồng trọt để sản xuất ra
lương thực, thực phẩm và các nguyên liệu sản
xuất công nghiệp phục vụ cho đời sống của con
nguời.
Khái niệm về xói mòn và ý nghĩa của việc
nghiên cứu xói mòn đất
Sự tồn tại của cuộc sống con người phụ thuộc
rất nhiều vào lớp đất trồng trọt để sản xuất ra
lương thực, thực phẩm và các nguyên liệu sản
xuất công nghiệp phục vụ cho đời sống của con
nguời. Tuy nhiên sự tồn tại của lớp đất có khả
năng canh tác này lại luôn chịu những tác động
mạnh mẽ của các điều kiện tự nhiên và các hoạt
động canh tác do con người có thể làm cho
chúng bị thoái hóa và dần mất đi khả năng sản
xuất, trong đó một trong những nguyên nhân
làm cho đất bị thoái hóa mạnh nhất là do xói
mòn. Hiện tượng mất đất do xói mòn mạnh hơn
rất nhiều so với sự tạo thành đất trong quá trình
tự nhiên, một vài cm đất có thể bị mất đi chỉ
trong một vài trận mưa giông hoặc gió lốc trong
khi để có được vài cm đất đó cần phải có thời
gian hàng trăm năm, thậm chí hàng ngàn năm
mới tạo ra được. Trên thế giới hầu như không
có quốc gia nào là không chịu ảnh hưởng của
xói mòn, nhất là ảnh hưởng của xói mòn do
nước và do gió. Các nước thuộc miền nhiệt đới
ẩm do có lượng mưa, bão hàng năm lớn tập
trung theo mùa, phần lớn đất đai canh tác nằm
ở những địa hình dốc nên xói mòn do nước
mưa là nguy cơ chính tạo ra hiện tượng xói mòn
ở đây. Trong khi đó hiện tượng xói mòn do gió
lại xảy ra chủ yếu ở những vùng khô hạn và bán
khô hạn, nơi có lượng mưa thấp không duy trì
được lớp thảm thực vật thường xuyên trên bề
mặt đất. Xói mòn mạnh có thể làm mất tới 1400
tấn đất/ ha/năm, tương đương với toàn bộ tầng
canh tác dày 10cm có dung trọng 1,4 g/cm3
(Benntt 1939). Còn ở những nơi chịu ảnh hưởng
của xói mòn do gió gây ra thì lượng đất mất
cũng thường cao hơn 11,2 tấn/ ha/ năm tương
đương với lớp đất dày 0,8cm.
Bên cạnh những tác động trực tiếp đến khả
năng sản xuất do xói mòn gây ra đối với đất
canh tác, vấn đề môi trường cũng sẽ dần xuất
hiện khi những vùng đất bị xói mòn trở thành
những vùng đất trống, đồi trọc trơ sỏi đá hay
thậm chí mất đi hẳn lớp đất chỉ còn lại các đá
gốc. Các hạt đất mịn khi bị cuốn đi theo dòng
nước còn gây ra hiện tượng lắng đọng bùn ở
dưới vùng hạ lưu các lòng sông, hồ và đập thủy
điện làm ảnh hưởng đến lưu lượng dòng chảy
và có thể gây ra lũ lụt.
Có thể nhận thấy đối với thực tiễn sản xuất
nông nghiệp không có sự thoái hóa đất nào
mạnh và hiểm họa hơn xói mòn đất bởi nó liên
quan đồng thời tới các quá trình mất đất, mất
chất dinh dưỡng và nước cho cây trồng đồng
thời còn gây ra các tác động xấu đến môi
trường. Do đó việc nghiên cứu xói mòn là vô
cùng cần thiết cho mọi quốc gia, đặc biệt đối với
nước ta là một nước nằm trong vành đai nhiệt
đới với 3/4 diện tích đất tự nhiên là đồi núi,
thường xuyên phải hứng chịu các hậu quả do
xói mòn gây ra thì việc khống chế hiện tượng
xói mòn đất càng trở nên cực kỳ quan trọng để
bảo vệ độ phì nhiêu của đất và bảo vệ môi
trường sinh thái.
Các kiểu xói mòn đất chính
Xói mòn đất là quá trình làm mất lớp đất trên
mặt và phá huỷ các tầng đất bên dưới do tác
động của nước mưa, băng tuyết tan hoặc do
gió. Ðối với đất sản xuất nông nghiệp thì nước
và gió là hai tác nhân quan trọng nhất gây ra xói
mòn và các tác nhân này có mức độ ảnh hưởng
tăng giảm khác nhau theo các hoạt động của
con người đối với đất đai.
Kiểu xói mòn do nước
Kiểu xói mòn do nước gây ra do tác động của
nước chảy tràn trên bề mặt (nước mưa, băng
tuyết tan hay tưới tràn). Hiện tượng xói mòn do
nước gây ra đối với đất sản xuất nông nghiệp
thường mạnh nhất ở các bề mặt đất trống, sau
khi làm đất chuẩn bị gieo trồng. Ðể xảy ra xói
mòn, nước cần có năng lượng để tách các hạt
đất, rồi sau đó vận chuyển chúng đi. Mưa và
nước có thể tách được các hạt đất song việc
vận chuyển được chúng đi bao xa phải phụ
thuộc vào dòng chảy. Tác động của mưa gây ra
xói mòn đối với đất gồm các tác động va đập
phá vỡ, làm tách rời các hạt đất và sau đó vận
chuyển các hạt đất bị phá hủy theo các dòng
chảy tràn trên mặt đất. Dòng chảy của nước có
thể tạo ra các rãnh xói, khe xói hoặc bị bóc theo
từng lớp, người ta chia kiểu xói mòn do nước
gây ra thành các dạng:
- Xói mòn thẳng là sự xói lở đất, đá mẹ theo
những dòng chảy tập trung, ăn sâu tạo ra các
rãnh xói và mương xói.
- Xói mòn phẳng là sự rửa trôi đất một cách
tương đối đồng đều trên bề mặt do nước chảy
dàn đều, đất bị cuốn đi theo từng lớp, phiến.
Khi lớp đất trên bề mặt bị xói mòn thì rất khó
khôi phục và những thiệt hại của xói mòn có thể
ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức sản xuất của
đất. Ví dụ một phép tính đơn giản nếu đất bị xói
mòn 1cm đất thì trên 1 ha đất mất đi 100m3 đất,
tương đương 150 tấn, trong đó có 6 tấn mùn và
1,5 tấn đạm. Trong khi đó, ở vùng nhiệt đới có
những nơi xói mòn làm mất 3 cm đất mặt hàng
năm. Riêng vùng đồi núi hàng năm bình quân
mất đi khoảng 2 cm điều này làm cho đất ở đây
bị thoái hóa nhanh chóng. Trên những vùng đất
cao, dốc, mưa lớn còn tạo nên những dòng
chảy cực đại trên sườn dốc và ngoài việc bào
mòn lớp đất mặt chúng còn có khả năng tạo ra
những dòng xói hoặc rãnh xói. Có rãnh sâu 5-
6m tới tận lớp đá mẹ và làm mất đi hoàn toàn
khả năng sản xuất của đất đai.
Kiểu xói mòn do gió
Kiểu xói mòn do gió là hiện tượng xói mòn gây
ra bởi sức gió. Ðây là hiện tượng xói mòn có thể
xảy ra ở bất kì nơi nào khi có những điều kiện
thuận lợi sau đây
- Ðất khô, tơi và bị tách nhỏ đến mức độ gió có
thể cuốn đi
- Mặt đất phẳng, có ít thực vật che phủ thuận lợi
cho việc di chuyển của gió
- Diện tích đất đủ rộng và tốc độ gió đủ mạnh để
mang được các hạt đất đi
Thông thường đất cát là loại đất rất dễ bị xói
mòn do gió vì sự liên kết giữa các hạt cát là rất
nhỏ, đất lại bị khô nhanh. Ảnh hưởng của xói
mòn do gió gây ra khá phức tạp, đất bị chuyển
dịch đi có thể dưới các hình thức nhảy cóc,
trườn trên bề mặt hoặc bay lơ lửng.
Xói mòn do nước và các yếu tố ảnh hưởng
Hiện tượng xói mòn do nước xảy ra ở khắp mọi
nơi trên bề mặt trái đất, song tập trung mạnh
nhất ở những vùng khí hậu nhiệt đới ẩm nơi
thường có tổng lượng mưa hàng năm lớn, tập
trung theo mùa với cường độ cao kết hợp với
đất có địa hình cao và dốc đã tạo ra những dòng
chảy tràn lớn trên bề mặt đất. Trong nhiều vùng
đất dốc hiện tượng nước chảy tràn trên mặt
không chỉ làm mất đi một lượng nước lớn trong
mùa mưa (khoảng 50 - 60% lượng mưa hàng
năm) mà kèm theo đó là hiện tượng đất bị mất
do xói mòn mạnh và đây mới chính là thiệt hại
nghiêm trọng đối với đất canh tác hơn cả vì
chúng làm cho lớp đất mặt bị bào mòn dẫn đến
hậu quả là đất bị mất dần và thậm chí không
còn khả năng sản xuất. Khi xói mòn xảy ra,
thông thường những thành phần hạt đất nhỏ,
mịn trên cùng lớp đất mặt bị đẩy đi trước tiên và
ở lớp đất này thường tập trung độ phì nhiêu cao
nhất do vậy hàm lượng các chất dinh dưỡng bị
mất đi trong đất do xói mòn cũng rất lớn, Tuy
nhiên lượng dinh dưỡng mất đi còn phụ thuộc
vào hệ thống cây trồng trên đó, thí nghiệm của
Batie (1983) về xói mòn ở vùng Missouri (Mỹ)
cho thấy lượng dinh dưỡng bình quân hàng
năm bị mất đi ở các ruộng có phương thức canh
tác khác nhau.
Các dạng xói mòn do nước
a. Xói mòn theo lớp: tác động của xói mòn làm
đất bị mất đi theo lớp không đồng đều nhau trên
những vị trí khác nhau của bề mặt của dốc. Tuy
nhiên, dạng xói mòn này đôi khi cũng kèm theo
những rãnh xói nhỏ đặc biệt rõ ở những đồi trọc
trồng cây hoặc bị bỏ hóa.
b.Xói mòn theo các khe, rãnh: Là hiện tượng
trên bề mặt đất tạo thành những dòng xói theo
các khe, rãnh trên sườn dốc nơi mà dòng chảy
được tập trung, sự hình thành các khe lớn hay
nhỏ tùy thuộc mức xói và đường cắt của nước
chảy xuống dưới.
c. Mương xói: Thường thể hiện ở những nơi có
mức độ xói mòn nghiêm trọng, đất bị xói mòn
đồng thời cả ở dạng lớp và dạng khe, rãnh ở
mức độ mạnh do khối lượng nước lớn tập trung
theo các khe thoát xuống chân dốc với tốc độ
lớn, làm đất bị đào khoét theo chiều sâu đôi khi
đến tận đá gốc.
Như vậy nguyên nhân của hiện tượng xói mòn
do nước xảy ra ở các nước vùng nhiệt đới ẩm
chủ yếu là do mưa nhiều và đất dốc. Ngoài tác
động va đập của mưa và dòng chảy đối với đất
thì khả năng xói mòn còn bị chi phối bởi các yếu
tố độ dốc, chiều dài dốc của bề mặt đất; cấu trúc
đất và các biện pháp canh tác áp dụng đối với
đất. Những tác động tổng hợp trên được thể
hiện qua phương trình mất đất phổ dụng của xói
mòn do nước được Weischmaier và Smith xây
dựng.
Xói mòn do gió và các yếu tố ảnh hưởng
Xói mòn do gió xảy ra chủ yếu ở các vùng khô
hạn, đôi khi cũng xảy ra ở vùng khí hậu ẩm về
mùa khô. Gió và những trận cuồng phong có thể
mang những hạt đất mịn lên cao và đưa đi xa
hàng trăm km. Những ảnh hưởng của xói mòn
do gió thường rất nghiêm trọng, nó không chỉ
bào mòn, bóc đi lớp đất mặt phì nhiêu nhất mà
còn có thể bóc hết đất mặt làm trơ bộ rễ của cây
trồng và cuối cùng làm cây trồng không thể sống
được. Ảnh hưởng của xói mòn do gió đôi khi
không chỉ xảy ra ở những vùng khô hạn mà cả
ở những vùng ít mưa hoặc có mùa khô kéo dài
và khốc liệt như ở vùng ven biển hoặc Tây
Nguyên ở nước ta, gió có thể di chuyển các đụn
cát hay bào mòn lớp đất mặt về mùa khô.
Tác động cơ học của gió
Tương tự như đối với xói mòn do nước, hiện
tượng xói mòn làm mất đất do gió gây ra cũng
có liên quan tới hai quá trình đó là các quá trình
tách rời các hạt đất và vận chuyển chúng đi theo
gió. Ðầu tiên bằng các hoạt động va đập gió làm
tách rời những phần tử nhỏ từ các hạt hoặc cục
đất, sau đó chúng lôi cuốn các hạt này theo gió
và sẽ tạo ra sức va đập mài mòn lớn hơn, rồi
sau đó tùy thuộc vào điều kiện sức gió, chúng
lôi cuốn các hạt đất bị tách rời đi ra khỏi vị trí
ban đầu của chúng, những hạt lớn thì chỉ bị lôi
cuốn đi ở một khoảng cách nhất định, còn
những hạt nhỏ mịn (bụi) có thể bị gió cuốn đi rất
xa.
Việc vận chuyển các hạt sau khi chúng đã bị
tách rời diễn ra theo nhiều cách, cách đầu tiên
và quan trọng nhất là cách vận chuyển theo kiểu
nhảy cóc ở trường hợp này các hạt đất có thể di
chuyển liên tục theo hướng gió ở những khoảng
cách ngắn và ít khi được đưa cao quá 30cm,
khối lượng vận chuyển các hạt đất theo kiểu này
chiếm tới 50- 75% lượng đất chuyển dời. Sự di
chuyển của xói mòn theo gió cũng có thể xảy ra
theo kiểu lăn trườn trên bề mặt đối với những
hạt có kích thước lớn hơn (có đường kính
khoảng 0,84 mm) khối lượng đất vận chuyển
theo kiểu này chiếm khoảng 5- 25%. Quá trình
vận chuyển đáng chú ý nhất của xói mòn do gió
là sự di chuyển của các hạt bụi như thể huyền
phù chúng bao gồm các hạt cát mịn và những
hạt có kích thước nhỏ hơn chúng có thể được
gió đưa lên cao rồi mang đi xa hàng trăm dặm.
Tỷ lệ vận chuyển ở dạng này thường chiếm tới
trên 15% và đôi khi chiếm tới 40%.
Những yếu tố ảnh hưởng đến xói mòn do gió
Sự nhạy cảm của xói mòn do gió có liên quan rõ
đến độ ẩm của đất, đất ẩm thường không bị gió
cuốn. Những vùng khô hạn và có gió nóng kéo
dài sẽ làm cho đất đạt đến giới hạn độ ẩm cây
héo hoặc thấp hơn đây cũng chính là thời điểm
trước khi hiện tượng xói mòn do gió xảy ra. Tốc
độ của các dòng gió xoáy và giông bão có tác
động gây ra xói mòn đất mạnh hơn rất nhiều so
với tốc độ gió thông thường. Những thử nghiệm
đã chỉ ra cho thấy khi đất khô tốc độ gió đạt
khoảng 20km/h có thể bắt đầu lôi cuốn được
các hạt đất và lượng đất bị mang đi theo gió sẽ
tăng lên rất nhanh theo cấp lũy thừa khi tốc độ
gió đạt tới mức từ 30 km/h trở lên. Xói mòn do
gió chịu ảnh hưởng của các yếu tố:
- Tốc độ gió và sức cuốn của gió
- Ðiều kiện bề mặt đất
- Ðặc tính của đất
- Tình trạng thực vật che phủ trên bề mặt đất
- Sự ổn định về các đặc tính cơ lý của đất như
dung trọng, tỷ trọng và kích thước của các hạt
có khả năng bị bào mòn do đất.
Xói mòn do gió thường không nghiêm trọng ở
những nơi có độ ẩm, bề mặt đất có độ gồ ghề
được tạo ra bởi những biện pháp làm đất thích
hợp như: cày bừa tạo ra những cục đất có kích
thước lớn, lên những mặt luống cao để tạo ra
độ gồ ghề, giữ lại các gốc rơm rạ, thảm thực vật
và cây trồng... Ðây cũng chính là những biện
pháp tác động có hiệu quả để giảm thiểu tác hại
của xói mòn do gió.
Lượng đất mất do xói mòn của gió được xác
định là hàm của nhiều yếu tố.
E = f (ICKLV)
Trong đó: E- khả năng lượng đất bị xói mòn do
gió, f- phương trình đất bị xói mòn, I- yếu tố khí
hậu xói mòn do gió ở địa phương, C- mức độ gồ
ghề của bề mặt đất, K- độ rộng của cánh đồng,
L- chất lượng che phủ của thảm thực vật, V- ảnh
hưởng của các biện pháp canh tác.
Các biện pháp kỹ thuật chống xói mòn, rửa
trôi đất
Có nhiều biện pháp kỹ thuật để chống xói mòn
bảo vệ đất. Song mỗi biện pháp chỉ có khả năng
thích ứng tối ưu với từng khu vực và trong từng
điều kiện cụ thể. Một số biện pháp được áp
dụng phổ biến là:
Một số biện pháp công trình nhằm hạn chế xói
mòn
Trong các vùng nhiệt đới, biện pháp công trình
(thiết kế đồi ruộng, xây dựng ruộng bậc thang
nắn dòng chảy...) là rất cần thiết trong việc canh
tác và bảo vệ đất dốc. Chức năng chủ yếu của
công trình là dẫn dòng, ngăn dòng làm cho chảy
chậm lại, lưu chứa tạm thời hay bố trí dòng chảy
an toàn để xói mòn là thấp nhất. Các biện pháp
công trình bao gồm thiết kế lô thửa, xây dựng
hệ thống ruộng bậc thang. Những biện pháp này
có tác dụng bảo vệ đất tốt nhất (đạt hiệu quả
bảo vệ 80- 90%) nhưng cũng đòi hỏi việc đầu tư
vốn lớn sau đây là một số biện pháp chính
thường được áp dụng ở vùng đồi núi nước ta:
a. Thềm bậc thang
Thềm bậc thang là một dãy các dải đất nằm
ngang hay gần nằm ngang chạy cắt ngang
sườn dốc với các khoảng cách xác định theo
chiều đứng. Các dải đất nằm ngang được dùng
để canh tác, chúng được giữ bằng các bờ dốc
hay mái dốc được xây dựng bằng đất hoặc đá.
Ruộng bậc thang có mặt ruộng bằng phẳng có
bờ ruộng, xây dựng thành từng tầng theo các
đường đồng mức trên đất dốc. Ruộng bậc thang
là biện pháp chống xói mòn tích cực nhất được
áp dụng ở nhiều vùng đất dốc trên thế giới bởi
chúng có khả năng canh tác lâu dài trên đất dốc,
tạo điều kiện thâm canh cho cây trồng, năng
suất, sản lượng cao và ổn định. Ở nước ta đồng
bào dân tộc đã biết xây dựng ruộng bậc thang
để trồng lúa từ lâu đời, có những khu ruộng ở
Sapa đã được xây dựng cách đây hàng trăm
năm vẫn cho năng suất rất ổn định.
- Ðể xây dựng ruộng bậc thang đất đai phải
có các điều kiện để sau đây:
+ Ðất phải có tầng dày tối thiểu từ 60 cm trở lên,
đất càng dày làm ruộng bậc thang càng thuận
lợi, bề rộng của mặt ruộng càng rộng.
+ Ðộ dốc có thể xây dựng ruộng bậc thang tốt
nhất từ 5- 250, ở những nơi có độ dốc lớn hơn
250 vẫn có thể làm được ruộng bậc thang như
ở vùng Sapa, tuy nhiên đòi hỏi nhiều công sức,
thời gian và rất tốn đất.
+ Những nơi làm ruộng bậc thang để trồng lúa
nước đòi hỏi phải có nguồn nước hoặc có khả
năng giải quyết được nước tưới.
- Nguyên tắc thiết kế ruộng bậc thang:
+ Ruộng bậc thang phải thiết kế theo đường
đồng mức
+ Ruộng bậc thang nhất thiết phải có bờ. Mặt
ruộng rộng hay hẹp phụ thuộc vào độ dốc và
tầng dày đất.
+ Ðất bị san làm tầng không vượt quá 2/3 độ
dày tầng đất ban đầu, phải đảm bảo trả lại được
lớp đất màu trên mặt, tỷ lệ sử dụng đất phải đạt
65- 70% so với diện tích ban đầu.
b. Các công trình và thềm đơn giản
Có thể đạt được mục đích chống xói mòn với
chi phí thấp bằng các biện pháp xây dựng các
công trình đơn giản kết hợp với các biện pháp
hỗ trợ nông nghiệp. Trên các mái dốc khác nhau
có thể áp dụng các loại thềm hay công trình đơn
giản dưới đây (Hình 12.2):
Thềm cây ăn quả: là một dạng thềm canh tác
không liên tục của dạng thềm bậc thang hẹp,
dốc nghịch. Thềm cây ăn quả có thể làm trên
sườn dốc > 30o (58%). Khoảng cách giữa hai
hàng cây ăn quả được bảo vệ bằng những băng
lớp phủ thực vật tự nhiên lâu năm hay các cây
cỏ, cây họ đậu và các cây bảo vệ đất khác. Cây
trồng chính được trồng theo các bồn riêng.
Thềm sử dụng linh hoạt: là các dạng thềm nằm
cách nhau khá xa, xen kẽ là các dải sườn đồi
chưa được xử lý dùng để canh tác hỗn hợp.
Thềm để trồng cây lương thực là chủ yếu, trong
khi ở phần sườn dốc chưa xử lý ở giữa thì trồng
cây dài ngày hay cây lấy gỗ.
Thềm tự nhiên: thềm tự nhiên được hình thành
sau khi tạo ra các bờ thấp (dải chắn) bằng đất
hay đá có thể thu lượm tại chỗ, hay các dải cỏ
dày theo đường đồng mức trên các sườn dốc
thoải. Chúng được thiết kế và thi công sao cho
đỉnh của đê chắn phía dưới cao ngang tâm điểm
giữa đoạn sườn dốc tới đê kế tiếp ở phía trên.
Sau vài năm canh tác thềm sẽ được hình thành
do sự bồi đắp tự nhiên. Loại này thường chỉ áp
dụng cho sườn dốc 7-12o.
Biện pháp nông nghiệp
Biện pháp bảo vệ bằng nông nghiệp thực chất là
các kỹ thuật đã được áp dụng qua việc quản lý,
sử dụng đất trồng, chúng liên quan chặt chẽ với
các quy trình canh tác bình thường, nhưng
được thiết kế hay lựa chọn một cách đặc biệt
nhằm đem lại lợi ích cho công tác bảo vệ đất
trồng, chi phí đòi hỏi không lớn và có thể áp
dụng tương đối dễ dàng. Việc giới thiệu các
biện pháp bảo vệ bằng nông nghiệp cần phải
được cân nhắc tính thích hợp của chúng với
phương pháp canh tác đã có và hệ cây trồng cụ
thể cùng với hiệu quả chống xói mòn. Các biện
pháp thường được áp dụng trong nông nghiệp
như: canh tác theo đường đồng mức, cày bừa
ngang dốc, bố trí đa canh, trồng cây thành dải,
biện pháp phủ bổi, trồng cây bảo vệ đất, làm đất
tối thiểu, trồng các dải cây chắn... đây là những
biện pháp có hiệu quả có tác dụng tăng năng
suất cây trồng và dễ dàng thực hiện hơn so với
các biện pháp công trình đã nói ở trên; mức độ
chi phí của biện pháp nông nghiệp cũng không
tốn kém. Ðiều này rất phù hợp với điều kiện kinh
tế của những nước đang phát triển như nước
ta. Tuy nhiên, những biện pháp này chỉ có thể
áp dụng được trên những sườn đồi núi không
dốc lắm (dưới 12o), ở những nơi có độ dốc cao
hơn thì cần phải kết hợp giữa biện pháp nông
nghiệp với các biện pháp công trình đơn giản
như đã trình bày ở phần biện pháp công trình.
Biện pháp lâm nghiệp: trên các đỉnh đồi, núi,
sườn dốc đứng và ở những vị trí hợp thủy
không có điều kiện xây dựng đồi ruộng phải
được trồng rừng hoặc bảo vệ rừng tái sinh. Các
diện tích rừng bảo vệ này có tác dụng chống xói
mòn, ngăn chặn dòng chảy và giữ ẩm cho đất
đồng thời còn hạn chế cả xói mòn gây ra do gió.
Biện pháp hóa học: một số nước tiên tiến trên
thế giới người ta nghiên cứu các chất kết dính
hóa học (phụ phẩm của ngành chế biến gỗ) đưa
vào đất để tạo cho đất có thể liên kết chống xói
mòn. Ngoài ra người ta còn dùng một số chất có
khả năng giữ đất khác như thạch cao, sợi, thủy
tinh tạo thành màng bảo vệ trên mặt đất.
Biện pháp canh tác khống chế xói mòn do gió
Ðể hạn chế những tác hại xói mòn của gió
người ta thường thực hiện các biện pháp
sau:
Luôn duy trì độ ẩm cho đất, tránh để hiện tượng
đất bị khô kiệt. Có thể thực hiện bằng các biện
pháp xây dựng hồ chứa nước, hệ thống thủy lợi
phục vụ tưới tiêu, các giếng khoan.
Thường xuyên che phủ cho đất bằng các đai
rừng chắn gió, thảm thực vật tự nhiên (rừng
đồng cỏ...) và các hệ thồng cây trồng thích hợp
cho khu vực thông qua việc sử dụng các mô
hình nông - lâm kết hợp các công thức luân
canh và xen canh.
- Trong hoạt động quản lý canh tác ở các vùng
xói mòn do gió phải hết sức chú ý tới các đai
rừng bảo vệ, không cày bừa hoặc lên luống theo
hướng gió thổi thường xuyên mà phải cắt vuông
góc với hướng gió, tạo cho mặt đất có độ gồ
ghề bằng cách lên luống cao, không nên làm đất
quá kỹ làm các hạt đất bị v