Tóm tắt. Trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới đất nước và phát triển kinh tế thị
trường, phân tầng xã hội (PTXH) nổi lên như một vấn đề thời sự cấp bách. Có thể nhận
thấy rất rõ sự phân hóa giàu nghèo giữa các vùng, giữa thành thị và nông thôn, giữa các
tầng lớp dân cư tăng nhanh; khoảng cách chênh lệch về thu nhập, mức sống giữa các tầng
lớp nhân dân, giữa các vùng miền có xu hướng ngày một nới rộng. Phân tầng xã hội và
phân hóa giàu nghèo đã trở thành những vấn đề nổi cộm mà ai cũng cảm nhận được. Tuy
nhiên phân tầng xã hội có phải là bất công bằng xã hội hay không? Phân tầng xã hội có
hoàn toàn xấu và tiêu cực hay không? PTXH có ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự, sự bất
ổn xã hội để phải ngăn chặn, khống chế, kiểm soát, giảm thiểu tác hại cũng như thu hẹp
phạm vi tác động? Ở bài viết này, tác giả sẽ nghiên cứu góc nhìn khác từ sự phân tách khái
niệm PTXH và luận bàn về phân tầng hợp thức hướng tới công bằng xã hội ở nước ta hiện
nay.
9 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 25 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xu hướng phân tầng xã hội và luận bàn về phân tầng xã hội hợp thức ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE DOI: 10.18173/2354-1067.2016-0035
Social Sci., 2016, Vol. 61, No. 2A, pp. 87-95
This paper is available online at
XU HƯỚNG PHÂN TẦNG XÃ HỘI VÀ LUẬN BÀN VỀ PHÂN TẦNG XÃ HỘI
HỢP THỨC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Tô Phương Oanh
Khoa Công tác Xã hội, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Tóm tắt. Trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới đất nước và phát triển kinh tế thị
trường, phân tầng xã hội (PTXH) nổi lên như một vấn đề thời sự cấp bách. Có thể nhận
thấy rất rõ sự phân hóa giàu nghèo giữa các vùng, giữa thành thị và nông thôn, giữa các
tầng lớp dân cư tăng nhanh; khoảng cách chênh lệch về thu nhập, mức sống giữa các tầng
lớp nhân dân, giữa các vùng miền có xu hướng ngày một nới rộng. Phân tầng xã hội và
phân hóa giàu nghèo đã trở thành những vấn đề nổi cộm mà ai cũng cảm nhận được. Tuy
nhiên phân tầng xã hội có phải là bất công bằng xã hội hay không? Phân tầng xã hội có
hoàn toàn xấu và tiêu cực hay không? PTXH có ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự, sự bất
ổn xã hội để phải ngăn chặn, khống chế, kiểm soát, giảm thiểu tác hại cũng như thu hẹp
phạm vi tác động? Ở bài viết này, tác giả sẽ nghiên cứu góc nhìn khác từ sự phân tách khái
niệm PTXH và luận bàn về phân tầng hợp thức hướng tới công bằng xã hội ở nước ta hiện
nay.
Từ khóa: Phân tầng xã hội (PTXH), phân tầng xã hội hợp thức, phân tầng xã hội không
hợp thức, công bằng xã hội, phân hóa giàu nghèo.
1. Mở đầu
Phân tầng xã hội cùng với cấu trúc xã hội là chủ đề nghiên cứu cơ bản của xã hội học. Nhiều
nhà khoa học xã hội lớn trên thế giới đã đưa ra các quan niệm khác nhau về bản chất, nguyên nhân
và xu hướng của sự phân tầng xã hội (PTXH).
Karl Marx coi bản chất của PTXH là bất bình đẳng xã hội do cấu trúc xã hội giai cấp gây
ra. Giai cấp thống trị về mặt kinh tế đồng thời là giai cấp chiếm vị thế cao và thống trị các giai cấp
khác về mặt chính trị, tinh thần. Giai cấp bị trị về mặt kinh tế đồng thời nằm ở những tầng lớp dưới
của cơ cấu PTXH. Học thuyết của Marx về cấu trúc xã hội giai cấp cũng chỉ rõ rằng trong xã hội
có sự phân chia giai cấp, sự PTXH diễn ra dưới hình thức bất bình đẳng xã hội sâu sắc với hình
dạng chóp nón, tức là đa số dân cư trong xã hội nằm ở tầng đáy của hình tháp và một bộ phận nhỏ
thiểu số giai cấp thống trị nằm ở tầng đỉnh chóp của tháp.
Các nhà khoa học sau Marx đã tiếp tục nghiên cứu sự PTXH và chỉ ra nhiều chiều cạnh của
mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và xã hội của nó. PTXH luôn có quan hệ với phân hóa giàu
Ngày nhận bài:1/2/2016. Ngày nhận đăng:1/5/2016.
Liên hệ: Tô Phương Oanh, e-mail: tophuongoanh@gmail.com.
87
Tô Phương Oanh
nghèo trong xã hội: những người giàu có trong xã hội luôn có xu hướng chiếm giữ những tầng cao
trong tháp PTXH. Những người lao động làm các công việc đơn giản, thô sơ hay thiếu việc làm
hoặc thất nghiệp thường có thu nhập thấp và do vậy thường bị rơi xuống tầng lớp đáy của xã hội.
Sự phân hóa giàu nghèo và PTXH ở Việt Nam cũng diễn ra theo xu hướng chung của lịch
sử xã hội loài người trong đó sự phân hóa giàu nghèo luôn gắn với PTXH. Các điều kiện kinh tế
luôn đóng vai trò quy định vị thế và vai trò xã hội của các cá nhân, gia đình trong cơ cấu PTXH.
Những người giàu có thường chiếm lĩnh vị trí thuộc tầng lớp trên và những người nghèo đói bị rơi
xuống tầng lớp dưới. Ở Việt Nam vấn đề PTXH được đề cập và nghiên cứu trong thời gian không
lâu nhưng đã có nhiều nhà xã hội học quan tâm, nghiên cứu và có nhiều công trình sâu sắc về vấn
đề này.
Công trình nghiên cứu sớm nhất về cơ cấu xã hội và phân tầng xã hội là đề tài nghiên cứu
đã được công bố vào đầu những năm 1990. Các nghiên cứu này đã xuất phát từ quan điểm của chủ
nghĩa Mác-Lênin để nhấn mạnh vai trò quyết định của phương thức sản xuất và trao đổi đối với cơ
cấu xã hội ở Việt Nam. Công cuộc đổi mới kinh tế đã thúc đẩy sự biến đổi mới cơ cấu xã hội và
đặt ra yêu cầu nghiên cứu về thành phần và cơ cấu xã hội đang đổi mới ở Việt Nam. Tài liệu [4]
đã chỉ ra tác động về KT-XH trong công cuộc đổi mới và được phản ánh trước hết trong việc nâng
cao mức sống. Nghiên cứu này đã chỉ ra hệ quả của PTXH theo mức sống được đo bằng các chỉ
báo về nhà ở, tiện nghi sinh hoạt, thu nhập và chi tiêu hàng tháng. Tác giả chỉ ra rằng, phát triển
kinh tế thị trường tất yếu dẫn đến phân hoá, phân cực giàu nghèo song phản ứng của người dân Hà
Nội trước hiện tượng này là khá bình tĩnh, tuy vẫn có sự phản ứng khác nhau giữa người giàu và
người nghèo, nhóm nghề nghiệp, nhóm cán bộ về hưu, nhóm người già,. . . Kết quả cũng cho thấy,
chiều hướng và mức độ PTXH ngày một gia tăng. Nghiên cứu này đã xây dựng bốn chỉ báo khách
quan như điều kiện nhà ở, tiện nghi sinh hoạt, chi tiêu, thu nhập và một chỉ báo chủ quan là sự tự
đánh giá mức sống để đánh giá sự phân tầng xã hội và khoảng cách giàu nghèo của người dân ở
Hà Nội; [5] trình bày những quan điểm tranh luận của các tác giả như: Marx, Max Weber, Celia
S. heller, Wesley Sharrock, Auguste Comte, Emile Durkheim,. . . Ngoài ra tác giả còn trình bày
một số khuynh hướng, trường phái lí thuyết đương đại về PTXH như của Talcott Parson, Pierre
Bourdieu. Trên cơ sở vận dụng những lí thuyết hạt nhân hợp lí trong lí thuyết về PTXH của nhiều
học giả cùng với vận dụng phù hợp phương pháp luận Mác xít, tư tưởng Hồ Chí Minh và nét đặc
thù của xã hội Việt Nam, tác giả đã mô tả thực trạng PTXH ở nước ta và khẳng định rằng PTXH là
động lực của sự phát triển xã hội, tạo ra sự đồng thuận xã hội nhằm phát huy các nhóm xã hội như:
trí thức; thanh niên; các nhà doanh nghiệp; cán bộ lãnh đạo, quản lí; những người lao động giỏi
trong sản xuất công, nông, lâm nghiệp và hoạt động dịch vụ khác nhằm thúc đẩy mạnh công cuộc
CNH, HĐH đất nước; [6] đã phân tích các lí thuyết về giai cấp và phân tầng. Theo tác giả các nhà
XHH phương Tây cho rằng các giai cấp khác nhau về vốn văn hóa, mạng lưới xã hội – vốn xã hội
và ở mức độ nhất định giới cũng ảnh hưởng đến sự phân tầng. Trong khi phân tích vị trí giai cấp,
tác giả chỉ ra rằng ngoài các yếu tố đánh giá vị trí giai cấp của cá nhân không chỉ dưới góc độ kinh
tế học và công ăn, việc làm mà cả các nhân tố văn hóa như phong cách sống, mô hình tiêu dùng.
Theo tác giả sự phát triển gần đây về lí luận ở phương Tây gợi ra nhiều điều đáng nắm bắt và suy
ngẫm cho XHH Việt Nam khi tìm hiều sự phân tầng đang diễn ra ở nước ta trong giai đoạn hiện
nay. Còn trong [7] đã tập trung làm rõ lí thuyết PTXH của M.Weber cho rằng chính những quan
hệ kinh tế đã hình thành nên cơ sở của sự bất bình đẳng và tạo tiền đề, điều kiện cho sự phân chia
88
Xu hướng phân tầng xã hội và luận bàn về phân tầng xã hội hợp thức ở Việt Nam hiện nay
xã hội thành các giai cấp khác nhau song lại nhấn mạnh tầm quan trọng của yếu tố thị trường như
là cơ sở kinh tế cho giai cấp hơn là tài sản. Lí thuyết PTXH của Emile Durkheim quan tâm nhiều
hơn đến phân công lao động xã hội và cho rằng trong xã hội hiện đại nó làm cho CCXH đa dạng
hơn song lại phụ thuộc lẫn nhau giữa các cá nhân do yêu cầu của phân công lao động. Nhà XHH
Pháp Pierre Bourieu quan niệm các giai tầng xã hội tồn tại 3 loại vốn là vốn kinh tế, vốn chính trị
và vốn xã hội. Ba vốn này có thể chuyển hóa lẫn nhau làm đa dạng cơ cấu giai tầng xã hội; [8]
là một nghiên cứu có cách tiếp cận mới về PTXH. Từ thực tiễn xã hội đã và đang diễn ra, tác giả
đưa ra quan điểm tiếp cận: Phải dựa vào quyền kiểm soát với tư liệu sản xuất (và quyền kiểm soát
đối với các lực lượng khác) để nghiên cứu những vấn đề thuộc về PTXH. Cũng từ thực tiễn nghiên
cứu tác giả lựa chọn tiêu chuẩn phân chia các tầng lớp trong xã hội theo cách tiếp cận phổ biến đo
lường trên thế giới đó là tiêu chuẩn dựa vào địa vị kinh tế xã hội để xác định các tầng lớp trong xã
hội; [9] cho rằng sự chênh lệch giảu nghèo là quá trình tự nhiên, tất yếu của xã hội loài người. Từ
các số liệu điều tra, tác giả phác họa bức tranh về mức thu nhập và tỉ lệ hộ nghèo trong 25 năm
thực hiện đường lối đổi mới đất nước. Thu nhập bình quân đầu người liên tục tăng, mức sống của
người dân liên tục được cải thiện qua các năm. Tỉ lệ hộ nghèo chung của cả nước đều giảm mạnh,
song sự chênh lệch giàu nghèo có xu hướng tăng lên. Trên cơ sở thực trạng sự phân hóa giàu nghèo
ở Việt Nam nói chung, Hà Nội nói riêng, tác giả đã tổng kết và đưa ra một số xu hướng biến đổi
của PTXH, phân hóa giàu nghèo.
Người có công theo đuổi và nghiên cứu chuyên sâu về PTXH ở Việt Nam có thể kể đến [10]
cho rằng PTXH là một hiện tượng xã hội tồn tại rất lâu trong lịch sử, là một cấu trúc xã hội bất
bình đẳng, một cấu trúc thang bậc bao gồm những tầng lớp xã hội không ngang bằng nhau. Tác
giả phân tích khái niệm PTXH và tiến hành thao tác hóa thành hai khái niệm bộ phận là PTXH
hợp thức và PTXH không hợp thức và cho rằng ở nước ta PTXH là tất yếu có tích cực và tiêu cực.
[11] Tác giả đã chỉ ra rằng quá trình đổi mới, phát triển KTTT và hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo
ra những biến đổi to lớn trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có xu hướng biến
đổi cấu trúc tầng bậc. Tác giả phân tích 4 xu hướng PTXH ở nước ta hiện nay: Một là, xu hướng
PTXH về mặt kinh tế; Hai là xu hướng PTXH về đời sống văn hóa tinh thần; Ba là xu hướng hình
thành PTXH hợp thức và mặt trái không tránh khỏi là PTXH không hợp thức; Bốn là xu hướng
hình thành tầng lớp xã hội ưu trội và nhóm xã hội yếu thế trong quá trình phát triển KTXH. . .
Trong cuốn sách [12] tác giả đưa ra cơ sở để kì vọng vào cấu trúc PTXH hợp thức sẽ chiếm ưu thế
bởi con đường đổi mới của chúng ta là phát triển kinh tế thị trường, giữ vững định hướng xã hội
chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do dân,
của dân, vì dân điều hành quản lí.
Những đóng góp nổi bật của các công trình nghiên cứu về PTXH kể trên đã phân tích cụ
thể quá trình biến đổi, phát triển về PTXH ở Việt Nam. Qua đó nghiên cứu có thể tiếp thu được cả
về mặt lí luận và các phương pháp nghiên cứu, đánh giá về PTXH ở Việt Nam hiện nay từ đó đi
sâu phân tích, làm rõ hơn, phong phú hơn để phát triển nghiên cứu này.
Nhìn nhận vấn đề như vậy để hiểu rằng khi tiếp nhận, nghiên cứu về PTXH chúng ta cần
trả lời một cách rõ ràng, trọng tâm 3 câu hỏi lớn: Thứ nhất, câu hỏi về nguồn gốc của PTXH? Vì
sao lại có hiện tượng PTXH? Thứ hai, PTXH để lại hậu quả gì cho con người? Nó là tốt hay xấu,
tiêu cực hay tích cực? Thứ ba, chúng ta cần có thái độ như thế nào đối với PTXH? Chúng ta thừa
nhận nó, cần thiết chế nó hay tìm cách xóa bỏ, mở rộng hay thu hẹp khoảng cách cũng như phạm
89
Tô Phương Oanh
vi tác động của nó? Bình luận về điều này trước hết cần trân trọng và ghi nhận những nỗ lực to lớn
của các nhà khoa học đi trước bởi họ đã tích cực tìm kiếm, lao động sáng tạo, mang lại những kiến
giải quý giá để chúng ta học hỏi, nghiên cứu, phê phán, kế thừa và phát triển. Nếu không có những
kiến giải đó, sẽ không có chất liệu để phân tích, lí giải cho những tri thức mới. Tuy nhiên chúng
ta cần phải tiến hành bằng cách tổng tích hợp những lí giải của các lí thuyết, trả lời một cách gián
tiếp câu hỏi và tách câu hỏi lớn thành các câu hỏi nhỏ và trả lời lần lượt từng câu hỏi để thỏa đáng
vấn đề nghiên cứu.
2. Nội dung nghiên cứu
Trước hết phải thừa nhận rằng, PTXH nảy sinh là do có sự tồn tại của hiện tượng bất bình
đẳng tức là sự không ngang bằng nhau giữa các thành viên trong xã hội về mặt năng lực, thể chất,
trí tuệ, điều kiện, cơ may; hai là, do có sự phân công lao động xã hội về mặt nghề nghiệp và những
vị thế xã hội chiếm ưu thế. Chính sự tồn tại khách quan, tự nhiên, phổ biến của hai hiện tượng xã
hội này đã luôn làm nảy sinh hiện tượng PTXH. Đến lượt nó PTXH lại tác động trở lại xã hội một
cách tích cực hoặc tiêu cực. Dù muốn hay không muốn PTXH đã và đang tồn tại trên phạm vi toàn
thế giới, không trừ một quốc gia nào và lẽ dĩ nhiên Việt Nam không phải là một ngoại lệ.
Trong thời gian qua ở Việt Nam đã hình thành một số xu hướng phân hóa giàu nghèo và
PTXH như sau (dựa theo nguồn số liệu điều tra của Tổng cục Thống kê năm 2012 [3]):
- Tỉ lệ nghèo của Việt Nam giảm nhanh chóng trong thời gian qua và tiếp tục giảm cùng với
mức sống của các giai tầng xã hội được cải thiện không ngừng.
- Mức chênh lệch về thu nhập, tài sản và mức chi tiêu giữa các nhóm dân cư, giữa các vùng,
miền, giữa thành thị và nông thôn có xu hướng tăng.
- Thành tựu xóa đói giảm nghèo đạt được ở nước ta thời gian qua là khá lớn, nhưng không
đồng đều giữa các nhóm dân cư và đang có xu hướng chậm lại.
Bảng 1. Thu nhập bình quân đầu người một tháng chia theo khu vực, vùng
Năm 2002 2004 2006 2008 2010 2012
Cả nước 356,1 484,4 636,5 995,2 1387,1 1999,8
Thành thị 622,1 815,4 1058,4 1605,2 2129,5 2989,1
Nông thôn 275,1 378,1 505,7 762,2 1070,4 1579,4
Đồng bằng sông Hồng 353,1 488,2 653,3 1048,5 1567,8 2337,1
Đông Bắc 268,8 379,9 511,2 768,0 1054,8 1482,1
Tây Bắc 197,0 265,7 372,5 549,6 740,9 998,8
Bắc Trung Bộ 235,4 371,1 418,3 641,1 902,8 1344,8
Duyên hải Nam Trung Bộ 305,8 414,9 550,7 843,3 1162,1 1698,4
Tây Nguyên 244,0 390,2 522,4 794,6 1087,9 1643,3
Đông Nam Bộ 619,7 833.0 1064.7 1649,2 2165,0 3016,4
Đồng bằng sông Cửu Long 371,3 471,1 627,6 939,9 1247,2 1796,7
(Nguồn: Tổng cục Thống kê 2012)
- Sự PTXH diễn ra trên tất cả các phương diện của đời sống từ kinh tế đến giáo dục, y tế,
văn hóa, thể thao, giải trí, chính trị. Trong đó, PTXH về mặt kinh tế (thu nhập, chi tiêu) bộc lộ khá
90
Xu hướng phân tầng xã hội và luận bàn về phân tầng xã hội hợp thức ở Việt Nam hiện nay
rõ và có xu hướng tăng lên. PTXH về mặt quyền lực, uy tín đã bộc lộ, song nghiên cứu nó vẫn là
một vấn đề nhạy cảm (khó tiếp cận và đa lường).
- Cơ cấu xã hội ít thành phần chuyển sang cơ cấu PTXH nhiều thành phần, nhiều tầng lớp
xã hội phong phú, đa dạng về ngành nghề theo hướng dịch vụ và thị trường. Cơ cấu xã hội nghề
nghiệp nặng về nông nghiệp đang chuyển sang cơ cấu xã hội công nghiệp – dịch vụ.
- Cùng với xu thế công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã xuất hiện nhiều nghề nghiệp gắn với
khoa học công nghệ thông tin, thị trường tài chính và các loại dịch vụ xã hội.
- Cùng với xu thế phát triển kinh tế thị trường đã xuất hiện ngày càng nhiều các nhóm xã
hội “ưu trội”, tầng lớp xã hội “ưu trội”, đặc biệt là sự lớn mạnh của các tầng lớp doanh nhân. Trái
ngược với nó là sự xuất hiện của các nhóm xã hội yếu thế, tầng lớp xã hội yếu thế rất cần được xã
hội quan tâm, hỗ trợ để phát triển.
- Cơ chế phân phối có xu hướng tuân theo các quy luật thị trường như quy luật giá trị và
định hướng xã hội chủ nghĩa, tức là phân phối theo nguyên tắc: Làm nhiều hưởng nhiều, làm theo
năng lực, hưởng theo lao động, có tính đến công bằng xã hội, bình đẳng xã hội thể hiện ở chính
sách và chương trình xóa đói giảm nghèo và các chương trình, chính sách khác nhằm hỗ trợ nhóm
xã hội yếu thế.
- PTXH ở nước ta có xu hướng ngày càng tăng, song bất bình đẳng xã hội đang còn ở mức
trung bình so với khu vực và thế giới. Đảng và Nhà nước ta đang nỗ lực lãnh đạo và điều hành để
kết hợp thành công giữa tăng trưởng kinh tế và việc thực hiện tốt công bằng và tiến bộ xã hội.
- Việt Nam là một nước còn nghèo, nhưng nhờ công cuộc đổi mới kinh tế xã hội nên vị thế
của Việt Nam trên trường quốc tế đang được củng cố và tăng lên. Mặc dù khoảng cách chênh lệch
về kinh tế – xã hội của Việt Nam so với các quốc gia khác đang được rút ngắn rõ rệt, nhưng biên
độ vẫn còn lớn.
- Sự PTXH ở Việt Nam được điều tiết bởi đường lối, chính sách lãnh đạo quản lí theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Nhờ công cuộc đổi mới kinh tế xã hội mà trực tiếp nhất là chính sách và
chương trình xóa đói giảm nghèo, nên tỉ lệ nghèo chung và nhất là tỉ lệ nghèo lương thực ở VN đã
giảm mạnh trong thời gian qua ở tất cả các nhóm xã hội yếu thế ở thành thị, nông thôn và nhất là
đồng bào dân tộc ở vùng sâu, vùng xa. Đồng thời các chính sách phát triển kinh tế – xã hội cũng
khuyến khích các cá nhân, gia đình làm giàu chính đáng.
Có thể thấy rằng phân hóa giàu nghèo, PTXH đã trở thành những vấn đề xã hội bức thiết
được Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm, giải quyết. Tuy nhiên, điều quan trọng là chúng ta
cần phải đánh giá cho đúng thực chất bản chất của PTXH. PTXH là tốt hay xấu, là tích cực hay
tiêu cực, là cái cần thiết cho trật tự xã hội hay là cái làm phương hại đến ổn định xã hội... Để làm
được điều này chúng ta cần đi sâu tìm hiểu và tiến hành thao tác hóa khái niệm, bóc tách khái niệm
PTXH nói chung thành hai khái niệm bộ phận là PTXH hợp thức và PTXH không hợp thức.
Phân tầng xã hội hợp thức là một cấu trúc tầng bậc xã hội được hình thành trên cơ sở sự
khác biệt tự nhiên của các cá nhân về tài, đức, sự đóng góp, cống hiến thực tế của họ cho xã hội.
PTXH hợp thức phản ánh một cấu trúc vừa phù hợp với đạo lí, pháp lí và các chuẩn mực, giá trị
của xã hội trong hiện tại, vừa phù hợp với quy luật và xu hướng phát triển đi lên của văn hóa, văn
minh xã hội. PTXH hợp thức vừa phản ánh một trật tự của công bằng xã hội vừa phản ánh những
khát vọng của nhân loại tiến bộ và tất cả những ai có tư duy lành mạnh, bình thường trong xã hội.
91
Tô Phương Oanh
Bên cạnh cấu trúc PTXH hợp thức – một khuynh hướng chủ đạo hiện nay ở Việt Nam thì
cũng đồng thời tồn tại một cấu trúc PTXH không hợp thức đối nghịch với PTXH hợp thức. Đó
là cấu trúc xã hội được hình thành không phải do sự khác biệt về tài, đức, về sự cống hiến thực
tế của mỗi cá nhân, tổ chức cho xã hội mà dựa vào sự bợ đỡ, nịnh nọt, sự liên minh ma quỷ theo
lợi ích nhóm; những quy tắc chuẩn mực xã hội bị bóp méo, bị thao túng; những chính sách xã hội
thiếu đúng đắn, thiếu khoa học, lạc hậu, sơ hở, chậm đổi mới; những hành vi tham nhũng, làm ăn
phi pháp (trốn thuế, lậu thuế, làm hàng giả, hàng nhái, buôn bán ma túy, ...); sự thao túng hay tha
hóa quyền lực hoặc ngay cả sự lười biếng, trông chờ, ỷ lại. Cấu trúc này nảy sinh và hình thành do
nhiều nguyên nhân trong đó có sự sơ hở, lạc hậu về chính sách, buông lỏng quản lí của các cấp có
thẩm quyền, do sự gian tham, tiêu cực của một số người cũng như những quán tính xấu của quá
khứ chưa được gột rửa, lưu truyền từ xã hội trước đó để lại. Cấu trúc xã hội này chính là sự bất
công xã hội, nuôi dưỡng những bất bình, xung đột xã hội, làm phương hại đến bộ mặt nhân văn,
nhân bản xã hội. Cấu trúc này tuy không lấn át cấu trúc PTXH hợp thức song sự tàn phá của nó là
hết sức ghê gớm không thể chủ quan, xem nhẹ.
Với phân tích như vậy, PTXH không đơn giản chỉ được quy về cái tốt, cái tích cực như lập
luận của những người theo thuyết chức năng; nó cũng không chỉ được quy giản một chiếu về cái
xấu, cái tiêu cực như ý kiến của những người theo thuyết xung đột. Trên thực tế PTXH có cả mặt
tốt, mặt tích cực và mặt xấu, mặt tiêu cực. Theo đó, thì tùy ở từng loại phân tầng mà chúng ta sẽ có
những thái độ và hành vi ứng xử một cách tương ứng. Đối với bất kì một người bình thường, lành
mạnh nào thì rõ ràng với PTXH hợp thức, chúng ta cần thừa nhận nó, ủng hộ sự tồn tại của nó; hơn
thế nữa, cần phải thiết chế hóa nó, cần phải làm cho nó trở nên phổ biến, cần phải xây dựng một
xã hội trên cơ sở PTXH hợp thức. Còn đối với PTXH không hợp thức, tức là một trật tự xã hội bất
công bằng, bất hợp lí, dựa trên những cơ sở tiêu cực xã hội, tham nhũng, trộm cắp, lãng phí, làm
ăn phi pháp, chúng ta cần phủ nhận nó, đấu tranh loại bỏ nó ra khỏi đời sống xã hội.
Trả lời một cách rành mạch câu hỏi này sẽ cho phép chúng ta không đơn giản quy PTXH
vào tốt hay xấu, tích cực hay tiêu cực, từ đó đưa ra các đề xuất về các giải pháp ủng hộ, thiết chế
hóa hay ngăn chặn, thu hẹp, xóa bỏ như những người theo thuyết chức năng hay xung đột, cũng
như những kiến giải và đề xuất của những người theo thuyết dung hòa. Ở đây, chúng ta có thể kế
thừa, tổng tích hợp một cách có phê phán những hạt nhân hợp lí ở mỗi lí thuyết và đưa ra cách kiến
giải mới. Với sự phân tích trên, thì hiển nhiên rằng, không phải PTXH nói chung là tốt, là tích cực
như những người theo thuyết chức năng nói đến mà chỉ có PTXH hợp thức mới là tốt, có chức năng
tích cực tạo ra trật tự xã hội, công bằng xã hội, đồng thuận xã hội, đo