Xử lý nợ xấu nhìn từ kinh nghiệm các nước

1. Khái niệm về mua bán nợ: Mua bán nợ là hoạt động kinh tế để trao đổi và chuyển giao phần tài sản đặc biệt là các "khoản nợ phải thu" từ đối tượng này sang đối tượng khác. Thực chất, đó là việc chuyển nhượng lại "quyền thu hồi nợ" từ một "khoản nợ phải thu" của Bên bán nợ (chủ nợ) đối với Khách nợ sang cho Bên mua nợ (ví dụ như DATC) để Bên mua nợ trở thành chủ nợ mới của Bên Khách nợ. Như vậy, hoạt động mua bán nợ được thực hiện đối với các khoản nợ phải thu (của bên chủ nợ) mà không phải là nợ phải trả (của bên khách nợ). Ví dụ: Bên A (chủ nợ) có "khoản nợ phải thu" 1000$ đối với Bên B (khách nợ) do phát sinh trong một quan hệ kinh tế giữa 2 bên. Đến nay, Bên A cần thu hồi phần tài sản này để đầu tư vào một dự án khác nhưng Bên B chưa thanh toán được do khó khăn về tài chính hoặc khoản nợ chưa đến hạn. Và Bên A bán khoản nợ phải thu này cho DATC với giá 1000$, đồng thời chuyển giao toàn bộ "quyền thu hồi nợ" cho DATC để DATC trở thành chủ nợ mới của Bên B và khi đó Bên B có trách nhiệm thanh toán 1000$ cho DATC mà không phải thanh toán cho Bên A nữa.

doc11 trang | Chia sẻ: nguyenlinh90 | Lượt xem: 878 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xử lý nợ xấu nhìn từ kinh nghiệm các nước, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Xử lý nợ xấu nhìn từ kinh nghiệm các nước. 1. Khái niệm về mua bán nợ: Mua bán nợ là hoạt động kinh tế để trao đổi và chuyển giao phần tài sản đặc biệt là các "khoản nợ phải thu" từ đối tượng này sang đối tượng khác. Thực chất, đó là việc chuyển nhượng lại "quyền thu hồi nợ" từ một "khoản nợ phải thu" của Bên bán nợ (chủ nợ) đối với Khách nợ sang cho Bên mua nợ (ví dụ như DATC) để Bên mua nợ trở thành chủ nợ mới của Bên Khách nợ. Như vậy, hoạt động mua bán nợ được thực hiện đối với các khoản nợ phải thu (của bên chủ nợ) mà không phải là nợ phải trả (của bên khách nợ). Ví dụ: Bên A (chủ nợ) có "khoản nợ phải thu" 1000$ đối với Bên B (khách nợ) do phát sinh trong một quan hệ kinh tế giữa 2 bên. Đến nay, Bên A cần thu hồi phần tài sản này để đầu tư vào một dự án khác nhưng Bên B chưa thanh toán được do khó khăn về tài chính hoặc khoản nợ chưa đến hạn. Và Bên A bán khoản nợ phải thu này cho DATC với giá 1000$, đồng thời chuyển giao toàn bộ "quyền thu hồi nợ" cho DATC để DATC trở thành chủ nợ mới của Bên B và khi đó Bên B có trách nhiệm thanh toán 1000$ cho DATC mà không phải thanh toán cho Bên A nữa. • DATC: Công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng của Doanh nghiệp) thuộc Bộ tài chính. • VAMC: Công ty Quản lý và khai thác tài sản Việt Nam. 2. Xử lý nợ xấu nhìn từ kinh nghiệm các nước. Trong thời lỳ khủng hoảng tài chính Châu Á những năm 1997 – 1998, phần lớn các nước Đông Á đã lập các Công ty Quản lý tài sản (AMC) trực thuộc Nhà nước nhằm thanh lý nợ xấu đồng thời với thực hiện tái cấu trúc hệ thống ngân hàng nói riêng và nền kinh tế nói chung. Chính phủ các nước Indonesia, Malaysia, Hàn Quốc và Thái Lan đã thành lập các công ty quản lý tài sản tập trung (AMCs) để xử lý nợ, thu hồi và cơ cấu lại các khoản nợ xấu của ngân hàng. Cụ thể: Indonesia thiết lập Cơ quan tái cấu trúc ngân hàng (IBRA), với Malaysia là Tổ chức xử lý nợ quốc gia (DANAHARTA), Hàn Quốc lập Công ty Quản lý Tài sản (KAMCO). Riêng Thái Lan ban đầu chỉ thành lập Cơ quan tái cấu trúc tài chính (FRA) để xử lý các vấn đề của các công ty tài chính và đến năm 2001, Thái Lan mới thành lập Công ty Quản lý Tài sản (TAMC). Các công ty này chỉ hoạt động trong một số năm nhất định. - Đặc điểm chung của 4 công ty xử lý nợ nói trên là được Chính phủ tài trợ vốn và tổ chức tập trung hơn việc sử dụng một mô hình chỉ dựa vào ngân hàng. Điều này có lẽ là do tính chất đặc thù có hệ thống về các vấn đề ngân hàng và quy mô nợ xấu. - Chính phủ các nước nói trên áp dụng hình thức mua sỉ tất cả các khoản cho vay có vấn đề và cơ cấu lại các khoản nợ xấu của ngân hàng. Mô hình AMCs mang tính khả thi cao do nhiều ngân hàng không đủ nguồn lực để tự tái cấu trúc các khoản nợ xấu của mình thông qua các đơn vị trực thuộc hay các công ty con của ngân hàng. Hơn nữa, cơ sở pháp lý so với các chuẩn mực thế giới ở các nước này vẫn còn lạc hậu cũng góp phần tạo ra sự cần thiết phải có AMCs. (1) Malayxia: Các công ty xử lý nợ tập trung cũng có các quyền hạn đặc biệt để cắt giảm các thủ tục pháp lý. Ví dụ, Tổ chức xử lý nợ quốc gia Malaysia có quyền xử lý tất cả các khoản nợ xấu chuyển giao mà không cần phải xin phép các chủ tài sản. TAMC của Thái Lan cũng sử dụng quyền hạn của mình để buộc các con nợ phải ngồi vào bàn đàm phán cho việc thanh toán các khoản nợ vay của mình (2) Hàn Quốc: nước bị khủng hoảng nghiêm trọng nhất trong những năm 1997-1998, vai trò tái cấu trúc doanh nghiệp, đặc biệt là các tập đoàn kinh tế (Chaebol) trong quá trình giải quyết một danh mục nợ xấu lớn là rất rõ ràng, cho dù nhiệm vụ mấu chốt được đề ra ngay từ khi AMC được thành lập là giải quyết nợ xấu càng sớm càng tốt. (3) Indonesia: IBRA của Indonesia được thành lập ngay năm 1998 với mục tiêu ban đầu là tập trung hơn vào tái cấu trúc doanh nghiệp. Tuy nhiên, trước áp lực phải nhanh chóng thanh lý các khoản nợ xấu để tài trợ cho một ngân sách ngày càng bị thâm hụt, Công ty IBRA đã phải bán các khoản nợ xấu chưa được tái cấu trúc kể từ đầu năm 2002. (4) Trung Quốc, sau 4 năm giành rất nhiều thời gian và nguồn lực cho việc tái cấu trúc hàng trăm doanh nghiệp Nhà nước cỡ lớn (chiếm khoảng 1/3 tổng giá trị các khoản nợ xấu được 4 công ty quản lý tài sản mua) chủ yếu thông qua nghiệp vụ biến các khoản nợ thành cổ phần tại các doanh nghiệp này, 4 AMC của Trung Quốc sau đó đã tập trung hơn vào việc bán và thanh lý các khoản nợ xấu thông qua các công cụ khác nhau... (5) Thái Lan: Cũng như các nước Đông Nam Á khác, Thái Lan thực hiện xử lý nợ xấu bằng 03 giải pháp cơ bản. Các giải pháp này bao gồm bơm vốn trực tiếp, công ty quản lý tài sản AMC (Asset Management Company) và trung gian tái cơ cấu nợ CDRC (Corporate Debt Restructuring Committee), trong đó AMC là một trong những giải pháp mà Thái Lan đã áp dụng khá hiệu quả từ thời kỳ khủng hoảng cho đến nay. - Khủng hoảng tài chính Châu Á năm 1997 đã gây nhiều tác động nặng nề lên hệ thống tài chính ở Thái Lan, đặc biệt là khu vực ngân hàng. Nợ xấu của khu vực ngân hàng liên tục gia tăng, cuối năm 1997 đạt mức cao kỷ lục 46% trên tổng dư nợ tín dụng đã tạo áp lực cho Chính phủ phải nhanh chóng đưa ra những giải pháp kịp thời kiểm soát vấn đề này. - Kinh nghiệm xử lý nợ xấu của Thái Lan dựa trên các AMC có thể chia thành 02 thời kỳ: phân tán và tập trung, trong đó mô hình phân tán có sự tham gia của cả AMC sở hữu nhà nước (hỗ trợ bởi Quỹ Phát triển các Định chế tài chính-FIDF) và các AMC sở hữu bởi ngân hàng tư nhân được áp dụng lần lượt năm 1998 và 1999; còn mô hình AMC tập trung dựa trên sự thành lập của Công ty quản lý tài sản Thái Lan (Thai Asset Management Corporation – TAMC) vào năm 2001. Ba cơ chế AMC có nhiều điểm khác nhau ở nguồn gốc tổ chức, điều khoản và điều kiện các tài sản chuyển giao (xem Bảng 1). Thái Lan chỉ thực sự giải quyết nợ xấu thành công theo mô hình AMC tập trung áp dụng trong giai đoạn sau khủng hoảng. Bảng 1: Đặc điểm của 3 cơ chế AMC Phân tán và định hướng thị trường Phân tán và định hướng nhà nước Tập trung và định hướng nhà nước Số AMC 12 AMC hoạt động 4 AMC thuộc 5 ngân hàng sở hữu nhà nước (BAM, PAM, SAM, và Radhanasin AMC) 1: Thai Asset Management Corporation (TAMC) Sở hữu Các ngân hàng tư nhân Quỹ Phát triển các Định chế tài chính (FIDF) Bộ Tài chính Năm thành lập 8/1998 1998 (BBC), 1999 (UOBR), 2000 (KTB), và 2002 (BMB và SCIB) 2001 - nay Mục tiêu / động cơ thành lập Nguồn nhân lực xử lý nợ xấu ở các cơ quan không đủ và để tránh sự can thiệp về chính trị Giải quyết nợ xấu và cơ cấu lại nguồn vốn ngân hàng Xử lý nợ xấu, tránh các thủ tục pháp lý và tòa án Cơ sở hoạt động Nợ xấu của các ngân hàng mẹ được chuyển sang AMC con FIDF đảm bảo các trái phiếu được phát ra để mua lại nợ xấu từ các ngân hàng nhà nước TAMC phát hành trái phiếu (có sự bảo đảm của FIDF) để tạo nguồn vốn mua nợ xấu của các TCTD. Nguyên tắc giải quyết tài sản xấu là Chia sẻ lời – lỗ giữa TAMC và các TCTD Định giá chuyển giao tài sản trung bình (% của giá trị ban đầu hoặc giá trị sổ sách) Trung bình 53% Không có tiêu chí lựa chọn và định giá cụ thể. Ở mức 33% cho BAM, và giá thực tế cho SAM và PAM Dựa trên giá trị của tài sản bảo đảm (33,2%) Nợ xấu được chuyển (% tổng dư nợ) Rất nhỏ Đáng kể (52% cho KTB) Tất cả tài sản từ mức dưới chuẩn trở xuống, với tổng giá trị là 784,4 tỷ Baht Tái cơ cấu tài sản (% nợ xấu được chuyển) Tái cơ cấu chậm Không xác định 73,46% tính đến tháng 6/2003 Lợi ích từ việc chuyển nợ xấu Không đáng kể do chuyển nợ xấu không thực sự tách nợ xấu khỏi bảng cân đối của các ngân hàng. Các ngân hàng phải duy trì mức an toàn vốn cho cả nợ xấu hiện có và các AMC, khiến cho tài sản cần đáp ứng tăng gấp đôi Đáng kể vì cho phép các ngân hàng đáp ứng nhu cầu cơ cấu lại nguồn vốn Đáng kể vì các ngân hàng có thể tách tài sản xấu khỏi bảng cân đối. Lời-lỗ được chia sẻ theo sự sắp xếp giữa TAMC và các tổ chức tài chính AMC phân tán – kết hợp giữa định hướng nhà nước và định hướng thị trường - Mô hình AMC phân tán được áp dụng theo cách mỗi ngân hàng thành lập AMC riêng và nợ xấu của các ngân hàng sẽ được chuyển sang những AMC đó. Đối với khu vực nhà nước, các AMC sau khi thành lập sẽ phát hành trái phiếu (có sự đảm bảo của FIDF) để mua nợ xấu từ các ngân hàng sở hữu nó, trái phiếu không bán hết sẽ được FIDF mua lại, còn nợ xấu sẽ được bán ra ngoài thị trường cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Nhưng đối với khu vực tư nhân, sau khi nợ xấu được chuyển xuống các AMC trực thuộc theo giá thị trường hoặc giá trị sổ sách ròng, ngân hàng sẽ thuê các công ty quản lý tài sản nước ngoài thực hiện quản lý các tài sản của AMC với mức phí từ 2 – 5% trên giá trị tài sản ròng. - Tuy nhiên, giải quyết nợ xấu thông qua mô hình AMC phân tán đã không thành công khi nợ xấu ở các AMC của ngân hàng tư nhân gần như không xử lý được, thậm chí mức an toàn vốn mà các ngân hàng phải duy trì đã tăng lên gấp đôi. Còn ở các ngân hàng nhà nước, mục tiêu chủ yếu của chuyển hóa tài sản là cơ cấu lại nguồn vốn ngân hàng chứ không trọng tâm vào tối đa hóa giá trị hoàn lại của các khoản nợ xấu. AMC tập trung – theo định hướng nhà nước Năm 2001, Thái Lan thành lập một công ty quản lý tài sản tập trung có tên Thai Asset Management Corporation (TAMC) với cơ chế hoạt động khá hệ thống: - Cơ sở pháp lý: TAMC hoạt động dựa trên cơ sở pháp lý là Nghị định TAMC (TAMC Emergency Decree B.E. 2544) với mục đích duy nhất là xử lý triệt để vấn đề nợ xấu cho tất cả các TCTD. - Cơ chế hoạt động: Hội đồng thành viên của TAMC bao gồm ủy ban kiểm toán và các thành viên bên ngoài. Nguồn vốn hoạt động của TAMC chủ yếu từ phát hành trái phiếu chiếm 96%, còn lại 0,4% là hỗ trợ từ Chính phủ. TAMC thực hiện phát hành trái phiếu có thời hạn 10 năm với sự đảm bảo của FIDF để mua nợ xấu. Tài sản được chuyển giao sẽ định giá theo giá trị tài sản bảo đảm. Việc xử lý nợ xấu sẽ dựa trên nguyên tắc chia sẻ lời – lỗ giữa TAMC và các TCTD bán nợ. Nếu nợ xấu có thể sinh lời thì ngân hàng bán nợ sẽ được hưởng 80% phần lợi nhuận, còn nếu nợ xấu tạo lỗ thì ngân hàng đó sẽ phải chịu 20% khoản lỗ ấy. - Giải pháp xử lý: Hầu hết nợ xấu của các ngân hàng chuyển sang TAMC quản lý xuất phát từ các doanh nghiệp bất động sản và sản xuất. Đối với các khoản vay có thế chấp không còn khả năng trả nợ, TAMC thực hiện tịch thu tài sản thế chấp và bán thanh lý để hoàn phần vốn vay dựa trên nguyên tắc chia sẻ lời-lỗ. Đối với các khoản vay mà TAMC nhận thấy còn khả năng trả nợ, TAMC đã chủ động phối hợp với các cơ quan đại diện cho các khu vực kinh tế để đưa ra các giải pháp khôi phục lại hoạt động sản xuất kinh doanh của các khu vực đó, tạo nguồn vốn trả nợ. Các giải pháp điển hình lần lượt được thực hiện khá toàn diện theo thứ tự ưu tiên như sau: + Đối với các khoản vay thuộc ngành bất động sản: TAMC đã phối hợp chặt chẽ với Cơ quan Nhà ở Quốc Gia (National Housing Authority) để chọn lọc các dự án còn nhiều tiềm năng và cơ quan này sẽ hỗ trợ phát triển và quản lý bán dự án; riêng vấn đề nguồn vốn đầu tư cho dự án, TAMC làm việc với hai TCTD là BankThai và Ngân hàng Tiết kiệm Chính phủ (Government Saving Bank) để cung cấp tài chính cho các dự án trên phát triển, hoàn thiện và bán ra thị trường trong thời gian ngắn nhất có thể. + Đối với các khoản nợ trong khu vực sản xuất: TAMC tập trung giải quyết vấn đề nợ xấu của 13 nhóm mục tiêu của Chính phủ, trong đó đặt trọng tâm vào các ngành thiết yếu phát triển kinh tế cũng như mang lại những cơ hội việc làm và giá trị kinh tế cao. Ưu tiên đầu tiên là ngành công nghiệp sắt thép. TAMC làm việc với Viện Sắt Thép Thái Lan (Iron and Steel Institute of Thailand) đưa ra các giải pháp phù hợp như hỗ trợ (tài chính, tư vấn kỹ thuật) để các doanh nghiệp trong tình trạng khó trả nợ sáp nhập với nhau để tăng quy mô, nguồn lực và phát triển sản xuất. + Đối với các doanh nghiệp vay nợ đang giao dịch trên Sàn Chứng khoán Thái Lan (Stock Exchange of Thailand – SET), TAMC phối hợp với SET để phát triển các kế hoạch tái cơ cấu và khôi phục lại giá trị cổ phiếu một số doanh nghiệp dẫn đầu ngành, qua đó sẽ có hiệu ứng tích cực cho các doanh nghiệp nhỏ hơn thuộc ngành đó. Trong khi AMC phân tán hầu như chỉ xử lý được nợ xấu với tỷ lệ rất nhỏ thì với AMC tập trung, tính đến tháng 6/2003, số nợ xấu được TAMC giải quyết là 784,4 tỷ Baht, đạt 73,46% tổng số nợ cần xử lý. Tỷ lệ nợ xấu của hệ thống ngân hàng Thái Lan giảm rõ rệt xuống 12,9% năm 2003, 10% năm 2004 và tiếp tục giảm dần ở mức ổn định qua các quý từ năm 2005 đến nay (xem Bảng 2). Bảng 2: Tỷ lệ nợ xấu (%/tổng dư nợ) của hệ thống ngân hàng Thái Lan (giai đoạn 2005 – 2011) Nguồn: Ngân hàng trung ương Thái Lan (BoT) Kinh nghiệm xử lý nợ xấu thông qua công ty quản lý tài sản AMC ở Thái Lan thực sự là một bài học hữu ích cho Việt Nam trong quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng,đặc biệt trong bối cảnh nợ xấu đang dần leo thang. * Đánh giá. Nhìn chung, các khoản nợ tại các quốc gia trong khu vực Đông Á thường có chung một đặc tính là được đảm bảo bằng bất động sản. Vì vậy, các điều luật về tịch biên tài sản không mang tính hiện thực cao (trong giai đoạn cuộc khủng hoảng tài chính khu vực xảy ra) đã cản trở ngân hàng tịch thu tài sản đảm bảo khi các khoản nợ không được trả đúng hạn. Thực tế quá trình giải quyết khủng hoảng nợ xấu diễn ra tại Indonesia cho thấy IBRA đã được quyền tịch biên tài sản của các chủ thể đi vay không hợp tác mà không cần đến các giấy tờ cần thiết từ phía toà án. Các AMC trong khu vực châu Á thường xuyên công bố tình hình hoạt động và kết quả hoạt động kinh doanh thông qua các bản báo cáo tháng, quý, trong đó nêu rõ các quy trình và phương pháp xử lý nợ xấu. Chính phủ các nước trong khu vực châu Á cũng đã thành lập các cơ quan chuyên trách theo dõi và đánh giá hiệu quả hoạt động của các AMC thông qua các tiêu chí như: Mức độ phục hồi của nợ xấu, số lượng và chất lượng các khoản vay được tái cấu trúc Hầu hết hoạt động của các AMC đều tạo ra các khoản lỗ, vì vậy việc chia sẻ thiệt hại phát sinh từ các hoạt động của AMC là điều rất đáng được quan tâm. Các AMC trong khu vực Đông Á đều được tài trợ từ các nguồn vốn của Chính phủ hoặc dưới các hình thức phát hành công cụ nợ của chính các AMC này. - Chính phủ Indonesia đã phát hành trái phiếu để hỗ trợ cho thanh khoản của ngân hàng Trung ương và chương trình đảm bảo an toàn cho người gửi tiền; tài trợ cho quá trình tái cấu trúc toàn bộ hệ thống ngân hàng cũng như việc mua lại nợ xấu của IBRA. Trong khi đó, tại Hàn Quốc, Thái Lan và Malaysia, tài trợ trực tiếp từ Chính phủ là không đáng kể, chỉ chiếm từ 0,4% đến 20% tổng nguồn vốn cần thiết. - Tại Trung Quốc, nguồn vốn được Chính phủ cung cấp không những chỉ chiếm khoảng 3% giá trị nợ xấu được chuyển giao mà chỉ một phần trong nguồn tài trợ này là tiền mặt, còn lại tồn tại dưới dạng nhà xưởng, vật dụng và các tài sản khác sở hữu bởi các ngân hàng trước đó. Phát hành trái phiếu AMC là phương pháp được Chính phủ các nước khu vực Đông Á sử dụng để tạo vốn cho các AMC. Tại Hàn Quốc và Thái Lan, trái phiếu AMC chiếm hơn 90% tổng nguồn tài trợ cho AMC; con số này vào khoảng 60% tại Trung Quốc và Malaysia. Sự hỗ trợ của Chính phủ trong việc nâng cao vai trò của AMC trong suốt quá trình giải quyết nợ xấu của toàn hệ thống luôn là công cụ hỗ trợ đắc lực cho việc đẩy nhanh tiến độ chuyển giao nợ xấu từ các ngân hàng sang các AMC. * Phương pháp định giá của AMC trong việc mua nợ xấu từ ngân hàng đóng vai trò cực kỳ quan trọng đối với tiến độ chuyển giao nợ xấu. Có 2 phương pháp định giá đã được các AMC trong khu vực Đông Á sử dụng: - Phương pháp 1: định giá theo giá trị sổ sách và định giá theo giá trị phù hợp. Phương pháp 2: Phần lớn AMC tại các quốc gia khác trong khu vực Đông Á áp dụng phương pháp định giá nợ xấu theo giá trị phù hợp. Tại Thái Lan, Hàn Quốc và Malaysia, giá mua trung bình dao động từ khoảng 1/3 đến 1/2 giá trị sổ sách của khoản nợ xẩu. Sau khi xác nhận mua và nhận chuyển giao nợ xấu từ các ngân hàng, nhiệm vụ còn lại của các AMC là tổ chức bán các khoản nợ xấu này tuỳ theo đặc điểm của từng danh mục nợ xấu, mục tiêu và nhiệm vụ của AMC trong từng thời kỳ hay các nhân tố khác mà kỹ thuật xử lý các khoản nợ xấu này được các AMC chọn lựa. * Tại các quốc gia trên thế giới, có nhiều loại mô hình công ty mua bán nợ: - Công ty do Nhà nước góp vốn hoặc công ty do tư nhân góp vốn. - Đối với các công ty mua bán nợ tư nhân, một số hoạt động độc lập, một số khác là công ty con của các ngân hàng hoặc đơn vị hoạt động trực thuộc ngân hàng. Các công ty xử lý nợ của Nhà nước thường hoạt động khá hiệu quả khi vấn đề nợ xấu mang tính hệ thống và khung pháp lý đối với việc xử lý nợ vẫn còn yếu. Chẳng hạn có những lúc trên thị trường, các khoản nợ xấu không có người mua thì công ty xử lý nợ của Nhà nước có thể là nơi tiêu thụ các khoản nợ xấu nói trên, và khi khung pháp lý cho việc xử lý nợ xấu chưa được “khỏe” thì công ty xử lý nợ của Nhà nước có thể giúp rút ngắn được quy trình xử lý nợ. Hơn nữa, việc Chính phủ mua lại các khoản nợ xấu của ngân hàng thông qua các công ty xử lý nợ của Nhà nước có thể tạo ra cơ hội cho Chính phủ áp đặt các điều kiện giúp các ngân hàng tái cấu trúc lại vấn đề tài chính và cơ cấu hoạt động của mình.