Giai đoạn tiền xử lý: Bằng phương pháp cơ học,
hoá học và hoá lý để loại bỏ các loại rác thô, chất rắn
lơ lửng (SS).ra khỏi nguồn nước. Ngoài ra, còn có
chức năng làm ổn định chất lượng nước thải như:
điều chỉnh pH, lưu lượng và tải lượng các chất gây
bẩn có trong nguồn thải.
5 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 1884 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xử lý nước thải, chất thải, khí thải, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
XỬ LÝ NƯỚC THẢI, CHẤT THẢI, KHÍ THẢI
Tóm tắt quy trình công nghệ xử lý nước thải:
Giai đoạn tiền xử lý: Bằng phương pháp cơ học,
hoá học và hoá lý để loại bỏ các loại rác thô, chất rắn
lơ lửng (SS)...ra khỏi nguồn nước. Ngoài ra, còn có
chức năng làm ổn định chất lượng nước thải như:
điều chỉnh pH, lưu lượng và tải lượng các chất gây
bẩn có trong nguồn thải.
Giai đoạn xử lý sinh học: Chủ yếu dùng các phương
pháp xử lý như: yếm khí, hiếu khí, thiếu khí để loại
bỏ các hợp chất hữu cơ tan có trong nguồn nước
nhằm làm giảm các chỉ số BOD, COD, T-N, Y-P...có
trong nguồn nước. Quá trình này sẽ hoạt động hiệu
quả khi các thành phần cơ chất (các hợp chất chứa
cacbon), dinh dưỡng (các hợp chất chứa nitơ và
photpho), nồng độ oxy hoà tan trong nước,...được bổ
sung hợp lý.
Giai đoạn xử lý hoàn thiện: Nhằm mục đích làm
ổn định chất lượng nước, khử trùng cho nguồn nước
trước khi xả ra môi trường. Giai đoạn này thường
dùng phương pháp hoá học để xử lý. Kết thúc quá
trình xử lý, nước đầu ra đảm bảo yêu cầu chất lượng
xả thải mà không làm ảnh hưởng tới môi trường.
Giai đoạn xử lý bùn: Sử dụng phương pháp cơ
học và hoá lý để xử lý nhằm giảm thiểu thể tích bùn
thải hay chuyển trạng thái bùn từ trạng thái lỏng sang
trạng thái rắn dùng cho các mục đích khác như xả bỏ
hay làm phân vi sinh.
BOD, COD LÀ GÌ?
DO là lượng oxy hoà tan trong nước cần thiết
cho sự hô hấp của các sinh vật nước (cá, lưỡng thê,
thuỷ sinh, côn trùng v.v...) thường được tạo ra do sự
hoà tan từ khí quyển hoặc do quang hợp của tảo.
Nồng độ DO trong nước nằm trong khoảng 8 - 10
ppm, và dao động mạnh phụ thuộc vào nhiệt độ, sự
phân huỷ hoá chất, sự quang hợp của tảo và v.v... Khi
nồng độ DO thấp, các loài sinh vật nước giảm hoạt
động hoặc bị chết. Do vậy, DO là một chỉ số quan
trọng để đánh giá sự ô nhiễm nước của các thuỷ vực.
BOD (Biochemical oxygen Demand- nhu cầu oxy
sinh hoá): lượng oxy cần thiết để vi sinh vật oxy hoá
các chất hữu cơ theo phản ứng:
Vi khuẩn:
Chất hữu cơ + O2 = CO2 + H2O + tế bào mới +
sản phẩm trung gian
Trong môi trường nước, khi quá trình oxy hoá
sinh học xảy ra thì các vi sinh vật sử dụng oxy hoà
tan, vì vậy xác định tổng lượng oxy hoà tan cần thiết
cho quá trình phân huỷ sinh học là phép đo quan
trọng đánh giá ảnh hưởng của một dòng thải đối với
nguồn nước. BOD có ý nghĩa biểu thị lượng các chất
thải hữu cơ trong nước có thể bị phân huỷ bằng các vi
sinh vật.
COD (Chemical Oxygen Demand - nhu cầu oxy
hóa học) là lượng oxy cần thiết để oxy hoá các hợp
chất hoá học trong nước bao gồm cả vô cơ và hữu cơ.
Như vậy, COD là lượng oxy cần để oxy hoá toàn bộ
các chất hoá học trong nước, trong khi đó BOD là
lượng oxy cần thiết để oxy hoá một phần các hợp
chất hữu cơ dễ phân huỷ bởi vi sinh vật.
Toàn bộ lượng oxy sử dụng cho các phản ứng
trên được lấy từ oxy hoà tan trong nước (DO). Do
vậy nhu cầu oxy hoá học và oxy sinh học cao sẽ làm
giảm nồng độ DO của nước, có hại cho sinh vật nước
và hệ sinh thái nước nói chung. Nước thải hữu cơ,
nước thải sinh hoạt và nước thải hoá chất là các tác
nhân tạo ra các giá trị BOD và COD cao của môi
trường nước.