Tóm tắt
Cách mạng công nghiệp 4.0 (CMCN 4.0) ngày nay đang tác động lan tỏa vào mọi ngõ ngách của
đời sống xã hội nhân loại, từng phút, từng giờ tác động mạnh mẽ đến hết thảy các lĩnh vực kinh tế - xã
hội trên toàn cầu. Hoạt động xuất bản trong nước với những đặc thù riêng có trong lĩnh vực văn hóa
tư tưởng cũng đang chịu một sức ép lớn từ CMCN 4.0 với những thay đổi không chỉ ở phạm vi, quy mô,
phương thức mà còn là sự thay đổi căn bản về tính chất hoạt động. CMCN 4.0 cũng đang đặt ra một số
yêu cầu cấp bách đối với công tác đào cán bộ xuất bản, phát hành hiện nay, đó cũng chính là nội dung
mà bài viết hướng tới.
10 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 266 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xuất bản với cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và công tác đào tạo cán bộ xuất bản, phát hành hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số 24 - Tháng 6 - 201898
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
XUẤT BẢN VỚI CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0
VÀ CÔNG TÁC ĐÀO TẠO
CÁN BỘ XUẤT BẢN, PHÁT HÀNH HIỆN NAY
ĐỖ THỊ QUYÊN
Tóm tắt
Cách mạng công nghiệp 4.0 (CMCN 4.0) ngày nay đang tác động lan tỏa vào mọi ngõ ngách của
đời sống xã hội nhân loại, từng phút, từng giờ tác động mạnh mẽ đến hết thảy các lĩnh vực kinh tế - xã
hội trên toàn cầu. Hoạt động xuất bản trong nước với những đặc thù riêng có trong lĩnh vực văn hóa
tư tưởng cũng đang chịu một sức ép lớn từ CMCN 4.0 với những thay đổi không chỉ ở phạm vi, quy mô,
phương thức mà còn là sự thay đổi căn bản về tính chất hoạt động. CMCN 4.0 cũng đang đặt ra một số
yêu cầu cấp bách đối với công tác đào cán bộ xuất bản, phát hành hiện nay, đó cũng chính là nội dung
mà bài viết hướng tới.
Từ khóa: Cách mạng công nghiệp 4.0, xuất bản, phát hành, đào tạo cán bộ
Abstract
The 4th industrial revolution (4th IR) is now squeezing into every corner of human society in every
minute, every hour, having a strong impact on all sectors of the socio-economic field at the global level.
Domestic publishing activities with specific characteristics in the cultural and ideological domain are
under a great pressure from 4th IR with movements not only happening in scope, scale, method but also
in the base of the operation nature. 4th IR also shows some urgent requirements for personnel training
in the publishing field, which is the content that the article is aimed at.
Keywords: Industrial Revolution 4.0, publication, release, staff Training
CMCN 4.0 với những thành tựu của công
nghệ nền tảng và công nghệ ứng dụng đã và
đang có những tác động lớn trên phạm vi toàn
cầu. Những thay đổi mang tính đột phá có sức
lan tỏa toàn cầu diễn ra với tốc độ chóng mặt
làm chao đảo phương thức hoạt động truyền
thống của đại đa số các ngành nghề/lĩnh vực
kinh tế, văn hóa và xã hội. Sự xuất hiện của
Uber, Grap trên thị trường dịch vụ vận tải đã
làm cho ngành vận chuyển hành khách và taxi
truyền thống trở nên khốn khó, có nguy cơ phá
sản. Facebook, mạng xã hội lan tỏa mọi nơi,
mọi lúc từ thành phố đến nông thôn, từ đồng
bằng đến miền núi, không phân biệt lãnh thổ,
khu vực, biên giới quốc gia đã làm cho ngành
báo chí truyền thống vốn đầy sức mạnh truyền
thông có lúc cũng trở tay không kịp.
Các ngành nghề trong lĩnh vực Văn hóa, Thể
thao và Du lịch cũng không phải là ngoại lệ,
đang chịu sự tác động sâu sắc của cuộc CMCN
4.0 không đơn thuần chỉ là số lượng, phạm vi,
quy mô, phương thức mà còn là sự thay đổi
căn bản về tính chất hoạt động. Không loại trừ
lĩnh vực văn hóa tư tưởng và yếu tố đặc thù,
CMCN 4.0 như một cuộc cách mạng lan tỏa và
kết nối, không giới hạn đối tượng, phạm vi ảnh
hưởng và tốc độ tác động đối với các ngành
công nghiệp văn hóa hiện nay. Sự bùng nổ và
phát triển mạnh cả về phạm vi, qui mô và tính
chất hoạt động của các ngành Công nghiệp
văn hóa ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
đã cho thấy sự tác động và ảnh hưởng sâu sắc
của cuộc CMCN 4.01.
Số 24 - Tháng 6 - 2018 99
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
TRAO ĐỔI
1. Hoạt động xuất bản và tác động của
CMCN 4.0
Xuất bản phẩm là dạng sản phẩm văn hóa
tinh thần có những đặc tính riêng2. Sự khác
biệt ở chỗ xuất bản phẩm vừa là sản phẩm
văn hóa tinh thần, vừa là sản phẩm vật chất.
Tuy nhiên, giá trị nội dung tư tưởng của xuất
bản phẩm là giá trị cốt lõi, xuyên suốt; giá trị
vật chất chỉ là vỏ bề ngoài bao bọc để chuyển
tải giá trị nội dung của sản phẩm. Giá trị vật
chất bên ngoài có ý nghĩa làm tăng hàm lượng
giá trị bên trong của xuất bản phẩm nhờ có
sự hỗ trợ tích cực của khoa học, kỹ thuật và
công nghệ (đối với xuất bản phẩm in trên giấy
truyền thống). Nhờ có công nghệ nền tảng và
công nghệ ứng dụng hiện nay, xuất bản phẩm
có những tính năng khác biệt và nổi trội hơn
hẳn các sản phẩm vật chất thông thường khác,
xuất bản phẩm có thể được sản xuất, phổ biến
và tiêu dùng cùng lúc/trực tiếp dựa trên những
nền tảng công nghệ và môi trường internet.
Chúng có thể thỏa mãn nhu cầu thụ hưởng tại
chỗ và tức thì của công chúng. Dựa trên nền
tảng công nghệ và internetkết nối vạn vật, tác
giả có thể trực tiếp sáng tạo và đưa xuất bản
phẩm đến công chúng, nhà xuất bản, công
ty sách có thể trực tiếp chuyển các xuất bản
phẩm đến khách hàng Đó là đặc tính gần
như là duy nhất của xuất bản phẩm mà các
sản phẩm khác hầu hết không có. Các rào cản
về thời gian và khoảng cách địa lý trong việc
sản xuất và thụ hưởng xuất bản phẩm giờ đây
trở nên bị vô hiệu hóa, thậm chí cả rào cản về
ngôn ngữ cũng không còn là thách thức quá
lớn đối với nhân loại với sự hỗ trợ của công cụ
dịch tự động vô cùng tiện ích.
Xuất bản là hoạt động đặc thù trong lĩnh
vực văn hóa tư tưởng. Điều 1 Luật Xuất bản quy
định: “Hoạt động xuất bản bao gồm các lĩnh vực
xuất bản, in và phát hành xuất bản phẩm”. Như
vậy, xuất bản là một hoạt động văn hóa. “Hoạt
động xuất bản thuộc lĩnh vực văn hóa, tư tưởng
nhằm phổ biến, giới thiệu tri thức thuộc các lĩnh
vực của đời sống xã hội, giá trị văn hóa dân tộc
và tinh hoa văn hóa nhân loại, đáp ứng nhu cầu
đời sống tinh thần của nhân dân, nâng cao dân
trí, xây dựng đạo đức và lối sống tốt đẹp của
người Việt Nam, mở rộng giao lưu văn hóa với
các nước, phát triển kinh tế - xã hội, đấu tranh
chống mọi tư tưởng và hành vi làm tổn hại lợi ích
quốc gia, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.3. Xuất
bản còn là một hoạt động truyền thông với các
công cụ truyền thông đa chiều vô cùng tiện
ích (bao gồm tính năng của loại hình xuất bản
phẩm truyền thống in trên giấy và loại hình
xuất bản phẩmđiện tử); Xuất bản đồng thời là
hoạt động kinh tế - tạo ra hiệu quả kinh tế từ
việc xuất bản, phát hành và phổ biến tri thức
thông qua các xuất bản phẩm trong xã hội. Dù
ở phương diện nào, hoạt động xuất bản đều
hướng tới mục đích thỏa mãn tốt nhu cầu xuất
bản phẩm cho nhân dân cả nước, xây dựng và
phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp
ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước
theo đúng tinh thần của Nghị quyết số 33-NQ/
TW ngày 9 tháng 6 năm 2014 của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa XI.
Điểm khác biệt của hoạt động xuất bản
với các hoạt động sản xuất kinh doanh hàng
hóa thông thường chính là quy trình sản xuất,
phổ biến (lưu thông/trao đổi, mua bán) và tiêu
dùng/thụ hưởng xuất bản phẩm có thể diễn ra
trực tiếp, đồng thời cùng lúc dựa trên nền tảng
công nghệ và môi trường internet. Các nhà
xuất bản, các công ty, nhà sách ngày nay có
thể xuất bản và bán trực tiếp xuất bản phẩm
cho công chúng theo số lượng đơn hàng yêu
cầu (có thể mỗi lần chỉ 01 bản hoặc nhiều bản),
công chúng cũng có thể đặt đơn hàng và nhận
ngay sản phẩm sau khi đặt hàng và thanh
toán (download bản mềm cuốn sách xuống
máy tính/ thiết bị điện tử cá nhân). Bỏ qua các
công đoạn in chế bản truyền thống phức tạp,
chiếm nhiều thời gian, tốn kém nguồn lực vật
chất và công sức người lao động, sách điện tử
ra đời không những góp phần làm trong sạch
môi trường, bảo vệ sức khỏe mà còn đảm bảo
tính tiện ích trong thỏa mãn nhu cầu về sách
và phát triển tri thức của con người. Người sử
dụng/thụ hưởng xuất bản phẩm không mất
chi phí thời gian vật chất, phương tiện và sự rủi
ro đi lại để đến các nhà sách, trung tâm sách
truyền thống tìm mua, thỏa mãn nhu cầu
Nhìn từ góc độ kỹ thuật, việc xuất bản, phát
hành điện tử và tiêu dùng/thụ hưởng trực tiếp
các xuất bản phẩm phù hợp tuyệt đối với công
nghệ trong môi trường internet kết nối vạn vật.
Số 24 - Tháng 6 - 2018100
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
Hoạt động xuất bản có thể giúp công chúng
thực hiện việc mua bán, thanh toán, nhận xuất
bản phẩm (sở hữu) và thụ hưởng tại chỗ đúng
nghĩa. Tuy nhiên ở góc độ quản lý, việc bảo hộ
bản quyền sách vẫn còn đang là một thách
thức lớn đối với công tác quản lý nhà nước, đòi
hỏi những giải pháp tháo gỡ kịp thời của các
cơ quan quản lý chức năng. Công nghệ xuất
bản, công nghệ kinh doanh phát triển đòi hỏi
công nghệ và năng lực quản lý, điều hành phải
thay đổi và phát triển phù hợp.
Đối với hoạt động xuất bản, tác động của
CMCN 4.0 đã và đang tạo ra những thay đổi
lớn mang tính đột phá, những khác biệt căn
bản trong hoạt động của các nhà xuất bản,
các đơn vị phát hành hiện nay. CMCN 4.0 tạo
nên những nền tảng căn bản cho quá trình
phát triển của xuất bản truyền thống sang
xuất bản hiện đại: Công nghệ in trên giấy sang
công nghệ xuất bản điện tử, xu hướng xuất bản
trực tiếp trong môi trường internet, phương thức
kinh doanh truyền thống sang phương thức kinh
doanh trực tuyến, từ hoạt động tạo nội dung và
phân phối nội dung sang hoạt động tạo ra các
dịch vụ nội dung trên phạm vi toàn cầu; Các giao
dịch mua bán, chuyển nhượng sách và bản
quyền trên toàn cầu ít bị giới hạn bởi bất cứ
yếu tố khách quan, chủ quan; rút ngắn khoảng
cách và thời gian tạo ra tác phẩm, gắn kết tác
giả với bạn đọc, tác phẩm đến thị trường
Ngành công nghệ xuất bản hiện nay xuất
hiện và song hành tồn tại 3 mô hình đặc trưng
như:
Mô hình truyền thống tập trung vào công
nghệ in ấn và tạo ra tác phẩm in truyền thống/
sách giấy trên thị trường đáp ứng nhu cầu mua
và sử dụng truyền thống của người đọc. Đây
là mô hình hoạt động khá phổ biến từ trước
cho đến thời điểm hiện tại ở Việt Nam với hệ
thống trên 60 nhà xuất bản, gần 1500 cơ sở
in và 15000 công ty, nhà sách lớn nhỏ, phủ
khắp trên cả nước. Các đầu sách đa dạng về
hình dáng, kích thước, màu sắc có mặt trên
thị trường được bày bán đa dạng phong phú
trong các nhà sách/trung tâm phát hành sách
truyền thống phủ khắp các tỉnh thành phố
trên phạm vi toàn quốc. Mô hình này còn bao
gồm cả các gian trưng bày, giới thiệu và tiêu
thụ sách giấy trên các Website bán hàng hoặc
sử dụng các trang mạng xã hội để giới thiệu và
bán sách của nhà xuất bản, công ty/nhà sách
cũng khá hiệu quả.
Mô hình kết hợp giữa các phương tiện truyền
thông nhằm tạo nội dung và phân phối nội
dung trên các kênh, mạng lưới truyền thông; sử
dụng hiệu quả mạng xã hội. Chuỗi quá trình
từ ý tưởng sáng tạo đến tiếp thị, phân phối,
khách hàng luôn luôn có thể được thích nghi
với các công nghệ mới và môi trường kinh
doanh. Tất cả những người tham gia trong
chuỗi giá trị phải được tham gia thông qua
cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin, dựa trên
nền tảng Internet. Người sử dụng phương tiện
truyền thông cũng có thể trao đổi ý tưởng cho
mọi người, không chỉ chia sẻ các kênh truyền
thông xã hội mà còn có thể biên soạn hoặc
thậm chí tạo ra các sản phẩm truyền thông
của riêng mình trên nền tảng nội dung có sẵn.
Các nhà xuất bản cần xây dựng chiến lược sản
phẩm và tạo ra các dịch vụ hướng tới nhu cầu
đa dạng của khách hàng, thu thập thông tin
để quản lý tốt sản phẩm sáng tạo.
Mô hình tạo ra các dịch vụ nội dung dựa trên
nền tảng và khách hàng (cung cấp dịch vụ nội
dung để tạo ra các tác phẩm phái sinh như tác
phẩm điện ảnh, kịch, trò chơi, chương trình
truyền hình, giải trí). Mô hình này, trên thế
giới hiện nay phát triển rất mạnh, song ở Việt
Nam chưa có nhiều. Trên thực tế đã có một số
ít tác phẩm văn học (truyện, tiểu thuyết) được
chuyển thể sang dạng kịch sân khấu, truyền
hình hoặc phim điện ảnh như phim Sóng ở đáy
sông được chuyển thể từ tiểu thuyết Sóng ở
đáy sông của nhà văn Lê Lựu; phim Vợ chồng A
Phủ được chuyển thể từ tác phẩm cùng tên hay
nhất trong tập Truyện Tây Bắc của nhà văn Tô
Hoài; Mẹ vắng nhà được chuyển thể từ truyện
ngắn nổi tiếng của nhà văn Nguyễn Thi có tên
Người mẹ cầm súng; Bộ phim Chị Dậu được
chuyển thể từ cuốn tiểu thuyết Tắt đèn của nhà
văn Ngô Tất Tố; Bộ phim Làng Vũ Đại ngày ấy
thể hiện trung thành nguyên tác ba tác phẩm
văn học nổi tiếng của nhà văn Nam Cao như
Chí Phèo, Lão Hạc và Trăng sáng; Bộ phim Bến
không chồng được chuyển thể từ tiểu thuyết
cùng tên của nhà văn Dương Hướng; bộ phim
Thời xa vắng được chuyển thể từ cuốn tiểu
thuyết Thời xa vắng của nhà văn Lê Lựu; Đừng
Số 24 - Tháng 6 - 2018 101
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
TRAO ĐỔI
đốt của biên kịch và đạo diễn NSND Đặng
Nhật Minh được chuyển thể từ cuốn nhật ký
bán chạy nhất năm 2006 của liệt sĩ Đặng Thùy
Trâm; Tuổi thơ dữ dội của tác giả Phùng Quán
được biên kịch và đạo diễn bởi NSƯT Nguyễn
Vinh Sơn; bộ phim Mùa len trâu (Biên kịch và
đạo diễn: Nguyễn Võ Nghiêm Minh) được xây
dựng dựa trên hai truyện Một cuộc đời bể dâu
và Mùa len trâu trong tập Hương rừng Cà Mau
của nhà văn Sơn Nam,
Trọng tâm của mô hình này là tăng sự sử
dụng của khách hàng bằng các dịch vụ nội
dung ngày càng tăng (thay vì các sản phẩm và
số lượng bản in hoặc phiên bản điện tử xuất
bản phẩm) và tăng cường kết nối với khách
hàng và đối tác. Các Hội chợ sách trong nước
và quốc tế ngày càng được tổ chức thường
xuyên, tạo điều kiện cho các tập đoàn xuất
bản, in, phát hành ngoài nước, các đơn vị trong
nước như nhà xuất bản, cơ sở in, công ty, nhà
sách có điều kiện quảng bá, giới thiệu, trao
đổi mua bán sách, bản quyền sách, thúc đẩy
các dịch vụ nội dung sách phát triển mang lại
những giá trị/chuỗi giá trị mới trong các ngành
công nghiệp văn hóa và văn minh tiêu dùng
văn hóa hiện nay.
Dựa trên nền tảng và phát triển của khoa
học, kỹ thuật và công nghệ, công nghệ xuất
bản và công nghệ kinh doanh có sự chuyển
biến về mô hình và quy trình xuất bản, sự xuất
hiện sách điện tử và các thiết bị đọc sách điện
tử, phương thức xuất bản mới, sử dụng kênh
truyền thông đa phương tiện, công nghệ quản
lý, quản trị nhà xuất bản, quản trị mạng lưới
bán hàng Nhu cầu thị hiếu và sự thỏa mãn
nhu cầu về sản phẩm và dịch vụ bán hàng của
nhà xuất bản, các doanh nghiệp kinh doanh
xuất bản phẩm trên thị trường thay đổi, đòi hỏi
các quy trình tác nghiệp phải thay đổi cho phù
hợp, không chỉ đòi hỏi sự thay đổi của các quy
trình hoạt động trong môi trường internet mà
ngay cả các quy trình tác nghiệp truyền thống
cũng đòi hỏi thay đổi để kịp thời thích ứng với
tình hình và bối cảnh mới.
CMCN 4.0 đã tác động trực tiếp đến nguồn
nhân lực của hoạt động xuất bản hiện nay.
Những yêu cầu cơ bản đối với đội ngũ cán bộ
quản lý và làm nghề chính là năng lực chuyên
môn, bên cạnh sự đòi hỏi cao về năng lực
ngoại ngữ và tin học để có thể tiếp cận và ứng
dụng công nghệ thông tin trong hoạt động
quản lý và chuyên môn tương ứng với các vị
trí việc làm trong các nhà xuất bản, các doanh
nghiệp phát hành. Việc tách bạch khâu in (vốn
được coi đơn thuần là khâu công nghệ, kỹ
thuật) như lâu nay cũng cần phải nhìn nhận
thấu đáo, khi mà hoạt động xuất bản trong bối
cảnh CMCN 4.0 với các nền tảng Dữ liệu lớn,
Internet kết nối vạn vật thì xuất bản trực tiếp
sẽ là một tất yếu khách quan. Từ đó công nghệ
quản lý từ quản lý nhà nước đến quản trị nhà
xuất bản và quản trị doanh nghiệp phát hành
cũng phải thay đổi. Nhân lực điều hành và trực
tiếp thực hiện các công việc trên cần được đào
tạo mới, đào tạo lại nhằm trang bị những kiến
thức và kỹ năng cần thiết đáp ứng các yêu cầu
của hoạt động thực tiễn đặt ra.
2. Yêu cầu đối với công tác đào tạo cán bộ
xuất bản, phát hành hiện nay
Đối với công tác đào tạo - khâu then chốt
quyết định chất lượng nguồn nhân lực đáp
ứng nhu cầu tuyển dụng của ngành và xã hội
trong bối cảnh CMCN 4.0, cần có sự đổi mới
mạnh mẽ:
- Thứ nhất, cập nhật điều chỉnh, bổ sung mục
tiêu, nội dung chương trình đào tạo phù hợp với
những thay đổi và phát triển của các cơ quan,
tổ chức, doanh nghiệp xuất bản, phát hành
trong hoạt động thực tiễn và xu hướng phát
triển chung của ngành công nghiệp xuất bản
thế giới.
+ Xây dựng nội dung, mục tiêu chương
trình đào tạo phải gắn với chuẩn đầu ra và
vị trí việc làm của nhà tuyển dụng. Một mặt,
bổ sung những môn học/học phần mới vào
chương trình đào tạo, thay thế cho những
môn học/nghiệp vụ cũ, lạc hậu không còn đáp
ứng trong thực tiễn công tác. Mặt khác, trong
từng môn học/học phần cụ thể của chương
trình đào tạo cần thường xuyên cập nhật, bổ
sung kiến thức, kỹ năng mới cho phù hợp với
sự phát triển của thực tiễn xuất bản.
+ Trong chương trình đào tạo cần chú trọng
chương trình thực tập nghề nghiệp cho sinh
viên. Xây dựng nội dung, yêu cầu của chương
trình thực tập đảm bảo tính khoa học, phù hợp
gắn kết mục tiêu đào tạo của nhà trường với
Số 24 - Tháng 6 - 2018102
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
mục tiêu tuyển dụng của doanh nghiệp; đảm
bảo thời lượng của chương trình thực tập, để
người học có đủ thời gian học/thực hành thực
tế công việc chuyên môn; thao tác, rèn luyện,
bồi dưỡng kỹ năng nghiệp vụ chuyên môn
trong thực tiễn.
+ Đối với các môn học/học phần trong
chương trình đào tạo, khi thiết kế đề cương/
bài giảng hoặc giáo trình cần hướng tới mục
tiêu đào tạo nghề, tăng cường khả năng làm
nghề của người học; Tăng cường thời lượng
thảo luận, bài tập tình huống trên lớp, bài tập
thực hành trực tiếp tại cửa hàng, doanh nghiệp
của các môn học trong chương trình đào tạo.
+ Trong những điều kiện nhất định, xây
dựng/thiết kế chương trình đào tạo cần tham
khảo và dựa trên một số khung chương trình
đào tạo chuẩn quốc tế cùng lĩnh vực nhằm
tạo sự đồng bộ về yêu cầu kiến thức kỹ năng,
loại hình cán bộ, vị trí việc làm của các chương
trình đào tạo; cơ hội tuyển dụng của doanh
nghiệp và việc làm của người học sau khi ra
trường trên thị trường tuyển dụng lao động
trong và ngoài nước.
- Thứ hai, phương pháp giảng dạy và đánh
giá năng lực sinh viên cần được chú trọng trong
từng môn học đến tổng thể chương trình đào
tạo. Các hoạt động đào tạo tập trung theo
hướng đào tạo ứng dụng, đào tạo kỹ năng
làm nghề, thao tác nghề nghiệp bên cạnh việc
người học được tiếp cận hệ thống cơ sở lý luận
nghiệp vụ của ngành đào tạo. Gắn kết hoạt
động đào tạo và nghiên cứu khoa học của nhà
trường với doanh nghiệp - nơi sử dụng nguồn
nhân lực được đào tạo của nhà trường. Thu
hút sự tham gia và cống hiến của đội ngũ các
nhà khoa học, các chuyên gia trong lĩnh vực
nhằm nâng cao chất lượng hoạt động đào
tạo và chuyển giao kết quả nghiên cứu khoa
học ứng dụng trong hoạt động của nhà xuất
bản, các đơn vị phát hành; Đối với thời lượng
thực hành, xử lý tình huống thực tế trong mỗi
môn học/học phần trong chương trình đào
tạo cần tranh thủ sự tham gia đào tạo của các
nhà chuyên môn, các doanh nghiệp trực tiếp
tổ chức hoạt động chuyên môn nghiệp vụ, kết
quả học tập của người học sẽ hiệu quả hơn rất
nhiều.
- Thứ ba, phối kết hợp chặt chẽ với các tổ chức
chính trị, đoàn thể như Đoàn thanh niên, Hội
sinh viên, Câu lạc bộ định hướng nghề nghiệp,
Câu lạc bộ truyền thông của nhà trường tổ
chức các hoạt động định hướng nghề nghiệp,
bồi dưỡng tăng cường kỹ năng mềm giúp
sinh viên có nhận thức đầy đủ và định hướng
nghề nghiệp rõ ràng trong quá trình học tập
và rèn luyện ở trường. Mặt khác sinh viên có
khả năng tự xây dựng kế hoạch, lộ trình, chủ
động thời gian học tập và tốt nghiệp ra trường
cũng như khả năng tự định lượng và trau dồi
những kiến thức kỹ năng cơ bản, cần thiết của
ngành đào tạo, không bỡ ngỡ, lúng túng với
công việc thực tế sau khi tốt nghiệp.
- Thứ tư, một trong những yêu cầu của công
tác đào tạo trong bối cảnh CMCN 4.0 hiện nay,
đồng thời là yếu tố mang tính điều kiện then
chốt cho sự thành công của công tác đào tạo
chính là đội ngũ cán bộ quản lý giỏi và giảng
viên trình độ cao. Họ là trung tâm có tính quyết
định mọi hoạt động của nhà trường (từ việc
xây dựng chương trình đào tạo, xác định đúng
mục tiêu đào tạo, thiết kế nội dung chương
trình đào tạo sát hợp với thực tiễn nhu cầu vị
trí việc làm xã hội cần) Trong đó, vai trò của
người thầy vô cùng quan trọng, thầy phải là
tấm gương sáng về đạo đức, lối sống và năng
lực chuyên môn cho người học. Giảng viên
phải luôn có ý thức tự học hỏi, trao dồi và cập
nhật kiến thức, nâng