Phương thức thay thế thức ăn chế biến trong ương cá lóc đen (channa striata)

Cá lóc đen (Channa striata) là loài cá dữ, ăn thịt, phân bố tự nhiên trên sông, kênh, rạch, đồng ruộng Ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) cá lóc đen có thể nuôi thâm canh trong ao và bè đều đạt năng suất cao. Ngoài tự nhiên cá lóc đen ăn các động vật sống như cá, tép, nhái nhưng khi nuôi trong ao và bè chúng có thể sử dụng được các loại thức ăn như tấm, cám, thức ăn viên, cá tạp Hiện nay, cá lóc đen chủ yếu được nuôi bằng thức ăn tươi sống (cá tạp nguyên con hay xay nhỏ). Trong những năm gần đây, nghề nuôi cá nước ngọt, đặc biệt là các loài cá dữ, chất lượng thịt ngon đang phát triển mạnh đã làm gia tăng đáng kể nhu cầu cá tạp. Năm 2008 riêng tỉnh An Giang lượng cá tạp sử dụng trong nuôi cá lóc đã là 67.056 tấn, có 38 loài cá nước ngọt được sử dụng, trong đó hơn 50% là các loài cá kinh tế (Phan Hồng Cương, 2009). Việc sử dụng chủ yếu cá tạp trong nuôi cá lóc dẫn đến việc phụ thuộc của nghề nuôi vào nguồn cá tạp, chất lượng cá tạp, giá cá tạp cung cấp. Ở Việt Nam, cá lóc nói chung và cá lóc đen nói riêng khi nuôi trong ao bè đều có khả năng sử dụng thức ăn chế biến. Trong nghiên cứu cũng như ngoài thực tế, việc chuyển từ thức ăn tươi sống sang thức ăn nhân tạo được thực hiện càng sớm càng tốt nếu nó không ảnh hưởng đến tỉ lệ sống và tăng trưởng của cá bột. Nếu cá sử dụng tốt thức ăn nhân tạo thì sẽ hạn chế được bệnh lây nhiễm qua thức ăn tự nhiên, giảm chi phí và chủ động được nguồn thức ăn trong ương nuôi (Nguyễn Văn Triều và ctv., 2008). Tuy nhiên thời điểm và phương thức tập ăn thức ăn chế biến của cá bột cũng khác nhau tuỳ theo loài. Do vậy mục tiêu của nghiên cứu này là tìm thời điểm và phương thức thích hợp khi chuyển đổi từ thức ăn tươi sống sang thức ăn chế biến cho cá lóc đen bột nhằm góp phần hạn chế việc sử dụng cá tạp trong ương nuôi cá lóc đen.

pdf15 trang | Chia sẻ: hoang10 | Lượt xem: 477 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phương thức thay thế thức ăn chế biến trong ương cá lóc đen (channa striata), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHƯƠNG THỨC THAY THẾ THỨC ĂN CHẾ BIẾN TRONG ƯƠNG CÁ LÓC ĐEN (Channa striata) Kỷ yếu Hội nghị khoa học thủy sản lần 4: 381-394 Trường Đại học Cần Thơ 381 PHƯƠNG THỨC THAY THẾ THỨC ĂN CHẾ BIẾN TRONG ƯƠNG CÁ LÓC ĐEN (Channa striata) Trần Thị Thanh Hiền1, Ngô Minh Dung1, Bùi Minh Tâm1 ABSTRACT Study on artificial food weaning for snakehead murrel (Channa striata) larvae was conducted with 2 experiments. The first experiment was set up to determine the period of time and methods for effectively weaning artificial food in rearing snakehead murrel larvae. The experiment was set up with 7 diet treatments. In the control treatment using live food (Moina and trash fish). In the other diet treatments differed from the time weaning artificial food (10, 17 and 24 after hatching day) and weaning methods (10% or 20% amount of artificial food increase per day). After 5 weeks, the results showed that the best survival and specific growth rate of fry fish were achieved for those weaned artificial food at 17 after hatching day with the replacing method which increased 10% amount of artificial food per day (64,7% and 8,89%/day). The second experiment included 4 diet treatments. The control treatment, fish was fed feed without attractant supplementation. The treatments (2, 3 and 4) were fed diets adding 2% fish protein hydrolysate, 2% squid liver oil or 2% earthworm liquid, respectively. Results after 4 weeks experiment showed that fish protein hydrolysate supplied as attractants had significantly higher survival rate (79,3%) and specific growth rate (8,89%/ngày) compared to the other diet treatments. Keywords: Channa striata, artificial food, attractant Title: Weaning methods for artificial food in rearing snakehead murrel (Channa striata) larvae TÓM TẮT Nghiên cứu về phương thức tập ăn thức ăn thức ăn chế biến trong ương cá lóc đen được thực hiện ở 2 thí nghiệm. Thí nghiệm thứ nhất nhằm xác định thời điểm và phương thức thay thế hiệu quả thức ăn chế biến của cá lóc đen bột gồm 7 nghiệm thức (3 lần lặp lại). Nghiệm thức đối chứng sử dụng hoàn toàn thức ăn tự nhiên. Các nghiệm thức còn lại khác nhau về thời gian bắt đầu tập ăn thức ăn chế biến (10, 17 và 24 ngày tuổi) và phương thức tập ăn (tăng dần 10% hoặc 20% thức ăn chế biến/ngày). Kết quả cho thấy, sau 5 tuần thí nghiệm, tỉ lệ sống và tăng trưởng của cá đạt tốt nhất khi tập ăn thức ăn chế biến ở 17 ngày tuổi với phương thức thay thế 10% thức ăn chế biến/ngày 1 Khoa Thủy sản, Đại học Cần Thơ Kỷ yếu Hội nghị khoa học thủy sản lần 4: 381-394 Trường Đại học Cần Thơ 382 (64,7% và 9,64%/ngày). Thí nghiệm 2, các nghiệm thức thức ăn có bổ sung các chất dẫn dụ khác nhau nhằm so sánh ảnh hưởng của các chất dẫn dụ khác nhau lên hiệu quả sử dụng thức ăn chế biến của cá bột. Thí nghiệm gồm 4 nghiệm thức. Nghiệm thức đối chứng không bổ sung chất dẫn dụ, các nghiệm thức còn lại lần lượt được bổ sung 2% dịch cá thủy phân, 2% dầu gan mực hoặc 2% dịch trùn quế. Kết quả sau 4 tuần thí nghiệm cho thấy dịch cá thuỷ phân là chất dẫn dụ kích thích bắt mồi hiệu quả nhất, cho tỉ lệ sống (79,3%) và tăng trưởng (8,89%/ngày) cao nhất. Từ khóa: cá lóc đen, thức ăn chế biến, chất dẫn dụ 1 GIỚI THIỆU Cá lóc đen (Channa striata) là loài cá dữ, ăn thịt, phân bố tự nhiên trên sông, kênh, rạch, đồng ruộng Ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) cá lóc đen có thể nuôi thâm canh trong ao và bè đều đạt năng suất cao. Ngoài tự nhiên cá lóc đen ăn các động vật sống như cá, tép, nhái nhưng khi nuôi trong ao và bè chúng có thể sử dụng được các loại thức ăn như tấm, cám, thức ăn viên, cá tạp Hiện nay, cá lóc đen chủ yếu được nuôi bằng thức ăn tươi sống (cá tạp nguyên con hay xay nhỏ). Trong những năm gần đây, nghề nuôi cá nước ngọt, đặc biệt là các loài cá dữ, chất lượng thịt ngon đang phát triển mạnh đã làm gia tăng đáng kể nhu cầu cá tạp. Năm 2008 riêng tỉnh An Giang lượng cá tạp sử dụng trong nuôi cá lóc đã là 67.056 tấn, có 38 loài cá nước ngọt được sử dụng, trong đó hơn 50% là các loài cá kinh tế (Phan Hồng Cương, 2009). Việc sử dụng chủ yếu cá tạp trong nuôi cá lóc dẫn đến việc phụ thuộc của nghề nuôi vào nguồn cá tạp, chất lượng cá tạp, giá cá tạp cung cấp. Ở Việt Nam, cá lóc nói chung và cá lóc đen nói riêng khi nuôi trong ao bè đều có khả năng sử dụng thức ăn chế biến. Trong nghiên cứu cũng như ngoài thực tế, việc chuyển từ thức ăn tươi sống sang thức ăn nhân tạo được thực hiện càng sớm càng tốt nếu nó không ảnh hưởng đến tỉ lệ sống và tăng trưởng của cá bột. Nếu cá sử dụng tốt thức ăn nhân tạo thì sẽ hạn chế được bệnh lây nhiễm qua thức ăn tự nhiên, giảm chi phí và chủ động được nguồn thức ăn trong ương nuôi (Nguyễn Văn Triều và ctv., 2008). Tuy nhiên thời điểm và phương thức tập ăn thức ăn chế biến của cá bột cũng khác nhau tuỳ theo loài. Do vậy mục tiêu của nghiên cứu này là tìm thời điểm và phương thức thích hợp khi chuyển đổi từ thức ăn tươi sống sang thức ăn chế biến cho cá lóc đen bột nhằm góp phần hạn chế việc sử dụng cá tạp trong ương nuôi cá lóc đen. 2 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Nghiên cứu phương thức tập ăn thức ăn chế biến cho cá lóc bột được tiến hành tại trai thực nghiệm – Khoa Thủy sản, trường Đại học Cần Thơ. Nghiên cứu được thực hiện với 2 thí nghiệm được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên trong bể composit thể tích 100 lít/bể, mật độ 100 con/bể. Kỷ yếu Hội nghị khoa học thủy sản lần 4: 381-394 Trường Đại học Cần Thơ 383 2.1 Thí nghiệm 1: Xác định thời điểm và phương thức thay thế hiệu quả thức ăn chế biến của cá lóc đen giai đoạn bột Nghiên cứu được thực hiện trên cá lóc đen bột 10 ngày tuổi. Thời gian thí nghiệm là 5 tuần. Gồm 7 nghiệm thức (3 lần lặp lại): nghiệm thức đối chứng cho ăn hoàn toàn thức ăn tươi sống (Moina và cá tạp); Các nghiệm thức còn lại khác nhau về thời gian bắt đầu cho ăn thức ăn chế biến (10, 17 và 24 ngày tuổi) và phương thức tập ăn (thay thế tăng dần Moina (cá tạp) bằng thức ăn chế biến, tỉ lệ 10% hoặc 20% TACB/ngày). Các nghiệm thức chưa đến thời điểm cho ăn thức ăn chế biến sẽ được cho ăn như nghiệm thức đối chứng. Thức ăn chế biến có hàm lượng protein là 50%, lipid 12% được phới chế từ các nguồn nguyên liệu tinh như: bột cá, bột đậu nành, cám, bột mì và các chất bổ sung khác, được phối chế thành viên mảnh 0,1-0,2 mm Ghi chú: Hình 1: Thời điểm và phương thức tập ăn của các nghiệm thức trong thí nghiệm 1 2.2 Thí nghiệm 2: Nghiên cứu ảnh hưởng của các chất dẫn dụ khác nhau lên hiệu quả sử dụng thức ăn chế biến của cá lóc đen giai đoạn bột Cá bột được tập ăn thức ăn chế biến ở thời điểm thích hợp và phương thức hiệu quả nhất (kết quả của thí nghiệm 1) với các nghiệm thức thức ăn chế biến có bổ Ngày tuổi 5 10 17 24 31 38 45 10 ngày tuổi 10% TĂCB/ngày 10 ngày tuổi 20% TĂCB/ngày 17 ngày tuổi 10% TĂCB/ngày 17 ngày tuổi 20% TĂCB/ngày 24 ngày tuổi 10% TĂCB/ngày 24 ngày tuổi 20% TĂCB/ngày Đối chứng N gh iệ m th ứ c Moina Cá tạp Thức ăn chế biến Kỷ yếu Hội nghị khoa học thủy sản lần 4: 381-394 Trường Đại học Cần Thơ 384 sung các chất dẫn dụ khác nhau. Thời gian thí nghiệm là 4 tuần. Thí nghiệm gồm 4 nghiệm thức (3 lần lặp lại). Nghiệm thức thức ăn đối chứng không bổ sung chất dẫn dụ, các nghiệm thức thức ăn còn lại lần lượt được bổ sung 2% dịch cá thủy phân, 2% dầu gan mực hoặc 2% dịch trùn quế. 2.3 Quản lý thí nghiệm và ghi nhận kết quả Cá được cho ăn theo nhu cầu, 4 lần/ngày. Hằng ngày theo dõi, ghi nhận các hoạt động ăn, bơi lội, bắt mồi của cá và đếm số cá chết. Thức ăn thừa và phân cá được siphon 2 lần/ngày. Các bể thí nghiệm có sục khí và nước chảy tràn liên tục. Trong suốt thời gian thí nghiệm các yếu tố môi trường đều được duy trì phù hợp với điều kiện sinh trưởng của cá. Mẫu cá được cân 100 con ngẫu nhiên để xác định trọng lượng ban đầu. Thu mẫu cuối đợt thí nghiệm bằng cách cân từng con. Ghi nhận khối lượng và tỉ lệ sống của cá ở mỗi bể thí nghiệm. Các chỉ tiêu thành phần hóa học của thức ăn gồm ẩm độ, đạm thô, chất béo thô, bột đường, chất tro được phân tích trong phòng thí nghiệm bằng phương pháp của AOAC (2000). Khối lượng cá ban đầu (Wi) được xác định khi bố trí thí nghiệm. Tỷ lệ sống (SR), khối lượng cuối (Wf), khối lượng gia tăng (Wg), tăng trưởng tuyệt đối DWG (g/ngày), được tính toán giá trị trung bình, độ lệch chuẩn và phân tích Anova, tìm sự khác biệt giữa các trung bình nghiệm thức bằng phép thử Duncan sử dụng phần mềm SPSS. 3 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 3.1 Xác định thời điểm và phương thức thay thế hiệu quả thức ăn chế biến của cá lóc đen giai đoạn bột 3.1.1 Tỉ lệ sống Sau 5 tuần thí nghiệm, tỉ lệ sống của cá có sự khác nhau theo ngày tuổi tập ăn lẫn phương thức tập ăn của các nghiệm thức (Hình 2). 0 10 20 30 40 50 60 70 80 10 ngày tuổi 17 ngày tuổi 24 ngày tuổi Thời điểm tập ăn Tỉ lệ số ng - SR (% ) Đối chứng 10% TĂCB/ngày 20% TĂCB/ngày a c d a a ab b a a Hình 2: Tỉ lệ sống (%) của cá lóc đen bột sử dụng thức ăn chế biến ở các thời điểm và phương thức tập ăn khác nhau sau 5 tuần thí nghiệm Kỷ yếu Hội nghị khoa học thủy sản lần 4: 381-394 Trường Đại học Cần Thơ 385 Nghiệm thức 10 ngày tuổi có tỉ lệ sống thấp nhất (15,3% và 2,33%) và thấp hơn có ý nghĩa (p<0,05) so với các nghiệm thức còn lại. Thời gian cá sử dụng hiệu quả thức ăn chế biến chịu ảnh hưởng lớn vào sự hoàn thiện của ống tiêu hóa cũng như sự phát triển chức năng sinh lý của ống tiêu hóa ở giai đoạn cá bột (Cuvier-Péres và Kestemont, 2002). Kết quả thí nghiệm cho thấy ở thời điểm 10 ngày tuổi hệ thống tiêu hóa của cá lóc đen bột chưa thể sử dụng thức ăn chế biến. Điều này tương tự như báo cáo của Bùi Minh Tâm et al., (2004) trên cá lóc đen khi tập ăn ở 15 ngày tuổi có tỉ lệ sống chỉ 10%. Tỉ lệ sống ở các nghiệm thức tập ăn thức ăn chế biến ở ngày tuổi thứ 17 (63,7% và 64,7%) và 24 (56,7% và 47,7%) là khá cao. Trong đó nghiệm thức 17 ngày tuổi có tỉ lệ sống đạt cao nhất (63,7% và 64,7%), cao hơn có ý nghĩa (p<0,05) so với nghiệm thức 10 ngày tuổi và khác nhau không có ý nghĩa (p>0,05) so với đối chứng (64,7%). Theo Walford và Lam (1993) cá bột có hoạt tính men tiêu hóa thấp ở những ngày đầu ăn thức ăn ngoài và tăng dần trong suốt giai đoạn ấu trùng trước khi chuyển sang giai đoạn khác. Vì vậy ở hầu hết các loài cá bột, khi bắt đầu ăn thức ăn ngoài, chúng đòi hỏi có thời gian nhất định để phát triển khả năng thích nghi với thức ăn chế biến. Như vậy ở ngày tuổi thứ 17 hệ tiêu hóa của cá lóc đen bột đã có sẵn sàng cho việc sử dụng thức ăn chế biến, tương tự với kết quả khi ương cá thát lát còm (Chitala chitala) bằng thức ăn chế biến ở ngày tuổi thứ 20 (74%) (Trần Thị Thanh Hiền và Nguyễn Hương Thùy, 2008). Trong giai đoạn cho ăn kết hợp (gồm thức ăn tươi và thức ăn chế biến) với tỉ lệ thay thế thấp (10% TĂCB/ngày) và trong thời gian dài hơn sẽ giúp cá chấp nhận thức ăn chế biến tốt hơn. 0 10 20 30 40 50 60 70 80 90 100 10 ngày tuổi 17 ngày tuổi 24 ngày tuổi Thời điểm tập ăn T ỉ l ệ ăn n ha u (% ) Đối chứng 10% TĂCB/ngày 20% TĂCB/ngày d b a d c c d c c Hình 3: Tỉ lệ ăn nhau (%) của cá lóc đen bột sử dụng thức ăn chế biến ở các thời điểm và phương thức tập ăn khác nhau sau 5 tuần thí nghiệm Kết quả theo dõi thí nghiêm cho thấy, tỉ lệ ăn nhau thấp nhất ở nghiệm thức đối chứng (2,67%) và thấp hơn có ý nghĩa (p<0,05) so với các nghiệm thức sử dụng thức ăn chế biến (Hình 3). Có thể thấy ở nghiệm thức này sử dụng thức Kỷ yếu Hội nghị khoa học thủy sản lần 4: 381-394 Trường Đại học Cần Thơ 386 ăn là cá tạp, đây là loại thức ăn thích hợp với loài nên hiện tượng ăn nhau xảy ra ít hơn so với những nghiệm thức còn lại. Tập ăn ở ngày tuổi thứ 10 cho tỉ lệ ăn nhau cao nhất (79% và 93,3%) và cao hơn có ý nghĩa (p<0,05) so với các nghiệm thức còn lại. Theo Victor và Akpocha (1992) khi cá được nuôi trong điều kiện dinh dưỡng thấp hoặc thức ăn được cung cấp không thích hợp, cá phụ thuộc vào thức ăn tự nhiên thì chúng sẽ thể hiện tính ăn nhau rất lớn. Kết quả này tương tự với thí nghiệm không cho cá lóc đen ăn có tỉ lệ ăn nhau là 83% (Quin và Fast, 1996). Tuy nhiên tỉ lệ ăn nhau của loài cá lóc đen lại cao hơn một số loài cá khác như cá basa (Pangasius bocourti) tập ăn ở ngày tuổi thứ 2 là 10,4% (Le Thanh Hung et al., 2002) và cá vược măng (Sander lucioperca) tập ăn từ 12 ngày tuổi là 13,8% (Kestemont et al., 2007). Các nghiệm thức ở ngày tuổi thứ 17 và 24 có tỉ lệ ăn nhau trong khoảng 16,2- 21,33% và khác nhau không có ý nghĩa (p>0,05) giữa các nghiệm thức này. Có thể thấy tại thời điểm 17 và 24 ngày tuổi, cá bột được cho ăn cá tạp xay từ 1-2 tuần trước khi tập ăn thức ăn chế biến, cá tạp là thức ăn phù hợp của loài trong giai đoạn này nên cá có thể tiêu hóa dễ dàng đồng thời trong thời gian này hệ thống tiêu hóa của cá cũng hoàn thiện hơn để sẵn sàng chấp nhận thức ăn chế biến, từ đó sẽ hạn chế được hiện tượng ăn nhau trong quá trình tập ăn thức ăn chế biến. Một số nghiên cứu trước đây cũng đã chứng minh rằng thức ăn chế biến chỉ được cá bột chấp nhận sau vài tuần sử dụng thức ăn tươi sống (Person-Lê Ruyet et al., 1993; Fernandez-Diaz và Yufera, 1997). Các nghiệm thức được tập ăn thức ăn chế biến trong cùng một thời điểm thì phương thức thay thế 20% TĂCB/ngày luôn có tỉ lệ ăn nhau cao hơn so với tỉ lệ 10% TĂCB/ngày. Điều này cho thấy tỉ lệ thay thế 10% TĂCB/ngày giúp cá tập dần với thức ăn chế biến tốt hơn từ đó khả năng sử dụng và chấp nhận thức ăn cũng cao hơn do đó sẽ hạn chế được hiện tượng ăn nhau giữa các cá thể trong đàn. Ngược lại tập ăn ở giai đoạn sớm đồng thời với phương thức chuyển đổi nhanh sẽ càng làm gia tăng tỉ lệ ăn nhau. 3.1.2 Tăng trưởng Tăng trưởng của cá đạt cao nhất ở nghiệm thức tập ăn lúc 10 ngày tuổi-20% TĂCB/ngày (3,18 g; 0,091 g/ngày và 12,4%/ngày) và cao hơn có ý nghĩa (p<0,05) so với các nghiệm thức còn lại. Các nghiệm thức còn lại (kể cả nghiệm thức đối chứng) đều có tăng trọng và tăng trưởng DWG khác biệt không có ý nghĩa (p>0,05) với nhau (Bảng 1). Kết quả này cho thấy tăng trưởng của cá bột khi sử dụng thức ăn chế biến không bị ảnh hưởng so với sử dụng cá tạp. Kỷ yếu Hội nghị khoa học thủy sản lần 4: 381-394 Trường Đại học Cần Thơ 387 Bảng 1: Tăng trưởng về khối lượng của cá lóc đen bột sử dụng thức ăn chế biến ở các thời điểm và phương thức tập ăn khác nhau trước và sau 5 tuần thí nghiệm Nghiệm thức Wi (g) Wf (g) WG (g) DWG (g/ngày) SGR (%/ngày) Đối chứng 0,04 1,36±0,47b 1,32±0,47b 0,038±0,01b 9,97±0,92b 10 ngày tuổi-10% TĂCB 0,04 1,43±0,66b 1,39±0,66b 0,04±0,02b 10,04±1,23b 10 ngày tuổi-20% TĂCB 0,04 3,22±1,27a 3,18±1,27a 0,091±0,04a 12,4±1,13a 17 ngày tuổi-10% TĂCB 0,04 1,17±0,07b 1,13±0,07b 0,032±0b 9,64±0,17bc 17 ngày tuổi-20% TĂCB 0,04 0,73±0,18b 0,69±0,18b 0,02±0,01b 8,24±0,68c 24 ngày tuổi-10% TĂCB 0,04 1,25±0,3b 1,21±0,3b 0,035±0,01b 9,79±0,67b 24 ngày tuổi-20% TĂCB 0,04 1,26±0,07b 1,22±0,07b 0,035±0b 9,85±0,17b Ghi chú: Các giá trị trên cùng một cột có các chữ cái giống nhau thì khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Giá trị thể hiện là số trung bình và độ lệch chuẩn. So với một số nghiên cứu khác, tăng trưởng SGR của cá lóc đen trong thí nghiệm cao hơn so với thí nghiệm của Bùi Minh Tâm et al. (2004) trên cùng đối tượng đã có SGR là 6,1%/ngày khi tập ăn ở 15 ngày tuổi và cũng cao hơn so với cá móp (Centropomus parallelus) khi tập ăn từ ngày tuổi thứ 35 nhưng SGR chỉ đạt 5,53%/ngày (Alves et al., 2006). Qua các kết quả về tăng trưởng, tỉ lệ sống và tỉ lệ ăn nhau có thể thấy rằng nghiệm thức 10 ngày tuổi-20% TĂCB/ngày có thời điểm tập ăn sớm nhất và tỉ lệ thay thế TĂCB/ngày cao đã có tỉ lệ sống thấp nhất và tỉ lệ ăn nhau cao nhất nhưng lại có tăng trưởng cao nhất và cao hơn có ý nghĩa (p<0,05) so với các nghiệm thức còn lại. Nghiệm thức 10 ngày tuổi-20% TĂCB/ngày với tỉ lệ sống chỉ 2,33% và thấp hơn có ý nghĩa (p<0,05) so với các nghiệm thức còn lại đã cho thấy cá lóc đen bột không thể sử dụng tốt thức ăn chế biến ở thời điểm 10 ngày tuổi. Cá lóc đen với đặc tính là loài cá dữ nên trong điều kiện thức ăn không thích hợp, cá bột ở nghiệm thức 10 ngày tuổi-20% TĂCB/ngày đã thể hiện tính ăn nhau rất cao (93,3%). Ngoài ra, khi con mồi là những cá thể nhỏ trong quần đàn thì sẽ dễ bị phát hiện và kích thích thị giác hơn so với thức ăn được cung cấp, đồng thời chúng cũng mang lại cho cá săn mồi nhiều năng lượng hơn/con mồi (Quin và Fast, 1996). Như vậy ở nghiệm thức 10 ngày tuổi- 20% TĂCB/ngày cá bột tuy có tốc độ tăng trưởng cao nhất nhưng lại có tỉ lệ sống thấp nhất và tỉ lệ ăn nhau cao nhất, điều này cho thấy sự tăng trưởng của cá bột ở nghiệm thức này chủ yếu là do sự ăn lẫn nhau chứ không phải từ việc sử dụng thức ăn chế biến. Kết quả nghiên cứu thể hiện việc thay thế thức ăn tự nhiên bằng thức ăn chế biến trong những ngày đầu ăn ngoài sẽ không mang lại kết quả khả quan. Bên Kỷ yếu Hội nghị khoa học thủy sản lần 4: 381-394 Trường Đại học Cần Thơ 388 cạnh đó trong thời gian cho ăn kết hợp việc tăng dần TĂCB/ngày với tỉ lệ thấp (10% TĂCB/ngày) sẽ giúp cá bột thích nghi với thức ăn chế biến tốt hơn. Cá lóc đen bột trong thí nghiệm có thể sử dụng thức ăn chế biến ở thời điểm 17 ngày tuổi với phương thức thay thế 10% TĂCB/ngày mà không ảnh hưởng đến tỉ lệ sống và tăng trưởng của cá. Thời điểm này là sớm hơn so với báo cáo của Quin et al. (1997) cũng trên cá lóc đen là 30 ngày tuổi. Tuy nhiên khi so sánh với các loài cá nước ngọt khác, cá lóc đen có thời điểm tập ăn muộn hơn so với cá lóc bông (Channa micropeltes) và cá kết (Micronema bleekeri) là 7 ngày tuổi (Nguyễn Thị Ngọc Lan, 2004; Nguyễn Văn Triều và ctv., 2008), trên cá trê phi (Clarias gariepinus) và cá trê vàng (Clarias macrocephalus) là 4 ngày tuổi (Verreth và Tongeren, 1989; Fermin và Bolivar, 1991; Olurin và Oluwo, 2010) và cá basa (Pangasius bocourti) là 5 ngày tuổi (Le Thanh Hung et al., 2002). Điều này cho thấy cá lóc đen phát triển chức năng hệ tiêu hóa muộn hơn so với các loài trên, đây là một trong những lý do giải thích tại sao loài này có thời điểm tập ăn muộn hơn so với một số loài cá nước ngọt khác. 3.2 Ảnh hưởng của các chất dẫn dụ khác nhau lên hiệu quả sử dụng thức ăn chế biến của cá lóc đen giai đoạn bột 3.2.1 Tỉ lệ sống Sau 4 tuần thí nghiệm, nghiệm thức đối chứng (không bổ sung chất dẫn dụ) có tỉ lệ sống thấp nhất (61%) và thấp hơn có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với các nghiệm thức còn lại (Hình 4). Ở các nghiệm thức có bổ sung chất dẫn dụ (dịch cá thủy phân, dầu gan mực và dịch trùn quế) lần lượt có tỉ lệ sống 79,3%, 73,7% và 71,3%, giữa các nghiệm thức này không có sự khác biệt (p>0,05) với nhau và cao hơn có ý nghĩa (p<0,05) so với nghiệm thức đối chứng. Trong đó nghiệm thức bổ sung dịch cá cho tỉ lệ sống cao nhất (79,3%). Kết quả thí nghiệm cho thấy việc bổ sung chất dẫn dụ vào thức ăn đã cải thiện tỉ lệ sống của cá bột. Các nghiên cứu trước đây cho rằng thức ăn nhân tạo không kích thích cá bắt mồi vì không kích thích thị giác cá (Appelbaum và Damme, 1988). Cá rất khó bắt mồi là thức ăn nhân tạo nên không ăn đủ lượng thức ăn cần thiết (Person Le Ruy et al., 1993). Quan sát cá sử dụng thức ăn trong thời gian thí nghiệm cho thấy ở các nghiệm thức được bổ sung chất dẫn dụ cá chủ động bắt mồi rất nhanh đã hạn chế sự hòa tan của thức ăn chế biến trong khi cho cá ăn và tăng lượng thức ăn cá ăn vào, điều này thể hiện rõ ở nghiệm thức có bổ sung dịch cá thủy phân. Trái lại, ở nghiệm thức đối chứng thì cá bắt mồi chậm và yếu hơn. Kết quả này tương tự trên cá hồi (Salmo salar), chất dẫn dụ đã cải thiện được tình trạng giảm ăn khi chuyển cá từ môi trường nước ngọt sang nước mặn (Toften et al., 2003). Kỷ yếu Hội nghị khoa học thủy sản lần 4: 381-394 Trường Đại học Cần Thơ 389 0 10 20 30 40 5