13 Vị tiến sĩ triều Lê của huyện Thanh Chương qua tư liệu Hán Nôm

Thanh Chương 清漳 là một huyện miền núi ở phía Tây Nam tỉnh Nghệ An, cách thành phố Vinh 50km. “Xưa Thanh Chương là Trại Động (Đồng) 寨 峒, đời Trần niên hiệu Thiên Ứng Chính Bình năm thứ 2 (1233) theo bản đồ là huyện Thanh Giang. Đời Lê Trung Hưng (1533-1789), Trịnh Giang lên ngôi chúa, kiêng húy chữ Giang 江 đổi Giang thành Chương 漳 . Cương vực phía Đông Bắc là phủ Trịnh Đô, Tây phủ Trà Lân, Nam giáp Hương Sơn, La Sơn, ba mặt là núi, một mặt là sông” (1). Thời Lê, Thanh Chương là một trong sáu huyện thuộc phủ Diễn Châu “phong tục trong cả phủ đều thuần hòa, chỗ nào cũng có văn học”(2) “cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp, kẻ sĩ chăm chỉ đèn sách, trau dồi lễ nghĩa” (3).

pdf8 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 262 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu 13 Vị tiến sĩ triều Lê của huyện Thanh Chương qua tư liệu Hán Nôm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí KH-CN Nghệ An SỐ 1/2017 [47] XỨ NGHỆ - ĐẤT VÀ NGƯỜI 1. Tư liệu Hán Nôm về các vị khoa bảng triều Lê huyện Thanh Chương Nói đến danh nhân đất Thanh Chương - Nghệ An chúng ta không thể không nhắc tới 13 vị Tiến sĩ triều Lê. Tên tuổi và sự nghiệp của họ từng được nhắc đến trong các sách đăng khoa lục đại khoa biên soạn vào thời Lê sơ và Lê Trung Hưng như: Lịch đại đăng khoa lục 歷代 登科錄(4), Lịch đại đại khoa lục 歷代大科錄 (5), Đỉnh khiết Đại Việt lịch triều đăng khoa lục 鼎锲大越歷朝登科錄 (6) và bia Văn miếu Thăng Long Đây là nguồn tài liệu chính mà các nhà biên soạn sách khoa bảng Việt Nam sau này thường sử dụng như cuốn Các nhà khoa bảng Việt Nam 1075-1919 của Ngô Đức Thọ chủ biên, Trạng nguyên, Tiến sĩ, Hương cống Việt Nam do nhóm Bùi Hạnh Cẩn - Minh Nghĩa - Việt Anh biên soạn, Khoa bảng Nghệ An của Đào Tam Tỉnh biên soạn. Qua tìm hiểu tư liệu Hán Nôm về khuyến học của tỉnh Nghệ An, chúng tôi chú ý đến Thanh Chương 清漳 là một huyện miền núi ở phía Tây Nam tỉnh Nghệ An, cách thành phố Vinh 50km. “Xưa Thanh Chương là Trại Động (Đồng) 寨 峒, đời Trần niên hiệu Thiên Ứng Chính Bình năm thứ 2 (1233) theo bản đồ là huyện Thanh Giang. Đời Lê Trung Hưng (1533-1789), Trịnh Giang lên ngôi chúa, kiêng húy chữ Giang 江 đổi Giang thành Chương 漳 . Cương vực phía Đông Bắc là phủ Trịnh Đô, Tây phủ Trà Lân, Nam giáp Hương Sơn, La Sơn, ba mặt là núi, một mặt là sông” (1). Thời Lê, Thanh Chương là một trong sáu huyện thuộc phủ Diễn Châu “phong tục trong cả phủ đều thuần hòa, chỗ nào cũng có văn học”(2) “cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp, kẻ sĩ chăm chỉ đèn sách, trau dồi lễ nghĩa” (3). 13 VỊ TIẾN SĨ TRIỀU LÊ CỦA HUYỆN THANH CHƯƠNG QUA TƯ LIỆU HÁN NÔM n Ths. Lê Thị Thu Hương Viện Nghiên cứu Hán Nôm Các tân khoa nhận áo mũ Vua ban (Ảnh: Tư liệu) Tạp chí KH-CN Nghệ AnSỐ 1/2017 [48] XỨ NGHỆ - ĐẤT VÀ NGƯỜI mảng tài liệu địa phương chí của tỉnh này hiện lưu trữ tại kho sách Hán Nôm thuộc Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Đó là nguồn tài liệu phong phú, rất có giá trị, phản ánh nhiều mặt về lịch sử, địa lý, phong tục tập quán, danh nhân của địa phương. Phần mục Nhân vật chí trong các sách này ghi chép khá cụ thể, bổ sung được nhiều chi tiết mà trong các sách khoa bảng đại khoa không chép hoặc chép một cách sơ lược về tiểu sử 13 vị Tiến sĩ này. Đó là các sách: 1.1. Thanh Chương huyện chí (TCHC) 清章縣誌 (chữ Hán), 2 bản viết tay, Bản A.97/2 do Tri huyện Nguyễn Điển soạn. Mục Văn thần đời trước (tr.15a-17b) có khảo về 9 vị Tiến sĩ (thiếu Nguyễn Trọng Thường, Lê Cận, Nguyễn Đường). Bản VHv.2557 Đặng Công Luận鄧公論 chép vào năm 1963 theo bản chính. Ngô Ngọc Thiên 吳玉千 hiệu đính, phần khảo về Văn miếu trong mục Kim cổ vị sự chí (tr. 28a-30b) cho biết cả 13 vị Tiến sĩ này đều được thờ ở Văn miếu của bản huyện. Ngoài thông tin ngắn gọn về học vị, khoa thi, người soạn sách còn cung cấp đầy đủ cấp bậc, tước vị, phẩm hàm của 13 vị Tiến sĩ mà các sách đăng khoa lục khác thường ít chép. Như khi viết về Tiến sĩ Nguyễn Trọng Thường, sách chép: “Tiến sĩ khoa Nhâm Thìn, Đặc tiến Kim tử Vinh lộc đại phu, Lại bộ Hữu thị lang, Cần Xuyên hầu, phong tặng Lại bộ Thị lang, Cần quận công, gia tặng Công bộ Thượng thư, Trung Cần xã Cửu Đường Nguyễn tướng công”, Tiến sĩ Nguyễn Đương “Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Kỷ Sửu, Đặc tiến Kim tử Vinh lộc đại phu, phụng sai Quảng, Thuận đẳng đạo, Chính đốc, Hàn lâm viện Thị độc, Lạp Sơn bá, phong tặng Quang Đẳng xứ, Tán trị Thừa chính, Lạp Sơn hầu Trung Cần xã Nguyễn tướng công”. Cổ kim nhân vật chí (tr. 40a-53a) phần Văn khoa chép về tiểu sử 13 vị Tiến sĩ này với thông tin đầy đủ về quê quán, họ tên, tự, hiệu, biệt hiệu (nếu có), kèm theo tư liệu về gia phả dòng họ, truyền thuyết lưu truyền trong dân gian. Vì là sách địa chí của bản huyện nên Thanh Chương huyện chí cung cấp được thông tin khá đầy đủ, chi tiết về 13 vị Tiến sĩ này. 1.2. Nghệ An nhân vật chí (NANVC) 乂安人 物誌 (chữ Hán) (sách vốn không ghi tên ở đầu sách, có lẽ do người làm thư mục căn cứ vào nội dung để đặt tên), 1 bản viết tay, VHv.1369 ghi về các nhân vật đỗ đạt của Nghệ An xưa (gồm cả Hà Tĩnh). Riêng huyện Thanh Chương có 2 vị Tiến sĩ là Tống Tất Thắng (tr.4b) bổ sung được thông tin về nơi thờ tự và việc con cháu ông di cư về xã An Ấp, huyện Hương Sơn, làm con nhà họ Trần; (tr.12a) bổ sung được tư liệu về việc đi sứ nhà Thanh của Tiến sĩ Nguyễn Đường. 1.3. Nghệ Tĩnh tạp ký (NTTK) 乂靜雜記 (chữ Hán), Tiến sĩ Thiên Lộc Chỉ Am Phan Hòa Phủ 潘 和甫 biên tập (Phan Huy Ôn) Phan Huy Sảng 潘輝 爽 hiệu đính, 1 bản viết tay, A.93. Sách ghi chép tiểu sử, hành trạng người đỗ Trạng nguyên, Tiến sĩ, Bảng nhãn, Thám hoa của 4 phủ Đức Quang, Diễn Châu, Anh Đô, Hà Hoa của xứ Nghệ An thời Trần, Lê, Mạc. Số người đỗ đạt của từng huyện được biên tập, thống kê trước khi đi vào tiểu sử từng nhân vật, khiến người đọc dễ bao quát. Riêng huyện Thanh Chương có chép tiểu sử 13 vị Tiến sĩ (tr.9a-10b) theo trật tự: quê quán (đơn vị xã), các khoa thi, làm quan đến chức, tước hiệu được phong tặng. Như khi viết về Tiến sĩ Lê Cẩn, sách viết: “người xã Nam Hoa đông, thi Hương trúng Giải nguyên, tái trúng Sĩ vọng. Năm 48 tuổi đậu đồng Tiến sĩ khoa Ất Mùi niên hiệu Vĩnh Thịnh 11 (1715), làm quan đến Giám sát Ngự sử”. 1.4. Nghệ An ký (NAK) 乂安記: chữ Hán, Bùi Tồn Trai 存齋裴 (Bùi Dương Lịch) soạn, sách in, ký hiệu VHv.1713/1-2, gồm địa phận, núi sông, danh nhân tỉnh Nghệ An. Phần tiểu sử các nhân vật trong Nghệ An ký chiếm tới nửa bộ sách gồm 150 văn nhân và 31 võ tướng thời Lê về trước của các địa phương thuộc trấn Nghệ An (gồm cả Nghệ An và Hà Tĩnh ngày nay). 13 vị Tiến sĩ triều Lê huyện Thanh Chương được tác giả Bùi Dương Lịch biên soạn tỉ mỉ với nguồn tài liệu Đăng khoa lục về những năm trước đời Cảnh Hưng (1740), Đại Việt sử ký toàn thư, Đại Việt sử ký bản kỷ tục biên và từ nguồn gia phả nên tư liệu đầy đủ hơn cả các cuốn sách kể trên. Sách này đã có bản dịch (7), chúng tôi căn cứ vào bản chữ Hán ký hiệu VHv.1713/2, tham khảo bản dịch của Nguyễn Thị Thảo khi lấy tư liệu về các vị Tiến sĩ này. Tạp chí KH-CN Nghệ An SỐ 1/2017 [49] XỨ NGHỆ - ĐẤT VÀ NGƯỜI Để có được tiểu sử đầy đủ nhất về các vị danh nhân này, chúng tôi ghi chép qua từng tài liệu kể trên, loại bỏ những thông tin trùng lặp, tổng hợp lại, tham khảo thêm thông tin về gia phả, sắc phong trong các bài viết của các nhà khoa học in trong các tạp chí chuyên ngành, tra thêm trước tác của các vị trong bộ Di sản Hán Nôm Việt Nam - thư mục đề yếu, tổng hợp lại thành tiểu sử 13 vị Tiến sĩ này với nội dung đầy đủ nhất. Tư liệu từ sách đăng khoa lục đại khoa chúng tôi xin dẫn theo Các nhà khoa bảng Việt Nam (1075-1919) (8) của Ngô Đức Thọ chủ biên (03 nhân vật Tống Tất Thắng, Lê Cận và Nguyễn Đường không có trong cuốn này), ngoài ra bổ sung thêm tư liệu bia Văn miếu. Tài liệu dẫn dụng sẽ được thống kê ở dưới phần tiểu sử, ghi nguồn gốc rõ ràng (số trang, kí hiệu sách...). 2. Hệ thống tiểu sử 13 vị Tiến sĩ triều Lê Qua các nguồn tư liệu Hán Nôm, chúng tôi hệ thống lại tiểu sử của 13 vị Tiến sĩ triều Lê của huyện Thanh Chương Nghệ An như sau: 2.1. Nguyễn Thiện Chương 阮善彰 (1452-1521): người thôn Hoành Sơn, xã Nam Hoa Thượng, huyện Thanh Chương, nay là xã Khánh Sơn, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Theo Đăng khoa lục, ông 18 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Kỷ Sửu niên hiệu Quang Thuận 10 (1469) đời vua Lê Thánh Tông, là người khai khoa của dòng họ Nguyễn Thiện và là vị Tiến sĩ trẻ tuổi nhất ở Nghệ An. Ông được ban Đặc tiến Kim tử Vinh lộc đại phu, Hình bộ Tả thị lang, Lộc Xuyên hầu. Năm 1843 vua Lê Thánh Tông sai ông cùng với các cộng sự sưu tập tất cả các điều luật đã ban hành, nghiên cứu rồi hệ thống hóa để xây dựng thành bộ Quốc triều hình luật hay còn gọi là Lê triêu hình luật. Làm quan đến chức Hữu thị lang. Ông vì ngay thẳng can gián vua nhưng vua không nghe, nên năm 33 tuổi, về trí sĩ. Khi cáo quan trở về quê nhà, Nguyễn Thiện Chương sống hòa mình với bà con làng xóm, luôn quan tâm đến nâng cao dân trí, lo việc học hành cho con cháu. Ông mở trường dạy học, làm thầy thuốc chữa bệnh cứu người. Trường học của ông ngày càng uy tín cho nên bầu bạn xa gần gửi con đến học ngày một đông. Gia phả họ Nguyễn Thiện ghi: “Quan phong Ngự sử đề hình/ Trực ngôn nổi tiếng triều đình nhà Lê/ Ba mươi ba tuổi xin về trí sỹ/ Thọ bảy mươi đức xỉ câu tôn/ Thanh liêm đã nổi tiếng đồn/ Chép vào quân chí nay còn thơm rơi/ Bia Tiến sĩ trải đời ghi tạc/ Sắc tặng phong hách tạc thanh danh/ Một đời thi lễ trăm đời bản chi”. Ông tạ thế vào ngày 14 tháng 7 (âm lịch) năm 1521 tại quê nhà, thọ 70 tuổi. Mộ ông táng trên mảnh đất Lòi Vàng làng Hoành Sơn” (9).Ông được thờ tại Văn miếu bản huyện. Người ông của ông có 13 con, cha ông là Thiện Thắng, con cả. Ông có 3 con trai. Con cả là Hảo, con thứ hai là Hải đều đỗ Hương cống và làm quan phủ, huyện. Dòng dõi đông đúc, các đời có nhiều người xuất thân văn học, đỗ Hương cống [TCHC (28b), NAK (25b), NTTK (9a), CNKBVN (112)]. 2.2. Tống Tất Thắng 宋必勝 (1488-?): người trang Cần Doanh, xã Nam Hoa Thượng, huyện Thanh Chương nay là xã Nam Trung, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Đậu Tiến sĩ khoa Ất Sửu niên hiệu Đoan Khánh 1 (1505) đời vua Lê Uy Mục, năm 18 tuổi, là người có văn học khoa mục ở đời. Đặc tiến kim tử vinh lộc đại phu, Lại bộ Thượng thư kiêm Đông các Đại học sĩ, Nhập nội hành khiển, Thái bảo Lộc quận công. Làm quan đến Thượng thư, được phong Phúc thần. Gia phả ghi chép: Ông là người có tài thao lược, từng đánh giặc Sầm và đánh Chiêm Thành có chiến công, sau đánh Ai Lao, bị tử trận. Nay có đền thờ ông ở núi Ngũ Nhạc, xã Lương Trường còn gọi là đền Tổng Chinh. Con cháu ông về sau di cư ở xã An Ấp, huyện Hương Sơn, làm con nhà họ Trần, các đời đều có người văn học, đỗ Hương cống. Việc chết của ông linh dị, thời nước sông Lam từ đầu nguồn chảy về men theo huyện chảy đến các tổng, đến Nam Hoa thì quay lại ôm lấy trang Cần Doanh (nay là xã Trung Cần), nhà cha ông ngập trong nước suốt 2 ngày. Trải qua các triều ông được bầu tặng Thượng thượng đẳng thần, được thờ ở Văn miếu bản huyện, tên được ghi đầu tiên trong sổ Hậu hiền của huyện [TCHC (28b, 41a), NAK (34a), NTTK (9a), NANVC (4b)]. 2.3. Chu QuangTrứ 朱光著 (1540-?): người thôn Hoành Sơn, xã Nam Hoa Thượng, huyện Thanh Chương, nay là xã Khánh Sơn, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Đỗ Đệ nhị giáp đồng chế khoa xuất thân khoa Giáp Dần niên hiệu Thuận Bình 6 (1554) đời Lê Trung Tông, năm 25 tuổi. Làm quan đến chức Giám sát ngự sử. Đặc tiến Kim tử Vinh lộc đại phu, Tả thị Tạp chí KH-CN Nghệ AnSỐ 1/2017 [50] XỨ NGHỆ - ĐẤT VÀ NGƯỜI lang, Bút Xuyên hầu, Tống tướng công, được thờ tại Văn miếu bản huyện. Truyền rằng ông ở Hương Lãm Nam Đường, sau lại về Văn Điền, hậu duệ ông là Chu Đình Quý đậu Hương tiến, có văn học ở đời [TCHC (28b, 41b, 42a); NTTK(9b), NAK (37b), CNKBVN (tr.437), N01357]. 2.4. Nguyễn Sĩ Giáo 阮仕教(1638-?): người giáp An Tuyền, xã My Sơn, huyện Thanh Chương, nay là xã Thanh Mai, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Thi Hương đỗ Giải nguyên, 27 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Giáp Thìn niên hiệu Cảnh Trị 2 (1664) đời Lê Huyền Tông. Ông làm quan giữ các chức Thiêm đô ngự sử (1676), Hàn lâm thị độc. Đại Việt sử ký toàn thư chép: năm Cảnh Trị thứ 2 (1664), thăng chức cho các quan trong ngoài, cho Nguyễn Sĩ Giáo làm Gám sát ngự sử. Đời Lê Hy Tông, niên hiệu Vĩnh Trị 1 (1676), đình thần hỏi Thiêm đô ngự sử Nguyễn Sĩ Giáo về tội kết bè đảng. Ông bị cách chức, sau lại được phục chức. Ông được ban Đặc tiến Kim tử Vinh lộc đại phu, Bồi tòng Ngự sử đài Đô ngự lại, Sát Hiến sứ đề hình, An Nhân tử, ban thụy Chất Trực, Nhân Thành xã Nguyễn Tướng công. Gia đình có 4 anh em đều đỗ Hương cống, đều được bổ làm Giám sinh Quốc tử giám nhưng ông là nổi tiếng nhất. Ông về trí sĩ rồi mất ở nhà, dân xã lập đền thờ tự, tền triều tặng sắc văn [ TCHC (29a, 42a), NAK (51a, 51b), CNKBVN (tr.508), N0 1345]. 2.5. Nguyễn Tiến Tài 阮進材 (1642- 1697): người xã Nhân Thành, huyện Thanh Chương. Theo Đăng khoa lục, ông đậu Tiến sĩ khoa Giáp Thìn năm Cảnh Trị 2 đời vua Lê Huyền Tông (1664) năm 23 tuổi, vâng mệnh đi sứ, làm quan đến Lại bộ Thượng thư, nhập nội hành khiển, Nghĩa quận công. Đại Việt sử ký toàn thư chép: năm Cảnh Trị thứ 3 (1665) thăng chức cho các quan trong ngoài, cho Nguyễn Tiến Tài làm Giám sát ngự sử, Đặc tiến Kim tử Vinh lộc đại phu, Đô tri tham chính tự khanh, thăng Công bộ, Hộ bộ Tả thị lang. Đời Lê Hy Tông, năm Chính Hòa 6 (1693), ông đi sứ sang nhà Thanh tuế cống, xong việc về nước được dự vào triều chính. Năm thứ 14 (1693), ông được thăng Đô ngự sử. Năm thứ 16 (1696), bị biếm chức bị xử kiện nhiều việc không được thỏa đáng. Năm Chính Hòa thứ 18 (1697), ông mất, được tặng Tả thị lang bộ Hộ, ban thụy Chất Trực, tước Tử, được phong Phúc thần, phong tặng Triều đại phu, Hải Dương đẳng xứ Tán trị Thừa chính ty Tham chính, Cửu Giám nam. Dân xã lập đền thờ phụng, ông được phối thờ tại Văn miếu bản huyện. Theo Nguyễn gia phả: thủy tổ ông Cai tri bạ tổng Bích Triều, Thổ Hào, Võ Liệt, hiệu là Đạo Nguyên, Huyền Tế, thọ 112 tuổi. Họ Nguyễn phát tích thiên tài, em ông là Tiến Tướng, đỗ Hương cống. Ông có 3 người con đều đỗ Hương cống, con cả làm Tri phủ Từ Sơn, con hai làm Tri phủ Lạng Sơn, con út là Nguyễn Tiến Quyền làm chức tả ma, trưởng Tĩnh Gia phủ, con cháu các đời xuất thân văn học, nhiều người đỗ Hương cống và làm quan [NAK (51b, 52a), TCHC (43a,b, 44a,b), NTTK (9a), N01345]. 2.6. Nguyễn Đình Cổn 阮廷滚 (1652-?): còn có tên là Nguyễn Đình Nhượng 阮廷讓, hiệu là 慎軒, người thôn Bàng Thị, xã Bích Triều, huyện Thanh Chương, nay là xã Thanh Giang, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Ông là con trai Hương cống, Giám sinh Quốc tử giám, Đề đốc Bích quận công Nguyễn Phúc Vinh. Từ nhỏ thông minh trí tuệ. Khoảng niên hiệu Lê Cảnh Trị (1663-1671), ông lĩnh Hương giải, đến khoa Bính Thìn niên hiệu Vĩnh Trị 1 (1676), đậu Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, năm 25 tuổi, Đặc tiến Gia Hạnh đại phu, Hình bộ tả Thị lang, kiêm Đông các Hiệu thư, Đông Triều nam. Cũng trong năm này, ông lại trúng thứ 3 khoa Đông các, một năm vinh quy hai lần, xưa nay hiếm có, vẻ vang đương thời. Ông tính tình hào hiệp, thích điều mới lạ. Ngày vinh quy, ông không đi theo đường cũ Nam Đường, báo cho hai tổng Bích Triều và Thổ Hào mở đường mới ở Cơ Sơn để đi. Lúc đầu, ông nhận chức Giám sát Ngự sử đạo Lạng Sơn, sau đó làm đến chức Thiêm đô Ngự sử, vâng mệnh đi sứ nhà Thanh, chết trên đường đi sứ, được tặng Hình bộ Tả thị lang, tước Đông Triều nam. Người trong thôn lấy ngôi nhà cũ làm miếu thờ. Ông được thờ ở Văn miếu bản huyện. Ông có thơ trong Toàn Việt thi lục全越詩錄 [TCHC (29b, 44b, 45a,b), NTTK (9b), NAK (53a), CNKBVN (525), N01327]. 2.7. Nguyễn Trọng Thường 阮仲 常 (1681- 1735): húy Vị 位, tên Ức 億, tự 仲常, là con của Binh phiên Quảng Đức nam triều Lê. Ông người xã Trung Tạp chí KH-CN Nghệ An SỐ 1/2017 [51] XỨ NGHỆ - ĐẤT VÀ NGƯỜI Cần, huyện Thanh Chương, nay là thôn Trung Cần, xã Nam Trung, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Ông tư chất thông minh, nhanh nhẹn, đứng đắn, đôn hậu. Năm 19 tuổi, đi chơi ở Tràng An cùng với Nguyễn Chương, Đỗ Minh và Lê Đăng, tương truyền thời nhà Tề gọi là Tứ Hổ. Năm 22 tuổi, lĩnh Hương tiến. Năm 32 tuổi, đỗ Đệ Tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Nhâm Thìn niên hiệu Vĩnh Thịnh 8 (1712) đời Lê Dụ Tông. Được ban Đặc tiến Kim tử Vinh lộc đại phu, Lại bộ Hữu thị lang, Cần Xuyên hầu, phong tặng Lại bộ Thị lang, Cần quận công, gia tặng Công bộ thượng thư. Năm Giáp Ngọ phụng thăng Đốc đồng đạo Lạng Sơn. “Ông được ban 8 đạo sắc phong vào các năm 1712, 1714, 1716, 1720, 1727, 1730, hai đạo vào năm 1733. Qua thông tin từ sắc phong cho chúng ta biết: sau khi đỗ Tiến sĩ, ông nhậm chức Cẩn sự lang Giám sát Ngự sử của đạo Hưng Hóa. Năm Vĩnh Thịnh 10 (1714), thăng Mậu lâm lang Thanh hình Hiến sát sứ ty Hiến sát sứ Lạng Sơn. Năm Vĩnh Thịnh 12 (1716), thăng làm Tiến công thứ lang Công khoa Cấp sự trung. Năm Vĩnh Thịnh 16 (1720), thăng Mậu lâm lang Đông các Hiệu thư. Năm Bảo Thái 8 (1727), thăng Hiển cung đại phu Đông các Học sĩ Tu thận Thiếu doãn. Năm Vĩnh Khánh 2 (1730), làm Hoằng tín đại phu Thượng bảo Tự khanh Tu thận doãn. Năm Long Đức 1 (1733), thăng làm Trung trinh đại phu Hàn lâm viện Thừa chỉ Khuông mỹ doãn. Mùa hạ năm Long Đức 3 (1734), thăng làm Gia hạnh đại phu Hình bộ Hữu thị lang Tư Chánh khanh” (10). Người dân luôn ca tụng đức độ của ông. Năm Mậu Thân, phân làm Thừa chánh sứ ty đạo Sơn Tây. Năm Quý Sửu, phụng thăng Công bộ Tả thị lang, Cần Xuyên hầu. Vâng mệnh đi sứ nhà Thanh, ngày lên đường, ông giữ lại một hộp đồng, dặn người nhà rằng: có khách đưa thư về mới được mở ra xem. Ông đi sứ trở về đến Hán Khẩu bị bệnh mà mất. Khi có người báo tin có tang, người nhà mới mở hộp ra, trong thư nói rằng: ngày tháng này năm đấy bị bệnh chết, đều biết trước vậy. Ông được tặng Lại bộ Tả thị lang, Cần quận công, lại gia tặng Công bộ Thượng thư, thờ ở Văn miếu bản huyện. Ông là cha Nguyễn Trọng Đang, ông nội Nguyễn Trọng Đường, con cháu ông đều đi sứ phương Bắc. Nguyễn Trọng Thường là con rể của Đinh Nho Hoàn, sau khi Mặc Trai mất, ông sưu tập di tác của nhạc phụ, biên tập thành cuốn默翁使集Mặc Ông sứ tập. Ông viết lời dẫn cho cuốn sách đó năm Đinh Dậu niên hiệu Vĩnh Thịnh 13 (1717) (ký hiệu VHv.1443, A.1409, A.2823) và 5 bài thơ được chép trong tập 碑記表文雜錄 Bi ký biểu văn tạp lục (A.1470) là 題 羽扇子Đề vũ phiến tử,題節婦寺 Đề tiết phụ tự, 送 契友彌論陳侯上京Tống khế hữu Di Luân Trần hầu thượng kinh, 誦菊盆 Tụng cúc bồn và 誦芝盆 Tụng chi bồn [TCHC (29b, 45b, 46a, b), NAK (59b), CNKBVN (563), N01317]. 2.8. Lê Cận 黎瑾 (1668-?): người xã Nam Hoa đông, huyện Thanh Chương, nay là xã Nam Hoành, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Khi nhỏ, ông bị điếc nhưng lực học tốt, khả năng ghi nhớ hơn người. Khoảng đời niên hiệu Vĩnh Thịnh (1679-1731), thi Hương trúng Giải nguyên, năm 48 tuổi lại trúng Đồng Tiến sĩ khoa Sĩ vọng năm Ất Mùi niên hiệu Vĩnh Thịnh 11 (1715), Thiêm sự lang, Kinh Bắc đạo Ngự sử . Ông làm quan đến Giám sát Ngự sử, được thờ tại Văn miếu bản huyện [NAK (59b), NTTK (10a), TCHC (29b, 48a,b), N01341]. 2.9. Phạm Kinh Vĩ 范經緯 (1691-?): người xã Thổ Hào, huyện Thanh Chương, nay là xã Thanh Giang, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Ông là người học rộng, tinh thông số học, thi Hương đỗ Giải nguyên. Theo Đăng khoa lục, năm 43 tuổi, ông đỗ Đồng Tiến sĩ đầu tỉnh khoa Giáp Thìn niên hiệu Bảo Thái 5 (1724) đời Lê Dụ Tông. Đổi tên là Công Liêu 公寮, từng làm Giám sát sứ các đạo Sơn Nam, Tuyên Quang, lại được phụng sai Gián bản xứ Cần vương, đánh giặc Thiên Thí, Đường Hào, trong 14 chiến trận đã chém được 14 ngụy quận công, lại công phá giặc Nhạc công, Thạch Bi, Hữu Lũng. Sau phụng sai Hiệp Nghệ An trấn. Đại Việt sử ký (tục biên) chép: “Đời Lê Hiển Tông, năm Cảnh Hưng thứ 3 (1743), Lê Hữu Kiều tâu rằng: Hai xứ Thanh - Nghệ, đói kém, lính trốn đến hơn vạn người. Các viên quản cho người thúc giục, các quan trấn thì cho người đi nã bắt, nhũng nhiễu dân quá lắm. Có bắt được chăng nữa, nếu không phải là người đói khổ thì cũng là người giả Tạp chí KH-CN Nghệ AnSỐ 1/2017 [52] XỨ NGHỆ - ĐẤT VÀ NGƯỜI mạo đi thay và đưa về lại trốn ngay. Vậy không chi bằng chọn quan địa phương cho thân hành hỏi dân tình, tùy nghi đợi chọn là tiện hơn”. Triều đình bèn ở Thanh Hoa thì sai Đỗ Huy Kỳ và Nghệ An thì sai Phạm Doãn Vĩ (11) chia nhau đi chọn lính. Năm thứ 7 (1746) đặt chức quan Giám tri diêm đạo(12) sai Phạm Doãn Vĩ, Lê Thì Nghị, và Vũ Khâm phân chia nhau giám tri các đạo Nghệ An, Thanh Hoa, Sơn Nam đòi các bếp nấu muối ở bờ biển thu muối, được 40 hộc nạp tiền, mỗi hộc 80 đồng tiền, thu vào đông hạ hai kỳ và chứa ở kho công sở tại. Không bao lâu lại giảm ngạch thuế, chức hữu ty nào đốc thúc hà khắc sai xét trị tội. Sau ông bị bãi chức, mất tại nhà. Ông được thờ ở Văn miếu bản huyện, được ban Đặc tiến Kim tử Vinh lộc Đại phu, Nhập thị nội bộ tòng, Hưng Hóa đẳng xứ Tán trị Thừa chánh Sứ ty, Thừa chánh sứ Tình Xuyên bá [NAK (60a, b), TCHC (29b, 30a, 48b, 49a