Âm nhạc dân gian Tây Nguyên nói chung, các nhạc cụ cổ
truyền nói riêng trước đây luôn gắn bó với mọi hoạt động lễ
thức tín ngưỡng và một phần nhỏ trong vui chơi, giải trí của
cộng đồng, góp phần hình thành diện mạo của nền văn minh
lúa rẫy trong cư dân miền núi.
6 trang |
Chia sẻ: nyanko | Lượt xem: 1535 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Âm nhạc cồng chiêng Tây Nguyên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Âm nhạc cồng chiêng
Tây Nguyên
Âm nhạc dân gian Tây Nguyên nói chung, các nhạc cụ cổ
truyền nói riêng trước đây luôn gắn bó với mọi hoạt động lễ
thức tín ngưỡng và một phần nhỏ trong vui chơi, giải trí của
cộng đồng, góp phần hình thành diện mạo của nền văn minh
lúa rẫy trong cư dân miền núi.
Mọi sinh hoạt âm nhạc của Tây Nguyên đều gắn bó chặt chẽ,
song hành với đời sống tâm linh con người: là phương tiện để
giao tiếp với các yang, một số khác lại là phương tiện để
thông báo tin tức, truyền tải tâm tư, tình cảm của bản thân
đến một đối tượng nhất định nào đó, hoặc đến với nhiều
người khác
Song hành không thể thiếu cùng âm nhạc là các vũ điệu dân
gian:
Điệu Xoang Arap của người Jrai,
Điệu Xoang Sơmơk của người Bâhnar,
Điệu Pah kngan rông Yang, múa Chim Grứ ( Êđê) ...
Những điệu múa khiêl, múa trống : Tung khăk ( Êđê),
Tap mnia ( Jrai),Tap Sơgơr ( Bâhnar)...
Các điệu múa được biểu diễn dưới hình thức múa tập thể
nam, tập thể nữ, hoặc nhóm nam nữ theo tiếng ching chêng
và trống lớn- nhỏ rộn ràng , khiến cho không gian lễ hội càng
thêm náo nức và cuốn hút.
Mọi thành viên trong cộng đồng đều có thể vừa là chủ thể
sáng tạo, vừa là đối tượng thưởng thức nghệ thuật.
Có 2 dạng nhạc cụ:
Nhạc cụ dân gian liên quan đến tín ngưỡng. (1)
Nhạc cụ dân gian trong sinh hoạt đời thường. (2)
(1) Nhạc cụ dân gian liên quan đến tín ngưỡng:
Dàn ching chêng và trống cái (H’gơr):
Nhiệm vụ: thông báo với các thần linh, nghe tiếng ching
trống nổi lên, người ở xa có thể biết buôn nào đó đang có
chuyện vui hay chuyện buồn diễn ra.
Đòi hỏi phải có sự tham gia của số đông người.
Tù và cũng là một nhạc cụ chỉ được sử dụng trong
những lễ cúng lớn.
Mang tính thúc dục, kêu gọi. Dù chỉ do một người diễn tấu,
nhưng bản thân âm thanh của Tù và (Ky Pah theo cách gọi
của người Êđê, T’diếp- của người Bâhnar, Nung của người
Mnông...) đã mang tính thông báo, truyền đạt tác động mạnh
đến sự quan tâm của cả cộng đồng
Kèn Đinh Năm và Đinh Buốt Kliă của người Êđê trước
đây chỉ được sử dụng trong đám tang, vào giai đoạn sau khi
đã khâm liệm xong cho người chết.
Kèn Rlét của người Mnông chỉ được dùng trong những lễ
cúng có ăn trâu... Tất cả đều bị cấm kỵ không được dùng
trong sinh hoạt đời thường. Loại kèn này chỉ một người diễn
tấu, nhưng lại có tác động mạnh đến tâm tư, tình cảm của số
đông tham gia tang lễ.( Người Mnông , người K’ho có kèn
Mbuốt, Mbrơ hình dạng & cách diễn tấu tương tự như kèn
đinh năm của người Êđê)
Các nhạc cụ màu sắc như Ring Rieo ( lục lạc) , Hoan
Dju ( chũm choẹ) ... cũng đồng hành cùng ching chêng, trống
trong các lễ thức.
(2) Nhạc cụ dân gian trong sinh hoạt đời thường
Ching Ktut, Ching Pơng ( theo âm thanh của của ching)
, Đinh Tak ta, Đinh Ring, Đinh Tut ( Êđê); T’rưng ( Jrai,
Bâhnar), Tlung tlơ,
( Mnông) , Khing khung, plơng khơng ( Bâhnar Chăm)
, Klông put ( Sê Đăng)...
Các nhạc cụ mang tính giãi bày riêng tư : Kni, Goong,
Goong Kram,Ting ning, Brố, Brok, Đinh Kliă, Đinh Năm,
Wao ...