Tóm tắt
Bài viết khảo sát một số bút ký của tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường trên phương diện ngôn ngữ học tri
nhận. Thông qua những ẩn dụ tri nhận, người viết đề cập đến hai nội dung cơ bản:
- Các cách ý niệm về thiên nhiên trong bút ký Hoàng Phủ Ngọc Tường.
- Các cách ý niệm về nghiệm thân trong bút ký Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Trên cơ sở đó, bước đầu tìm hiểu những đặc điểm về phong cách ngôn ngữ của nhà văn Hoàng Phủ
Ngọc Tường ở góc độ ẩn dụ tri nhận.
7 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 372 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ẩn dụ tri nhận trong một số bút ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 7 (32) - Thaùng 9/2015
95
Ẩn dụ tri nhận trong một số bút ký
của Hoàng Phủ Ngọc Tường
Cognitive metaphors in Hoang Phu Ngoc Tuong’s literary memoirs
ThS. Đậu Thành Vinh
Trường THPT Dầu Giây – Đồng Nai
M.A. Dau Thanh Vinh
Dau Giay High School – Dong Nai
Tóm tắt
Bài viết khảo sát một số bút ký của tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường trên phương diện ngôn ngữ học tri
nhận. Thông qua những ẩn dụ tri nhận, người viết đề cập đến hai nội dung cơ bản:
- Các cách ý niệm về thiên nhiên trong bút ký Hoàng Phủ Ngọc Tường.
- Các cách ý niệm về nghiệm thân trong bút ký Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Trên cơ sở đó, bước đầu tìm hiểu những đặc điểm về phong cách ngôn ngữ của nhà văn Hoàng Phủ
Ngọc Tường ở góc độ ẩn dụ tri nhận.
Từ khóa: ẩn dụ tri nhận, Hoàng Phủ Ngọc Tường, ý niệm thiên nhiên, ý niệm nghiệm thân...
Abstract
The artical surveys some signing of the author Hoang Phu Ngoc Tuong based on the aspect of Cognitive
linguistics. Through Cognitive Metaphors, the writer mentions two basic contents:
- The concept of nature in the signing of Hoang Phu Ngoc Tuong.
- The concept of humans in the pen signing of Hoang Phu Ngoc Tuong.
On the ground, the first step is carried out to find out the characteristics of individual style of the
author from the Cognitive angle.
Keywords: cognitive metaphors, Hoang Phu Ngoc Tuong, the concept of nature, the concept of
humans...
1. Ngôn ngữ học tri nhận ra đời với
những cách nhìn, cách đánh giá hoàn toàn
khác với ngôn ngữ học truyền thống, đã
đưa bộ máy khái niệm ẩn dụ và các thao
tác nghiên cứu hữu quan lên một tầm nhận
thức mới. Ẩn dụ là hiện tượng không thể
thiếu của con người, nếu con người còn
muốn sử dụng ngôn ngữ như một phương
tiện giao tiếp quan trọng nhất. Nó giúp con
người suy nghĩ với tất cả các vấn đề trong
cuộc sống từ đơn giản đến phức tạp. Ẩn dụ
không còn chỉ bó hẹp trong địa hạt văn
chương mà là thuộc tính của tư duy. Xây
dựng thuyết ẩn dụ, ngôn ngữ học tri nhận
đã mang đến cho ngôn ngữ học một cách
tiếp cận rất có triển vọng.
Thành tựu của ngôn ngữ học tri nhận
của thế giới đã được vận dụng để miêu tả
ẨN DỤ TRI NHẬN TRONG MỘT SỐ BÚT KÝ CỦA HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG
96
một số trường ý niệm trong tiếng Việt như:
định vị không gian; vai trò của sông nước,
cỏ cây, thực phẩm trong việc ý niệm hóa,
phạm trù hóa của người Việt. Thế nhưng
cho đến nay chưa có công trình nào vận
dụng lý thuyết ẩn dụ tri nhận của châu Âu
để tìm hiểu đặc điểm ngôn ngữ như một
hình thái phong cách cá nhân của một nhà
văn cụ thể.
Đã có những bài viết, những công
trình nghiên cứu về giá trị các tác phẩm
của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Tuy nhiên có
thể nói được rằng, các đúc kết ấy chỉ bó
hẹp trong lĩnh vực văn học. Bài viết này
thông qua việc khảo sát một số truyện ký,
thử xác lập đặc điểm ngôn ngữ trong một
số mô hình tri nhận nổi trội của tác giả này.
2. Mặc dù lý thuyết ngôn ngữ học nói
chung, lý thuyết ẩn dụ tri nhận nói riêng
chỉ mới ra đời cách nay gần nửa thế kỷ thế
nhưng các đường hướng tiếp cận rất phức
tạp. Liên quan đến vấn đề đang bàn, người
ta hay đề cập đến bốn loại ẩn dụ sau: ẩn dụ
cấu trúc, ẩn dụ bản thể, ẩn dụ định vị và ẩn
dụ đường dẫn. Hiển nhiên, cùng một ngữ
liệu dựa vào các tiêu chí khác nhau có thể
có những cách phân loại khác nhau. Ngay
cả G. Lakoff và M. Jonhnson (1980),
những tác giả đã góp phần không nhỏ vào
bức tranh phân loại ẩn dụ giai đoạn đầu,
thế nhưng đến năm 2003 trong tác phẩm tái
bản vừa dẫn, các tác giả này cũng tự phủ
định mình và cho rằng: cách hình dung bên
trên là không hợp lý. Do vậy, bài viết này
không đi sâu vào việc phân loại mà cố gắng
tập hợp miêu tả, phân tích một số ẩn dụ liên
quan đến một số miền ý niệm quen thuộc
trong bút ký Hoàng Phủ Ngọc Tường.
3. Khảo sát bước đầu có thể ghi nhận
chủ đề trong bút ký ảnh hưởng rất nhiều
đến cơ chế tri nhận, cụ thể ảnh hưởng đến
sự lựa chọn các miền nguồn như những
nền tảng cơ sở để phóng chiếu lên miền
đích. Chẳng hạn, tác phẩm “Như con sông
từ nguồn ra biển” miêu tả về quá trình mò
mẫm đến với cách mạng của một tri thức
miền Nam cho nên diễn ngôn xuất hiện
nhiều ẩn dụ liên quan đến ý niệm ánh sáng
(chân lý), đui mù, bóng tối (mê muội) và cả
trở ngại trên hành trình (khó khăn). Thế
nhưng “Ai đã đặt tên cho dòng sông”, “Đời
rừng”, “Hoa trái quanh tôi” lại thiên về chủ
đề thiên nhiên Huế, con người Huế. Và dĩ
nhiên như đã nói, chủ đề miêu tả không thể
không ảnh hưởng đến sự lựa chọn ngôn từ
của tác giả.
3.1. Về phương diện lý thuyết, trong
quá trình cọ xát với tự nhiên, con người
cho rằng hoặc có thể chinh phục được nó
hoặc có thể phụ thuộc vào nó. Với chủ
trương tri nhận là một quá trình tương tác,
tri nhận luận thừa nhận, con người không
thể không để lại dấu ấn lên hiện thực, đến
lượt nó, hiện thực không thể không tác động
lên con người. Đây là những nguyên lý có
tính chất phổ quát cho toàn thể nhân loại.
Có thể nói, bên cạnh các ẩn dụ tri
nhận phổ biến thuộc nhiều cấp độ khác
nhau như: Thiên nhiên là con người,
Hoàng Phủ Ngọc Tường đã địa phương
hoá thành các ẩn dụ bậc dưới Thiên nhiên
Huế là con người Huế, Cây vườn Huế là
con người Huế. Ví dụ ẩn dụ khái quát: “Có
lẽ thiên nhiên Việt Nam cũng có sức sống
dẻo dai giống con người Việt Nam [1,
tr.364]. Hãy quan sát hai ẩn dụ cụ thể sau:
- Ẩn dụ cụ thể 1: “Vườn Huế, dù giàu
hay nghèo thường vẫn có cổng gạch, mái
khá rộng, phía ngoài trồng vài cây có quả,
ấy là chỗ dừng chân qua cơn mưa, là chút
bóng mát dành cho người đi đường, là chút
lộc hoa dành cho trẻ con trong xóm, cổng
nhìn ra nên luôn ngụ tấm lòng người thơm
thảo” [1, tr.374].
- Ẩn dụ cụ thể 2: “Tôi bắt gặp cả
những chiếc nón bài thơ mảnh khảnh bọc
ni lông giữ gìn cẩn thận từ năm này qua
năm khác mà lâu lâu người chủ nó lại đem
ĐẬU THÀNH VINH
97
ra soi bên bếp lửa đánh vần từng chữ.
Đường về xứ Huế xinh xinh, sông Hương
núi ngự cảm tình xiết bao” [1, tr.22].
Dễ thấy, ẩn dụ tri nhận khái quát trừu
tượng có thể bắt gặp trong nhiều ngôn ngữ,
còn các ẩn dụ nguyên cấp dễ quan sát
thường xuất hiện trong những ngôn ngữ cụ
thể. Dựa vào đặc điểm này, Hoàng Phủ
Ngọc Tường đã thổi vào trang viết của
mình cái chất Huế, cái hồn Huế một cách tự
nhiên mà người đọc không thấy gượng ép.
3.2. Trong tâm thức của người Việt,
sông nước có một vai trò hết sức quan
trọng, sông nước được hình dung như một
con người, hành trình của dòng sông là
hành trình của đời người, thậm chí con
người sinh ra từ nước và khi chết cũng trở
về với nước. Trên nền tảng ấy, Hoàng Phủ
Ngọc Tường một mặt, khai thác tối đa
không gian tinh thần đã trở thành máu thịt
của người Việt, mặt khác đã cố khắc họa cá
tính của dòng sông Hương theo các kiểu ẩn
dụ khác nhau. Có thể kể đến các ẩn dụ cụ
thể như sau: Sông Hương là con người Huế
hay thậm chí là những tầng lớp cụ thể của
xã hội Huế như: người mẹ “cần cù, người
mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở”,
“người con gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa
cách đồng Châu Hóa”, “người tài nữ đánh
đàn lúc đêm khuya”, “cô gái thành tiên
trong truyện cổ tích thuỳ mị”. Có lẽ ẩn dụ
sau đây đã tổng kết khá đầy đủ “tính tình”
của sông Hương và cũng là đặc điểm của
người Huế: “Trước khi về với vùng châu
thổ êm đềm, nó (sông Hương) đã là một
bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa
những bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua
những ghềnh thác, cuộn xoáy như những
cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn, và cũng
có những lúc nó trở nên dịu dàng say đắm
giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của
hoa đỗ quyên rừng. [1, tr.316].
3.3. Với cách hình dung như 3.1 và
3.2, trong giới hạn các tác phẩm đã khảo
sát, chúng ta có thể tổng kết mối quan hệ
giữa ý niệm nguồn và ý niệm đích. Cần lưu
ý, theo các nhà tri nhận luận, thường con
người thông qua những sự vật, hiện tượng
cụ thể có tính vật chất, hữu hình dễ quan
sát, để nhận thức sự vật hiện tượng trừu
tượng phi vật chất ít được trải nghiệm. Do
vậy không có gì ngạc nhiên khi con người
dùng ý niệm nguồn là thiên nhiên, là dòng
sông để nhận thức về con người. Cách
chọn lựa ngôn từ của Hoàng Phủ Ngọc
Tường vẫn nằm trong quỹ đạo này, bên
cạch đó, tác giả còn khắc hoạ thêm cá tính,
đặc trưng của Huế thông qua các ẩn dụ cụ
thể. Điều này một mặt làm cho những trang
viết của ông dù là bút ký, một thể loại ghi
chép nhưng vẫn mang đậm tính chất học
thuật, mặt khác những phân tích về Huế
thông qua các ẩn dụ đã tạo nên một bút
pháp khó lẫn lộn. Có thể tóm tắt mối quan
hệ giữa ý niệm nguồn và ý niệm đích trong
bút ký của tác giả bằng bảng sau:
STT Ý NIỆM NGUỒN Ý NIỆM ĐÍCH
1 Con ong Con người
2 Động vật Kẻ xâm lược
3 Thiên nhiên Con người
4 Rừng cây Sinh thể
5 Rừng cây Anh hùng
ẨN DỤ TRI NHẬN TRONG MỘT SỐ BÚT KÝ CỦA HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG
98
6 Rừng cây Người mẹ
7 Rừng cây Người đẹp
8 Động vật Con người
9 Cây cối Nhân chứng
10 Dòng song Con người
11 Mặt đất Tâm hồn
12 Cây cối Nhân chứng
13 Hoa hồng Chiến thắng
14 Lửa Tình cảm, nhiệt tình
15 Con dốc Khó khăn
16 Núi non Con người
Có thể thấy, trên nền tảng những đặc
điểm do tương tác mà có, nói khác, Hoàng
Phủ Ngọc Tường từ những trải nghiệm của
chính mình đã gán cho sự vật hiện tượng
trong một số trường hợp trên tất cả cho
thấy tình cảm gắn bó với quê hương sâu
đậm như thế nào của tác giả. Công bằng
mà nói, thiên nhiên là con người, rừng cây
là con người; có thể thấy cách hình dung
này xuất hiện ở các tác giả khác nhưng để
có được những ẩn dụ bậc dưới về Huế, về
con người Huế thì sâu sắc nhất vẫn là ngòi
bút tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
4. Một trong những vấn đề làm nên
hạt nhân của ngôn ngữ học tri nhận là lý
thuyết nghiệm thân. Nói rõ hơn, thông qua
những kinh nghiệm với chính cơ thể mình,
con người dùng nó như trải nghiệm cơ bản
để nhận thức các sự vật hiện tượng khác.
Chẳng hạn, tư thế thẳng đứng của con
người trong lúc di chuyển, tư thế ngang
trong lúc nằm, di chuyển một cách tách
biệt trên mặt phẳng. Tất cả những trải
nghiệm này đều được dùng để phóng chiếu
lên hiện thực như: vui thì thường được
hình dung là lên, buồn thì được hình dung
là xuống, sống là lên, chết là xuống, tích
cực là rộng, là sáng, tiêu cực là hẹp, là tối.
Liên quan trực tiếp đến vấn đề đang bàn là
giá trị biểu trưng của các bộ phận cơ thể
con người. Tuy chưa có điều kiện khảo sát
tất cả những tác phẩm của Hoàng Phủ
Ngọc Tường nhưng có thể ghi nhận bước
đầu, bên cạnh việc dùng đầu biểu trưng cho
lý trí, trí tuệ, trái tim biểu trưng cho tình
cảm, cảm xúc, tùy theo ngữ cảnh ta thấy
tác giả còn dùng các cơ quan nội tạng như:
bụng, dạ, lòng, ruột, gan với cùng chức
năng như hai bộ phận trước. Điều này, có
thể giải thích được, cách phân chia có tính
chất nhị nguyên: đầu/tim là ảnh hưởng của
triết học phương Tây còn có cách lý giải
bụng/dạ ảnh hưởng của tri thức dân gian
phương Đông (11). Riêng về phương diện
này phần nào cho thấy tính chất dung hợp
như một quan điểm kế thừa trong bút pháp
của ông. Theo quan sát của chúng tôi trong
100 ẩn dụ nghiệm thân, sự phân bố các bộ
phận cơ thể trong bút ký của Hoàng Phủ
Ngọc Tường có thể hình dung bằng bảng
tổng kết như sau:
ĐẬU THÀNH VINH
99
STT BỘ PHẬN CƠ THỂ GIÁ TRỊ BIỂU TRƯNG
1 Đầu Lý trí, trí tuệ
2 Tim Tình cảm, cảm xúc
3 Bụng Tính tình, cách ứng xử, tình cảm
4 Dạ Trí tuệ, trạng thái tâm lý
5 Ruột Tâm trạng, cảm xúc
6 Lòng Cảm xúc, tình cảm, trạng thái
7 Gan Ý chí, can đảm
8 Các bộ phận khác Nghĩa tuỳ thuộc vào ngữ cảnh
Có thể ghi nhận bao trùm lên tất cả là
ẩn dụ các bộ phận cơ thể con người là vật
chứa có thể được định vị bên trong hay bên
ngoài. Hình như Hoàng Phủ Ngọc Tường
chưa có ý thức khai thác đặc trưng này, cho
nên những mô tả của ông không có khác
biệt gì nhiều so với không gian tinh thần
của người Việt.
5. Ẩn dụ tri nhận là lĩnh vực khá mới
mẻ trong ngành ngôn ngữ. Tuy vậy, đây là
lĩnh vực phát triển mạnh mẽ vượt ra ngoài
phạm trù văn chương. Ẩn dụ tri nhận là sự
mở rộng tri thức, cung cấp sự hiểu biết về
một đối tượng này thông qua sự hiểu biết
về một đối tượng khác. Bằng cách đó, con
người tạo ra cho mình sự hiểu biết về một
đối tượng khác đã biết. Phạm vi hành chức
của ẩn dụ rất rộng: trong văn học, nghệ
thuật và hầu hết các lĩnh vực đời sống
thường nhật. Ẩn dụ không chỉ là phương
tiện và cách thức biểu hiện của ngôn ngữ
mà nó còn là phương thức tư duy. Nó là
một quá trình thao tác của tư duy dẫn đến
tri nhận thế giới, tạo ra nền tảng tri thức
mới dựa trên nền tảng những cái đã biết.
Xuất phát từ phương thức ẩn dụ mà
con người có thể nhận biết thế giới, gồm
thế giới vật chất, thế giới tinh thần, thế giới
cảm xúc. Ẩn dụ gắn liền với đặc trưng văn
hóa của người bản ngữ.
Chúng ta không thể có được sự đánh
giá cao về chức năng của tư duy ẩn dụ
trong văn học hay trong đời sống con
người, nếu không có kiến thức sơ bộ về ẩn
dụ là gì và nó hình thành như thế nào.
Những khám phá gần đây về mặt bản thể
của nó đã cho thấy ẩn dụ sẽ không là gì cả
nếu như nó ở ngoại vi đời sống tinh thần.
Trái lại, ẩn dụ tri nhận là trung tâm đối với
sự hiểu biết của chúng ta với chính bản
thân mình và xã hội. Văn chương thông
qua ẩn dụ, phát triển năng lực tinh thần, thể
hiện cá tính sáng tạo dựa vào các lược đồ
thường qui.
Ẩn dụ tri nhận là một bộ phận hợp
thành của sự sáng tạo ngôn ngữ và khả
năng nhận thức của con người về thế giới
khách quan. Ngôn ngữ học tri nhận với hệ
lí thuyết ẩn dụ ý niệm, hiện nay được nhiều
nhà nghiên cứu chú ý và được vận dụng
nối kết hai miền ý niệm xảy ra trong quá
trình tư duy của con người. Các nhà ngôn
ngữ học tri nhận hi vọng tìm ra những
điểm mới về bản chất của ẩn dụ mà những
quan niệm truyền thống dường như chưa
bao quát đầy đủ. Đó là chuyển tâm điểm
của sự chú ý từ ẩn dụ trong ngôn ngữ sang
ẩn dụ trong trí não, xem đó là chìa khóa
mở ra sự hiểu biết những cơ sở của tư duy,
là hoạt động của quá trình nhận thức. Bài
ẨN DỤ TRI NHẬN TRONG MỘT SỐ BÚT KÝ CỦA HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG
100
viết ngắn này, chúng tôi khảo sát các ẩn dụ
tri nhận về con người và thiên nhiên trong
các truyện ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường
theo quan niệm ẩn dụ tri nhận của Lakoff
và Johnson. Bên cạnh đó, những khám phá
mới về những đặc điểm của các yếu tố
ngôn ngữ trên bình diện ẩn dụ trong ký của
ông cũng được nhìn nhận và đánh giá lại.
Có thể thấy, bản chất thiên nhiên và
con người Huế đã được Hoàng Phủ Ngọc
Tường mô tả một cách tài hoa. Nói khái
quát, từ ẩn dụ thiên nhiên và con người,
thậm chí là sông Hương và nói rộng ra là
bối cảnh Huế, là con người Huế. Phải gắn
bó máu thịt với Huế như thế nào mới có
được những trang viết sâu nặng, mới có thể
miêu tả, khắc họa sinh động được như thế.
Zotan Kovecses có lý khi cho rằng,
mọi sáng tạo có tính cá nhân của nhà văn
đều dựa vào không gian tinh thần bản ngữ.
Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng không phải
là ngoại lệ, ông thường xây dựng ẩn dụ
thông qua các phương thức khai thác sau:
- Chi tiết hóa, tức thông qua một số ẩn
dụ tri nhận có tính khái quát, nhà văn đã cụ
thể hóa các ẩn dụ ấy bằng những cảm nhận
riêng của mình, ví dụ: xuất phát từ ẩn dụ:
đời người là cỏ cây, đời người là một năm,
nói rõ hơn, các mùa xuân, hạ, thu, đông
được ánh xạ như cuộc đời của một con
người, mùa xuân là tuổi trẻ, mùa đông là
tuổi già xế bóng, ánh sáng là sự sống, bóng
tối là cái chết. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã
mô tả một cách chi tiết con người Huế
thông qua cây cỏ như thế nào. Các mùa
Xuân, Hạ, Thu, Đông và những biểu hiện
của con người Huế như thế nào và cuối
cùng thời gian là quy luật của tạo hóa với
những dấu ấn và đặc điểm được miêu tả
qua không gian, thời gian Huế như thế nào.
- Mở rộng nghĩa, phương thức này cho
thấy sự chuyển nghĩa không những dựa
vào ẩn dụ tri nhận mà còn dựa vào cả hoán
dụ tri nhận. Ví dụ: Xuất phát từ cách tri
nhận mặt thay thế cho con người, rừng cây
là con người, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã
rất nhiều lần đề cập đến bộ mặt của rừng
cây. Hay như đã nói, từ ẩn dụ gần gũi vật
chất là gần gũi con người, Hoàng phủ
Ngọc Tường đã đề cập đến giá trị truyền
thống của chiếc nón bài thơ Huế; nón bài
thơ Huế chính là con người Huế.
- Tổng hợp, đây là phương thức thông
qua các ẩn dụ thường qui, cùng một lúc
khai thác nhiều loại ẩn dụ như: ẩn dụ chi
tiết hóa, ẩn dụ mở rộng nghĩa, ẩn dụ tra
vấn, thậm chí kết hợp với các hoán dụ,
nhân hoá, so sánh. Hoàng Phủ Ngọc Tường
đã sử dụng một cách uyển chuyển tất cả
các phương thức trên, chính điều này đã
làm nên tính chất trí tuệ trong bút ký của
ông và cũng chính điều này, từ phía người
đọc, việc nhận hiểu và lý giải tác phẩm của
ông một cách thấu đáo quả là điều không
dễ dàng.
Như vậy, xét cả trên bình diện các ẩn
dụ thường quy khái quát và cả những ẩn dụ
mang tính sáng tạo cá nhân, Hoàng Phủ
Ngọc Tường đều sử dụng một cách đa
dạng phong phú, bằng cách kết hợp nhiều
loại ẩn dụ khác nhau. Rất tiếc, do điều kiện
hạn chế của một bài báo ngắn, chúng tôi
chưa có dịp khảo sát kỹ, chưa phân loại
một cách chi tiết, mà ở đây chỉ có tính chất
đặt vấn đề cho những nghiên cứu tiếp theo.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoàng Phủ Ngọc Tường (2002), Tuyển tập,
tập 2 – Bút ký, Nxb Trẻ.
2. Kövecses Z. (2005), Metaphor in Culture
Universality and Variation, Cambridge
University Press, Cambrige.
3. Lakoff G and Johnson M. (1980, 2003),
Metaphors we live by, The university of
Chicago, The United States of American.
4. Lakoff G. and Johnson M. (1989), More than
cool reason: A field guide to poetic metaphor,
The university of Chicago, Chicago.
ĐẬU THÀNH VINH
101
5. Nguyễn Đức Tồn (2010), Đặc trưng Văn hoá
– Dân tộc của ngôn ngữ và tư duy, Nxb
Từ điển Bách khoa.
6. Sharifian F. (2011), Cultural conceptualization,
John Benjamins publishing company,
Amsterdam/Philadelphia.
7. Trịnh Sâm (2011), “Miền ý niệm sông nước
trong tri nhận của người Việt”, Tạp chí
Ngôn ngữ, (12), tr.1-15.
8. Trịnh Sâm (2011), “Dòng sông và cuộc đời”,
Tạp chí Ngôn ngữ & Đời sống, (10), tr.31-34.
9. Trịnh Sâm (2013), “Phong cách ngôn ngữ Hồ
Chí Minh, nhìn từ góc độ ngôn ngữ học tri
nhận”, Tạp chí Ngôn ngữ & Đời sống, (1, 2),
tr.2-15.
10. Trịnh Sâm (2014), “Miền ý niệm sông nước
trong tri nhận của người Nam Bộ” trong
“Ngôn ngữ học Việt Nam trong bối cảnh đổi
mới và hội nhập”, kỷ yếu Hội thảo quốc tế,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
11. Trịnh Sâm (2014), “Một vài nhận xét về ý
niệm “Tim””, Tạp chí Từ điển học và bách
khoa thư số 4.
12. Trịnh Sâm, (2015), “Hình thức và nội dung
trong tri nhận luận” (một vài ghi nhận), Tạp
chí ngôn ngữ số 7.
Ngày nhận bài: 28/6/2015 Biên tập xong: 15/9/2015 Duyệt đăng: 20/9/2015