Tóm tắt
Với mục tiêu xem xét ảnh hưởng của số liệu bề mặt đến chu trình ngày của
nhiệt độ mô phỏng, nghiên cứu đã thiết lập chạy mô hình WRF cho khu vực thành
phố Hồ Chí Minh và lân cận trong 09 đợt với cùng lựa chọn về các tham số vật lý
và sơ đồ tham số hóa nhưng khác nhau về số liệu sử dụng đất. Kết quả cho thấy, sự
thay đổi điều kiện bề mặt làm thay đổi kết quả mô phỏng của mô hình. Mức độ khác
nhau của điều kiện bề mặt được phản ánh ở hai nguồn số liệu đất quyết định mức
độ khác nhau của kết quả mô phỏng. Nghiên cứu cũng cho thấy, độ chính xác của
kết quả mô phỏng phụ thuộc vào mức nhiệt độ thực tế trên khu vực nghiên cứu và
thời gian trong ngày. Ngoài ra, sự biến đổi của cán cân bức xạ và thông nhiệt nhiệt
từ bề mặt khi điều kiện sử dụng đất thay đổi là một trong những nguyên nhân dẫn
đến sự thay đổi của kết quả mô hình.
10 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 495 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng của bề mặt đến chu trình ngày nhiệt độ mô phỏng của mô hình WRF, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu
Tạp chí Khoa học Tài nguyên và Môi trường - Số 16 - năm 2017
57
ẢNH HƯỞNG CỦA BỀ MẶT ĐẾN CHU TRÌNH NGÀY
NHIỆT ĐỘ MÔ PHỎNG CỦA MÔ HÌNH WRF
Trần Đình Linh; Chu Thị Thu Hường
Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội
Tóm tắt
Với mục tiêu xem xét ảnh hưởng của số liệu bề mặt đến chu trình ngày của
nhiệt độ mô phỏng, nghiên cứu đã thiết lập chạy mô hình WRF cho khu vực thành
phố Hồ Chí Minh và lân cận trong 09 đợt với cùng lựa chọn về các tham số vật lý
và sơ đồ tham số hóa nhưng khác nhau về số liệu sử dụng đất. Kết quả cho thấy, sự
thay đổi điều kiện bề mặt làm thay đổi kết quả mô phỏng của mô hình. Mức độ khác
nhau của điều kiện bề mặt được phản ánh ở hai nguồn số liệu đất quyết định mức
độ khác nhau của kết quả mô phỏng. Nghiên cứu cũng cho thấy, độ chính xác của
kết quả mô phỏng phụ thuộc vào mức nhiệt độ thực tế trên khu vực nghiên cứu và
thời gian trong ngày. Ngoài ra, sự biến đổi của cán cân bức xạ và thông nhiệt nhiệt
từ bề mặt khi điều kiện sử dụng đất thay đổi là một trong những nguyên nhân dẫn
đến sự thay đổi của kết quả mô hình.
Từ khóa: Ảnh hưởng của bề mặt, chu trình ngày của nhiệt độ, mô hình WRF,
WRF_USGS, WRF_MODIS
Abstract
Effect of Land-use Data on Daily Temperature Cycle Simulated from
WRF Model
To examine effects of land-use data on the daily temperature cycle simulated
from numerical model, study has used the WRF model for Ho Chi Minh city
and nearby areas. Total of 09 simulations with the same physical options and
parametric functions using different land-use data have been run. The results
show that the surface conditions have effects on the simulation results of model.
Differences of surface conditions reflected on two surface resources data determine
the differencesof simulation results. The study also shows that the accuracy of
simulation results depends on the actual temperature in the study area and the day
time. In addition, the variation of radiation balance and heat flux from surface is
one of the reasons leading to the change of model results.
Keywords: Effect of land-use, daily temperature cycle, WRF_USGS,
WRF_MODIS.
1. Mở đầu
Bề mặt Trái Đất là một thành phần
có vai trò quan trọng trong sự hình thành
thời tiết và khí hậu.Các loại bề mặt khác
nhau có độ phản xạ, độ phát xạ khác nhau,
từ đó cán cân bức xạ và cân bằng năng
lượng tại bề mặt cũng khác nhau. Hơn
nữa, mỗi loại bề mặt cũng có đặc trưng
nhiệt, độ ghồ ghề riêng. Do đó, sự trao đổi
nhiệt qua lại với khí quyển cũng như sự
tương tác giữa địa hình với hoàn lưu khí
quyển cũng thay đổi tùy thuộc vào loại bề
mặt. Sự biến đổi của bề mặt đất, đặc biệt
là độ ẩm đất và độ ghồ ghề của bề mặt có
ảnh hưởng lớn đến điều kiện khí hậu của
một khu vực nhất định [6].
Đối với mô phỏng hay dự báo thời
tiết (khí hậu) bằng mô hình số trị, việc
Nghiên cứu
Tạp chí Khoa học Tài nguyên và Môi trường - Số 16 - năm 2017
58
lựa chọn nguồn số liệu bề mặt cũng ảnh
hưởng rất lớn đến kết quả của mô hình.
Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng kết quả mô
phỏng mô hình số phụ thuộc nhiều vào
nguồn số liệu bề mặt được sử dụng. Kết
quả mô phỏng mưa, kể cả cường độ và
phân bố không gian của lượng mưa thay
đổi đáng kể khi điều kiện bề mặt thay
đổi [8]. Các khu vực nhiệt độ cao (hay
thấp), lượng mưa lớn (hay nhỏ) theo kết
quả của mô hình phụ thuộc vào điều
kiện bề mặt trong mỗi nguồn số liệu đất,
độ chính xác của kết quả mô phỏng phụ
thuộc vào sự sai lệch của nguồn số liệu
đất được sử dụng so với điều kiện thực
tế [5]. Sự thay đổi của điều kiện bề mặt
do quá trình đô thị hóa cũng làm thay
đổi điều kiện thời tiết của các khu vực,
đặc biệt là chế độ nhiệt. Các vùng lõi đô
thị, do tập trung dân cư cao và tỉ lệ bề
mặt bị bê tông hóa lớn thường có nhiệt
độ cao hơn vùng ngoại ô, hình thành
nên hiệu ứng đảo nhiệt đô thị. Sự dịch
chuyển của các vùng nhiệt cao (thấp)
giữa ngày và đêm phụ thuộc vào mức độ
tập trung dân cư và loại bề mặt, mức độ
phủ thực vật và khả năng trao đổi nhiệt
giữa bề mặt và khí quyển [7].
Ở Việt Nam, những nghiên cứu về
ảnh hưởng của bề mặt đến đặc điểm thời
tiết, khí hậu nói chung và ảnh hưởng
đến kết quả mô hình số nói riêng chủ
yếu mới xem xét đến khía cạnh phân
bố không gian của kết quả mô phỏng
[1, 2, 3, 4]. Chính vì vậy, trong nghiên
cứu này, tác giả sẽ tập trung xem xét sự
thay đổi đặc điểm chu trình ngày của
nhiệt độ mô phỏng từ mô hình trên các
khu vực có điều kiện bề mặt khác nhau
(hoặc giống nhau) từ hai nguồn số liệu
đất USGS và MODIS.
: Đất đô thị và xây dựng
: Đất nông nghiệp khô cằn
: Đất nông nghiệp
: Đất nông nghiệp/thực vật tự nhiên
: Cây bụi; : Xa van
: Đồng cỏ; : Cây xanh
: Rừng; : Bề mặt nước
Hình 1: Bản đồ điều kiện sử dụng đất MODIS (trái) và USGS (phải)
2. Số liệu và phương pháp
nghiên cứu
2.1. Số liệu
Số liệu được sử dụng trong nghiên
cứu gồm số liệu quan trắc, số tái phân
tích NCEP-FNL và số liệu bề mặt đất.
Số liệu quan trắc của ba trạm trong khu
vực nghiên cứu gồm Tân Sơn Nhất,
Vũng Tàu và Biên Hòa được sử dụng
để xem xét, lựa chọn các đợt mô phỏng
và đánh giá kết quả mô phỏng của mô
hình. Số liệu NCEP-FNL được dùng làm
điều kiện biên và điều kiện ban đầu cho
Nghiên cứu
Tạp chí Khoa học Tài nguyên và Môi trường - Số 16 - năm 2017
59
việc thiết lập chạy mô hình. Số liệu đất
được sử dụng là số liệu vệ tinh của cơ
quan khảo sát địa chất Hoa Kỳ USGS
(USGS - U.S. Geological Survey) và
vệ tinh MODIS của hải quân Hoa Kỳ
(MODIS - Moderate Resolution Imaging
Spectroradiometer). Cả hai nguồn số liệu
này được cung cấp cho người dùng đi
kèm mô hình WRF. Hai nguồn số liệu
này có sự thể hiện khác nhau về điều kiện
bề mặt trên khu vực nghiên cứu, trong
đó số liệu đất MODIS phản ánh gần với
thực tế hơn so với số liệu USGS (hình 1).
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Mô hình WRF phiên bản 3.6.1
được sử dụng và thiết lập chạy cho trên
khu vực Tp. Hồ Chí Minh và lân cận.
Mô hình được thiết lập chạy với 04 miền
tính lồng nhau với độ phân giải lần lượt
là 27km, 9km, 3km và 1km (hình 2). Có
tất cả 09 đợt được chạy mô phỏng, trong
đó có 03 đợt trên khu vực có mức nhiệt
cao, 03 đợt có mức nhiệt trung bình và
03 đợt có mức nhiệt thấp. Với mỗi đợt,
mô hình được chạy với hai tùy chọn số
liệu đất khác nhau như đã nêu.
Ảnh hưởng của bề mặt đến kết quả
mô phỏng của mô hình được đánh giá
bằng cách xem xét chu trình ngày nhiệt
độ mô phỏng của miền tính trong cùng
khi sử dụng nguồn số liệu đất khác nhau
trên 04 khu vực, gồm:
- Khu vực U-1: Khu vực đất đô thị
theo số liệu MODIS;
- Khu vực U-2: Khu vực đất đô thị
theo số liệu USGS;
- Khu vực W: Khu vực diện tích bề
mặt nước theo số liệu MODIS;
- Khu vực C: Khu vực đất trồng trọt
theo cả hai nguồn số liệu đất.
Nghiên cứu cũng tiến hành so sánh
chu trình ngày của nhiệt độ mô phỏng
với chu trình ngày tại 03 trạm trên khu
vực nghiên cứu. Cả ba trạm này (Tân
Sơn Nhất, Vũng Tàu và Biên Hòa) đều
nằm trong khu vực có loại bề mặt khác
nhau từ hai nguồn. Vùng đất đô thị - xây
dựng theo số liệu MODIS và vùng đất
nông nghiệp theo số liệu USGS.
Hình 2: Miền tính mô hình
3. Kết quả và thảo luận
3.1. Chu trình ngày của nhiệt độ
mô phỏng trung bình các khu vực
Sự biến đổi theo thời gian của nhiệt
độ mô phỏng trung bình trên các khu
vực trong 03 đợt đại diện gồm đợt có
mức nhiệt thấp (từ 26 đến 28/01/2010),
đợt có mức nhiệt trung bình và đợt có
mức nhiệt cao (01 đến 03/4/2010 và 17
đến 20/5/2010) được thể hiện ở hình 3.
Nghiên cứu
Tạp chí Khoa học Tài nguyên và Môi trường - Số 16 - năm 2017
60
Hình 3: Biến đổi theo thời gian của nhiệt độ mô phỏng trung bình các khu vực (Urban
(Nonurban): Đất đô thị (không đô thị); Cropland: Đất nông nghiệp; Mixedland: Đất hỗn hợp)
Kết quả cho thấy sự thay đổi đáng
kể trong tương quan nhiệt độ mô phỏng
của mô hình khi loại bề mặt thay đổi. Ở
khu vực mà hai nguồn số liệu sử dụng
đất khác nhau thì kết quả mô phỏng
khác nhau đáng kể, còn ở khu vực mà
số liệu đất khá đồng nhất thì kết quả là
khá tương đồng. Cụ thể, ở khu vực đô thị
theo số liệu MODIS (khu vực U-1: hàng
trên, bên trái) nhiệt độ mô phỏng của
sản phẩm WRF_MODIS cao hơn so với
của sản phẩm WRF_USGS. Cả những
ngày có mức nhiệt thấp, những ngày có
mức nhiệt vừa và những ngày mức nhiệt
cao thì ở tất cả các bước đầu ra mô hình
(01h, 07h, 13h và 19h) sản phẩm WRF_
MODIS đều cho thấy nhiệt độ cao hơn
WRF_USGS. Chênh lệch giữa hai mô
phỏng nhỏ vào ban ngày và chập tối (13h
và 19h) và lớn hơn vào lúc giữa đêm hoặc
sáng sớm (01h và 07h). Vào lúc 01h hoặc
07h thì chênh lệch giữa hai mô phỏng là
gần 10C, có thời điểm có thể lên tới 2 đến
30C (ngày 27, 28, 29/01/2010).
Khu vực U-2 (hàng trên, bên phải)
thì có tương quan ngược lại, nhiệt độ mô
phỏng của WRF_USGS lại cao hơn so
với WRF_MODIS.Tuy nhiên chênh lệch
giữa hai mô phỏng không lớn như ở khu
vực U-1. Đến khu vực bề mặt nước trong
theo số liệu MODIS(khu vực W: hàng
dưới, bên trái) thì chênh lệch giữa hai
mô phỏng là rất lớn. Đây là khu vực mà
hai nguồn số liệu sử dụng đất thể hiện sự
tương phản của bề mặt lớn, theo số liệu
MODIS thì khu vực này là vùng diện tích
bề mặt nước còn theo số liệu USGS thì
đây là khu vực đất trồng trọt. Vào ban
ngày (lúc 13h), mô phỏng WRF_USGS
ở khu vực này cao hơn WRF_MODIS
từ 3 đến 40C, có ngày đến 50C. Ngược
lại, vào lúc nửa đêm và sáng sớm (01h
và 07h) thì mô phỏng của WRF_MODIS
lại cao hơn từ 1 đến 20C. Cuối cùng đến
khu vực mà hai nguồn số liệu thể hiện
gần giống nhau về số liệu đất (khu vực
Nghiên cứu
Tạp chí Khoa học Tài nguyên và Môi trường - Số 16 - năm 2017
61
C: hàng dưới, bên phải) thì hai mô phỏng
cho thấy kết quả gần tương đương nhau
trong tất cả các bước thời gian.
3.2. So sánh nhiệt độ tại các trạm
quan trắc
Trong những ngày có mức nhiệt
thấp (hình 4), tại trạm Biên Hòa và trạm
Tân Sơn Nhất, vào lúc 13h thì cả hai mô
phỏng thường cao hơn thực tế, và mô
phỏng WRF_USGS là gần với quan trắc
hơn. Vào các mốc thời gian khác (19h,
01h và 07h) thì mô phỏng lại thấp hơn
thực tế quan trắc.Ở các mốc thời gian này,
mô phỏng WRF_MODIS lại phù hợp với
thực tế hơn.Tại trạm Vũng Tàu, trong cả
bốn mốc thời gian, cả hai mô phỏng đều
cho kết quả thấp hơn quan trắc khá lớn,
trong đó mô phỏng WRF_MODIS có sai
số nhỏ hơn so với WRF_USGS.
Hình 4: So sánh nhiệt độ mô phỏng và
quan trắc tại các trạm trong các ngày có
mức nhiệt thấp
Tương tự, trong những ngày có
mức nhiệt vừa phải (hình 5), tại cả ba
trạm đều có đặc điểm tương tự như
trong những ngày có mức nhiệt thấp.
Trong những ngày có nhiệt độ cao
(hình 6), tại trạm Biên Hòa và trạm Tân
Sơn Nhất, ta thấy cả hai mô phỏng đều
thấp hơn quan trắc trong cả bốn obs quan
trắc (sự thống nhất về thời gian quan sát
trên toàn thế giới, hay chuyên ngành gọi
là obs quan trắc), trong đó mô phỏng của
WRF_MODIS gần với quan trắc hơn
so với mô phỏng của WRF_USGS.Còn
tại trạm Vũng Tàu thì cũng có quan hệ
tương tự như trong hai trường hợp đã xét.
Như vậy, tại trạm Biên Hòa và
trạm Tân Sơn Nhất mô phỏng WRF_
MODIS tốt hơn so với WRF_USGS
tại các mốc thời gian 19h, 01h và 07h
đối với cả ba trường hợp. Còn tại thời
điểm 13h, mô phỏng WRF_USGS
gần với quan trắc hơn trong các ngày
có nhiệt độ thấp và nhiệt độ vừa phải,
ngược lại lệch với quan trắc nhiều hơn
trong những ngày có nhiệt độ cao. Tại
trạm Vũng Tàu, cả hai mô phỏng đều
thấp hơn quan trắc, trong đó mô phỏng
WRF_MODIS là tốt hơn.
Nghiên cứu
Tạp chí Khoa học Tài nguyên và Môi trường - Số 16 - năm 2017
62
Hình 5: So sánh nhiệt độ mô phỏng và
quan trắc tại các trạm trong các ngày có
mức nhiệt vừa phải
Hình 6: So sánh nhiệt độ mô phỏng và
quan trắc tại các trạm trong các ngày có
mức nhiệt cao
Nghiên cứu
Tạp chí Khoa học Tài nguyên và Môi trường - Số 16 - năm 2017
63
3.3. Chu trình ngày của cán cân
bức xạ các dòng thông lượng nhiệt từ
bề mặt
Để giải thích sự khác nhau trong
kết quả mô phỏng WRF_MODIS và
WRF_USGS, nghiên cứu xem xét sự
biến đổi của cán cân bức xạ và các dòng
thông lượng nhiệt từ bề mặt, những yếu
tố có ảnh hưởng trực tiếp đến nhiệt độ.
Trên khu vực đô thị U-1 được thể
hiện trên hình 7, là khu vực mà nhiệt độ
mô phỏng của WRF_MODIS luôn cao
hơn WRF_USGS ở các mốc thời gian.
Kết quả về sự biến đổi ở trên hình 3.19
cũng cho thấy cán cân bức xạ và thông
lượng hiển nhiệt (SH) lúc 13h theo mô
phỏng WRF_MODIS cũng luôn cao
hơn so với WRF_USGS. Về thông
lượng ẩn nhiệt (LH), mô phỏng WRF_
USGS cho thấy LH lớn hơn nhiều so
với WRF_MODIS. Chênh lệch giữa
SH và LH của WRF_MODIS lớn, giá
trị này ở mốc thời gian 13h thường từ
300 W/m2 trở lên, có ngày đạt gần 400
W/m2. Còn đối với mô phỏng WRF_
USGS, giá trị chênh lệch này không
đến 100 W/m2, có ngày hai giá trị gần
tương đương nhau, thậm chí LH còn
lớn hơn.Ở khu vực đô thị U-2 (hình 8),
mối tương quan ngược lại.
Hình 9 cho thấy cán cân bức xạ
trên khu vực bề mặt nước của mô phỏng
WRF_MODIS cao hơn so với WRF_
USGS. Với SH thì mô phỏng WRF_
USGS lại cao hơn hẳn, còn với LH thì mô
phỏng WRF_MODIS lại cho thấy giá trị
cao hơn nhưng lại có sự biến đổi rất phức
tạp. Trên khu vực đất trồng trọt (hình 10)
cho thấy cả cán cân bức xạ, SH và LH
đều có giá trị gần tương đương nhau giữa
hai mô phỏng ở tất cả các mốc thời gian.
Chỉ ở mốc thời gian 13h, với cán cân bức
xạ và SH thì mô phỏng WRF_MODIS có
nhỉnh hơn một ít. Kết quả này góp phần
giải thích tại sao nhiệt độ mô phỏng của
hai sản phẩm ở khu vực này cũng bằng
hoặc xấp xỉ nhau.
Hình 7: Sự biến đổi theo thời gian của cán cân bức xạ (Net Radiation) và thông lượng
nhiệt (Heat Flux) từ bề mặt trung bình ở khu vực đô thị U-1
Nghiên cứu
Tạp chí Khoa học Tài nguyên và Môi trường - Số 16 - năm 2017
64
Hình 8: Tương tự hình 7 nhưng ở khu vực đô thị U-2
Hình 9: Tương tự hình 7 nhưng ở khu vực bề mặt nước W
Nghiên cứu
Tạp chí Khoa học Tài nguyên và Môi trường - Số 16 - năm 2017
65
Như vậy, sự biến đổi theo thời gian
của cán cân bức xạ và các dòng thông
lượng nhiệt, đặc biệt đối với cán cân bức
xạ và SH có sự phù hợp với sự biến đổi
của nhiệt độ, chênh lệch của cán cân bức
xạ và SH giữa hai mô phỏng trên các
khu vực cũng rất phù hợp với chênh lệch
nhiệt độ. Từ đây chúng ta có thể kết luận
rằng chính sự thay đổi của cán cân bức
xạ và SH là nguyên nhân chính dẫn đến
sự thay đổi của nhiệt độ mô phỏng. Cụ
thể, trên những khu vực có cán cân bức
xạ và SH của mô phỏng WRF_MODIS
lớn hơn so với WRF_USGS thì ở khu
vực đó nhiệt độ mô phỏng của WRF_
MODIS là lớn hơn. Và ngược lại, khu
vực có cán cân bức xạ và SH của mô
phỏng WRF_MODIS nhỏ hơn thì ở khu
vực đó nhiệt độ mô phỏng của WRF_
MODIS là nhỏ hơn. Còn ở những khu
vực mà hai mô phỏng cho kết quả tương
đương nhau về cán cân bức xạ và SH
thì nhiệt độ mô phỏng cũng gần tương
đương nhau. Nguyên nhân sâu xa chính
là sự khác nhau về đặc điểm bề mặt và
độ ẩm đất, dẫn đến sự khác nhau của độ
phản chiếu, của độ phát xạ, rồi của cán
cân bức xạ, SH và LH.
4. Kết luận
Nghiên cứu đã thiết lập chạy mô
hình WRF mô phỏng nhiệt độ trên khu
vực thành phố Hồ Chí Minh trong 09
đợt với cùng điều kiện về các tùy chọn
vật lý và sơ đồ tham số hóa nhưng khác
nhau về số liệu sử dụng đất. Với mỗi
trường hợp, mô hình được chạy với hai
lựa chọn số liệu đất khác nhau là số liệu
đất USGS và số liệu đất MODIS. Kết
quả cho thấy, sự thay đổi điều kiện bề
mặt làm thay đổi kết quả mô hình. Qua
phân tích các kết quả thu được, nghiên
cứu đi đến một số kết luận sau:
- Kết quả mô phỏng của mô hình
phụ thuộc vào điều kiện bề mặt được
phản ảnh trong mỗi nguồn số liệu đất
được sử dụng. Mức độ khác nhau của
điều kiện bề mặt giữa hai nguồn số
Hình 10: Tương tự hình 7 nhưng ở khu vực đất trồng trọt C
Nghiên cứu
Tạp chí Khoa học Tài nguyên và Môi trường - Số 16 - năm 2017
66
liệu quyết định mức độ khác nhau giữa
hai mô phỏng WRF_USGS và WRF_
MODIS.
- Độ chính xác của kết quả mô
phỏng phụ thuộc vào mức nhiệt độ
thực tế trên khu vực nghiên cứu. Trong
những ngày có nhiệt độ cao, mô phỏng
WRF_MODIS tốt hơn mô phỏng của
WRF_USGS ở cả bốn obs quan trắc
trong ngày. Trong khi những ngày có
mức nhiệt độ vừa phải và thấp, mô
phỏng WRF_USGS cho thấy kết quả tốt
hơn ở obs 13h.
- Sự biến đổi của cán cân bức xạ
và thông lượng nhiệt từ bề mặt là một
trong những nguyên nhân dẫn đến sự
khác giữa hai mô phỏng WRF_USGS
và WRF_MODIS.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Phan Văn Tân, Dư Đức Tiến
(2005). “Ảnh hưởng của tính bất đồng nhất
bề mặt đệm đến các trường nhiệt độ và
lượng mưa mô phỏng bằng mô hình RegCM
trên khu vực Đông Dương và Việt Nam”,
Tạp chí khoa học, Đại học Quốc gia Hà
Nội, T.XXI, số 4, tr. 57-68.
[2]. Phan Văn Tân (2005). “Đánh giá
vai trò của địa hình và điều kiện mặt đệm
trong mô hình số mô phỏng và dự báo khí
hậu khu vực Việt Nam - Đông Dương”,
Báo cáo tổng kết dề tài NCKH Đặc biệt cấp
ĐHQG Hà Nội, mã số QG.04.13.
[3]. Lương Văn Việt (2008). “Một số
kết quả bước đầu về ứng dụng mô hình
MM5 trong nghiên cứu hiệu ứng đảo nhiệt
đô thị tại thành phố Hồ Chí Minh”, Tạp chí
Phát triển Khoa học và Công nghệ, 11 (04-
2008), tr. 79-92.
[4]. Lương Văn Việt (2010). “Mô phỏng
sự thay đổi nhiệt độ thành phố Hồ Chí Minh
theo qui hoạch đô thị đến năm 2020”, Tạp chí
Phát triển Khoa học và Công nghệ, 13 (M1-
2010), tr. 5-13.
[5]. Fang-Yi Cheng, Yu-Ching Hsu,
and Pay-Liam Lin (2012). “Investigation
of the effects of different land use and land
cover patterms on mesoscale meteorological
simulations in the Taiwan area”, Journal of
applied Meteorology and Climatology, 52,
pp. 570-587.
[6]. Katherine Klink, Cort J. Willmott
(1994). “Influence of soil moisture and
surface roughness heterogeneity on modeled
climate”, Climate Research, (1994) Vol. 4:
105-118.
[7]. Steve Kardinal Jusuf, Nyuk Hien
Wong, Emlyn Hagen, Roni Anggoro,
and Yan Hong (2007). “The influence
of land use on the urban heat island in
Singapore”, Habitat International, 32(2),
pp. 232-242.
[8]. W. Moufouma-Okia, and D. P.
Rowell (2009). “Impact of soil moisture
initialisation and lateral boundary
conditions on regional climate model
simulations of the West African Monsoon”,
Climate Dynamic,DOI 10.1007/s00382-
009-0638-0.
BBT nhận bài: Ngày 2/5/2017; Phản biện xong: Ngày 25/5/2017