Tóm tắt
Chế độ thủy văn của Tứ Giá c Long Xuyên chịu sự chi phối mạnh của chế độ
dòng chảy thượng nguồn sông Mê Công, chế độ dòng chảy của vùng đồng bằng
sông Cửu Long, chế độ mưa nội đồng và thủy triều. Độ dốc lòng sông nhỏ, địa hình
khá bằng phẳng, gây khó khăn trong việc thoát lũ, tạo điều kiện thuận lợi cho nước
mặn xâm nhập sâu vào dòng chính và kênh rạch nội đồng. Xâm nhập mặn do nước
biển chảy ngược vào các kênh tăng lên do nước biển dâng làm giảm chất lượng
nước ngọt gây bất lợi cho vùng Tứ Giá c Long Xuyên. Bà i bá o đã nghiên cứu và
chỉ ra được cơ sở và phương pháp đánh giá tác động của biến đổi khí hậu đến xâm
nhập mặn của vù ng TGLX trong những năm gần đây
6 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 415 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến xâm nhập mặn ở vùng tứ giác Long Xuyên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu
Tạp chí Khoa học Tài nguyên và Môi trường - Số 17 - năm 2017 99
Ả NH HƯỞ NG CỦ A BIẾ N ĐỔ I KHÍ HẬ U ĐẾ N XÂM NHẬ P
MẶ N Ở VÙ NG TỨ GIÁ C LONG XUYÊN
Trần Quang Hợp, Nguyễn Thị Thùy Linh
Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội
Tó m tắ t
Chế độ thủy văn của Tứ Giá c Long Xuyên chịu sự chi phối mạnh của chế độ
dòng chảy thượng nguồn sông Mê Công, chế độ dòng chảy của vùng đồng bằng
sông Cửu Long, chế độ mưa nội đồng và thủy triều. Độ dốc lòng sông nhỏ, địa hình
khá bằng phẳng, gây khó khăn trong việc thoát lũ, tạo điều kiện thuận lợi cho nước
mặn xâm nhập sâu vào dòng chính và kênh rạch nội đồng. Xâm nhập mặn do nước
biển chảy ngược vào các kênh tăng lên do nước biển dâng làm giảm chất lượng
nước ngọt gây bất lợi cho vùng Tứ Giá c Long Xuyên. Bà i bá o đã nghiên cứ u và
chỉ ra đượ c cơ sở và phương pháp đánh giá tác động của biến đổi khí hậu đến xâm
nhậ p mặ n củ a vù ng TGLX trong nhữ ng năm gầ n đây.
Từ khoá : Biế n đổ i khí hậ u, xâm nhậ p mặ n, Tứ Giá c Long Xuyên.
The impacts of climate change to salinity intrusion in the Long Xuyen
quadrangle
Hydrologic system of the Long Xuyen Quadrangle is strongly infl uenced by
the upstream fl ow regime of the Me Kong River, fl ow system of the Mekong Delta,
rainfall regime and tidal regime. The slope of the river bed, fl at terrain bring some
diffi culties in fl ood drainage process. It also brings advantage conditions for saline
intrudes deeply into mainstream and inland canals. Salinity intrusion due to the
fl owing back of sea water into the canals, because of the rising sea level that reduces
the quality of fresh water, which is detrimental to the Long Xuyen Quadrangle.
This article has investigated and showed the basis and methods of assessing the
impact of climate change on salinity intrusion in the Long Xuyen Quadrangle area
in recent years.
Keywords: Climate change, Salinity intrusion, Long Xuyen Quadrangle.
1. Mở đầu
Vùng Tứ giác Long Xuyên có diện
tích rộng gần 499.000 ha với tổng dân
số 2,38 triệu người (theo số liệu thống
kê năm 2015), bao gồm 15 đơn vị hành
chính cấp huyện thuộc 3 tỉnh An Giang,
Kiên Giang và TP. Cần Thơ. Trong đó
80% dân số sống ở khu vực nông thôn
với nghề nông là chính [3].
Hiện tượng xâm nhập mặn xuất
hiện mạnh mẽ những năm gần đây, phân
tích các chuỗi số liệu quan trắc mặn
từ năm 1991 nhận thấy: độ mặn có xu
thế tăng, những năm xuất hiện độ mặn
lớn như năm 1998 là 24,1 ‰, Từ năm
2001 - 2005 liên tục xuất hiện độ mặn
≥ 20‰, năm 2010 lên 23‰. Năm mặn
kỷ lục 2016 quan trắc được tại Rạch Giá
đạt đến 30‰. Đây là năm có độ mặn
xâm nhập sâu nhất vào các sông, sâu
hơn cùng kỳ những năm trước. Trên địa
bàn tỉnh Kiên Giang dọc theo sông Cái
Lớn xâm nhập sâu lên đến 65 km. Trên
hệ thống kênh Rạch Giá - Long Xuyên,
kênh Cái Sắn và Đòn Dong nước mặn
xâm nhập từ 5 - 10 km, với nồng độ ảnh
hưởng đến lúa đo được 4 - 5‰. Độ mặn
trên kênh Tám Ngàn (tại ranh giới An
Nghiên cứu
Tạp chí Khoa học Tài nguyên và Môi trường - Số 17 - năm 2017100
Hình 1: Bản đồ hành chính vùng Tứ giác Long Xuyên
Giang - Kiên Giang và khu vực tiếp giáp
kênh Rạch Giá - Hà Tiên) ở mức 1,4‰.
Tại khu vực bến phà Vàm Rầy cũ (kênh
Rạch Giá - Hà Tiên) và vị trí cầu Sóc
Triết (kênh Tri Tôn), độ mặn 1,3‰. Tại
cầu Tân Tuyến (kênh 10), cầu Tân Vọng
2 (ranh An Giang - Kiên Giang), cầu
Kênh Ranh (ngã ba kênh Ninh Phước 2
- kênh Tri Tôn) và cầu Tân Chí Thành
(cách cầu Xã Diễu về phía Kiên Giang
khoảng 2,5 km), độ mặn 1,2‰. Đến
ngày 23 tháng 2, độ mặn tại các trạm
Thoại Giang 3, Kiên Hảo, Mỹ Hiệp
Sơn, Vĩnh Điều, Xã Diễu, Cây Gòn,
Vĩnh Cầu và Phú Lâm từ 1,2 - 1,5‰ [2].
2. Cơ sở và phương phá p đá nh giá
Theo tính toán của Ủy hội sông
Mê Công và Viện Khoa học Khí tượng
Thủy văn và Biến đổi khí hậu, lưu
lượng mùa cạn tại trạm Kratie đều có
xu hướng tăng theo từng giai đoạn:
Kịch bản A2 (tương ứng với RCP8,5)
giai đoạn 2010 - 2019 tăng 3,8%, giai
đoạn 2020 - 2029 tăng 16,5%, giai đoạn
2030 - 2039 tăng 8,1%, giai đoạn 2040
- 2049 tăng 17,6%. Kịch bản B2 (tương
ứng với RCP6.0) giai đoạn 2010 - 2019
giảm - 4,5%, giai đoạn 2020 - 2029
tăng 13,6%, giai đoạn 2030 - 2039
tăng 11,2%, giai đoạn 2040 - 2049 tăng
3,5%. [1, 4]
Vì vậy, tổng hợp các bài toán tính
toán ảnh hưởng của BĐKH đến xâm
nhập mặn như sau:
Phương án Thời kỳ nền: mô tả lại
diễn biến trận mặn lớn 1998; Kết quả
tính toán theo phương án này được lấy
làm cơ sở nền để so sánh với kết quả tính
toán theo các phương án tính toán khác.
1, Phương án A1 giai đoạn 2010 -
2020: mô tả diễn mặn trên hệ thống ứng
với lũ tại Kratie năm 1998 với tỷ lệ tăng
VÙNG TGLX
Nghiên cứu
Tạp chí Khoa học Tài nguyên và Môi trường - Số 17 - năm 2017 101
3,8%, kịch bản RCP 8,5 và mức nước
biển dâng 8 cm;
2, Phương án A2 giai đoạn 2021 -
2030: mô tả diễn mặn trên hệ thống ứng
với lũ tại Kratie năm 1998 với tỷlệ tăng
16,5%, kịch bản RCP 8,5 và mức nước
biển dâng 12 cm;
3, Phương án A3 giai đoạn 2031 -
2040: mô tả diễn mặn trên hệ thống ứng
với lũ tại Kratie năm 1998 với tỷ lệ tăng
8,1%, kịch bản RCP8,5 và mức nước
biển dâng 18 cm;
4, Phương án A4 giai đoạn 2041 -
2050: mô tả diễn mặn trên hệ thống ứng
với lũ tại Kratie năm 1998 với tỷ lệ tăng
17,6%, kịch bản RCP 8,5 và mức nước
biển dâng 25 cm;
5, Phương án A5 giai đoạn 2011 -
2020: mô tả diễn mặn trên hệ thống ứng
với lũ tại Kratie năm 1998 với tỷ lệ giảm
-4,5%, kịch bản RCP 6,0 và mức nước
biển dâng 7 cm;
6, Phương án A6 giai đoạn 2021 -
2030: mô tả diễn mặn trên hệ thống ứng
với lũ tại Kratie năm 1998 với tỷ lệ tăng
13,6%, kịch bản RCP 6,0 và mức nước
biển dâng 11 cm;
7, Phương án A7 giai đoạn 2031 -
2040: mô tả diễn mặn trên hệ thống ứng
với lũ tại Kratie năm 1998 với tỷ lệ tăng
11,2%, kịch bản RCP 6,0 và mức nước
biển dâng 16 cm;
8, Phương án A8 giai đoạn 2041 -
2050: mô tả diễn mặn trên hệ thống ứng
với lũ tại Kratie năm 1998 với tỷ lệ tăng
3,5%, kịch bản RCP 6,0 và với nước
biển dâng 22 cm
Quá trình, đặc trưng dòng chảy tại
trạm thủy văn Kratie các phương án tính
toán được trình bày trong hình 2, 3 và
bảng 1, 2 [2; 4].
Hình 2: Quá trình dòng chảy tại Kratie 1998 và các thời kỳ, kịch bản A2 (RCP 8,5)
Hình 3: Quá trình dòng chảy tại Kratie 1998 và các thời kỳ, kịch bản B2 (RCP 6,0)
Nghiên cứu
Tạp chí Khoa học Tài nguyên và Môi trường - Số 17 - năm 2017102
Bảng 1: Các đặc trưng dòng chảy, mực nước ứng với các thời kỳ, kịch bản A2
(tương ứng RCP 8,5)
Đặc trưng/Thời kỳ 2020 2030 2040 2050
Q ngày 1998 (m3/s) Kratie 3,8 % 16,5 % 8,1 % 17,6 %
H thủy triều (m) 0,08 0,09 0,18 0,25
Bảng 2: Các đặc trưng dòng chảy ứng với các thời kỳ, kịch bản B2
(tương ứng RCP 6,0)
Đặc trưng/Thời kỳ 2020 2030 2040 2050
Q ngày 1998 (m3/s) Kratie -4,5 % 13,6 % 11,2% 3,5%
H thủy triều (m) 0,07 0,11 0,16 0,22
3. Hiệu chỉnh và kiểm định mô hình
Để đánh giá ảnh hưởng của biến đổi
khí hậu tới xâm nhập mặn vùng TGLX
đã áp dụng mô hình thủy lực Mike 11.
Mô hình hiệu chỉnh theo các số
liệu thực đo vào các tháng mùa khô của
năm 1998, 2011. Cụ thể, thời gian hiệu
chỉnh mô hình từ tháng 3 - 4 năm 1998
và kiểm định mô hình từ tháng 3 - 4 năm
2011. Đặc trưng hiệu chỉnh cho bài toán
mặn gồm mực nước và độ mặn tại một
số trạm khu vực nghiên cứu.
Phân tích hệ số NSI hiệu chỉnh và
kiểm định mực nước và mặn cho thấy mực
nước tính toán phù hợp với số liệu thực
đo cả về biên độ dao động lẫn giá trị tuyệt
tuyệt đối. Chênh lệch giữa số liệu thực đo
và kết quả mô phỏng khoảng từ 5÷10 cm.
Kết quả tính toán độ mặn tương đối
phù hợp với kết quả thực đo, tuy nhiên
sai số về hiệu chỉnh và kiểm định độ
mặn lớn hơn so với kết quả hiệu chỉnh
và kiểm định mực nước. Tại các trạm độ
mặn lên xuống gần như trùng pha với
thuỷ triều.
Từ các kết quả hiệu chỉnh và kiểm
định cho số liệu mực nước, độ mặ n tại
các trạm, với hệ số NSI khá lớn, ≥ 0,85,
có thể áp dụng mô hình tính toán cho
các kịch bản biến đổi khí hậu đến xâm
nhập mặn vùng nghiên cứu.
4. Kế t quả đánh giá ảnh hưởng
của BĐKH đến xâm nhập mặn
Sử dụng kết quả tính toán mực
nước biển dâng và sự thay đổi của dòng
chảy ở hạ lưu sông Mê Công để đánh
giá sự thay đổi của xâm nhập mặn ở hạ
lưu sông Mê Công thông qua sự thay
đổi mức độ nhiễm mặn 1‰, 4‰ [2].
Thông qua phân tích, so sánh kết
quả tính toán về chiều dài xâm nhập
của độ mặn 1‰ và 4‰ trong điều kiện
BĐKH (kịch bản RCP8,5 và RCP 6,0),
có thể rút ra một số nhận định sau:
- Theo cả 2 kịch bản, chiều dài
xâm nhập của độ mặn 1‰ và 4‰ trên
sông Kênh Rạch Giá - Long Xuyên tăng
lớn nhất, đây có thể do kênh ảnh hưởng
lớn từ triều tại Xẻo Rô trên sông Cái Bé,
nguồn nước lấy từ thượng nguồn qua
kênh nhỏ hơn;
- Mức tăng trong thời kỳ 2041 -
2050 cao hơn so với thời kỳ 2020 - 2039
do mức giảm của lưu lượng thượng
nguồn trong thời kỳ 2020 - 2039 thấp
hơn thời kỳ 2041 - 2050.
Đánh giá ảnh hưởng xâm nhập
mặn tại vùng nghiên cứu, nhận thấy 9
trong 15 huyện trong vùng TGLX bị
ảnh hưởng của xâm nhập mặn trong đó
huyện Kiên Lương có độ mặn 4‰ bao
trùm toàn bộ huyện.
Nghiên cứu
Tạp chí Khoa học Tài nguyên và Môi trường - Số 17 - năm 2017 103
Hình 4: Xâm nhập mặn ở TGLX (kịch bản nền)
Hình 5: Bản đồ xâm nhập mặn vùng TGLX ứng với kịch bản RCP 8,5 năm 2030 nước
biển dâng 12cm
Hình 6: Bản đồ xâm nhập mặn vùng TGLX ứng với kịch bản RCP 6,0 năm 2030 nước
biển dâng 11cm
Nghiên cứu
Tạp chí Khoa học Tài nguyên và Môi trường - Số 17 - năm 2017104
Việc đánh giá ảnh hưởng của xâm
nhập mặn đến sử dụng đất ở vùng TGLX
được thực hiện thông qua chồng lớp bản
đồ đường ranh giới độ mặn 1‰, 4‰ với
bản đồ sử dụng đất năm 2010.
Kết quả đánh giá ảnh hưởng của
xâm nhập mặn đến chiều dài, diện tích
và các loại đất cho thấy:
- Vào thời kỳ năm 2030 tới, với
kịch bản phát thải cao (RCP8,5) diện
tích đất lớn nhất có thể bị ảnh hưởng bởi
độ mặn lớn hơn 4‰ khoảng 2098 km2,
chiếm 43% diện tích đất tự nhiên vùng
TGLX, tăng 209 km2 so với thời kỳ nền
1991 - 2000; diện tích chịu ảnh hưởng
của độ mặn lớn hơn 1‰ khoảng 2368
km2, chiếm 48,4% diện tích tự nhiên,
tăng 261 km2. Với kịch bản phát thải
trung bình (RCP 6,0) diện tích đất lớn
nhất có thể bị ảnh hưởng bởi độ mặn lớn
hơn 4‰ khoảng 2024 km2, chiếm 41%
diện tích đất tự nhiên vùng TGLX, tăng
134 km2 so với thời kỳ nền 1991 - 2000;
diện tích chịu ảnh hưởng của độ mặn
lớn hơn 1‰ khoảng 2230 km2, chiếm
45% diện tích tự nhiên, tăng 124km2.
5. Kế t luậ n
Bà i bá o đã trì nh bà y mộ t phầ n
nghiên cứ u chí nh củ a đề tà i “Nghiên
cứu cơ sở khoa học, lựa chọn một số
giải pháp công trình chủ yếu giải quyết
bài toán cân bằng nước, thoát lũ và xâm
nhập mặn ứng phó với biến đổi khí hậu
vùng Tứ giác Long Xuyên”. Bà i bá o đã
cho thấ y bên cạnh những thuận lợi mà
tự nhiên đem lại thì TGLX cũng phải
luôn đối mặt với không ít khó khăn
và hạn chế về điều kiện dòng chảy và
các tài nguyên sinh vật, phù sa do phải
chịu những tác động, thách thức không
nhỏ và khôn lường từ các hoạt động ở
thượng lưu, biến đổi khí hậu và mực
nước biển dâng. Bà i bá o đã tí nh toá n,
đánh giá được tác động của biến đổi khí
hậu đến xâm nhập mặn vùng ven biển
TGLX trong những năm gần đây. Dòng
chảy mùa cạn thiếu hụt dẫn đến hiện
tượng xâm nhập mặn gia tăng, từ đó ảnh
hưởng đến sử dụng đất của các ngành
kinh tế. Kết quả của bà i bá o này là tài
liệu tham khảo cho các nhà quản lý, các
nhà khoa học trong công tác nghiên cứu
tài nguyên nước, quản lý nhà nước về tài
nguyên nước ở vùng TGLX.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Bộ Tài nguyên và Môi trường,
“Kịch bản biến đối khí hậu, nước biển dâng
cho Việt Nam, 2016”
[2] PGS.TS. Trần Hồng Thái, Chương
trình KHCN cấp nhà nước KHCN-
BĐKH/11-15 “Nghiên cứu ảnh hưởng của
biến đổi khí hậu đến sự biến đổi tài nguyên
nước đồng bằng sông Cửu Long”, 2013;
[3] Viện Khoa học Thủy lợi miền
Nam, “Nghiên cứu xâm nhập mặn phục vụ
phát triển KTXH của ĐBSCL” 2004;
[4] IPCC, “Báo cáo của Ủy ban liên
Chính phủ về biến đổi khí hậu”, 2007.
BBT nhận bài: Ngày 10/6/2017; Phản biện xong: Ngày 27/6/ 2017