Tóm tắt
Cao su tổng hợp etylen–propylen–dien đồng trùng hợp là một loại elastome tổng hợp đang được sử
dụng phổ biến trong ngành cao su, nhựa bởi đặc tính nổi bật về khả năng tương hợp với các loại vật
liệu khác và dạng trong suốt không màu của nó. Silica đang được sử dụng phổ biến nhất để gia cường
cho EPDM với mục đích sản phẩm có tính năng cơ lý phù hợp với các ứng dụng. Trong nghiên cứu này,
EPDM được biến tính bằng nanosilica và nanosilica đã được hoạt hóa bề mặt bằng Si69. Các tính chất
của vật liệu được khảo sát là: tính chất cơ lý, tính chất nhiệt, hình thái bề mặt và độ trong của vật liệu.
Kết quả cho thấy: Vật liệu EPDM/silica nanocompozit có tính chất cơ học thay đạt giá trị tốt nhất ở 30 pkl
nanosilica. Khi đó độ bền kéo đứt tăng lên 515%, nhiệt độ bắt đầu phân hủy đạt 260,400C (tăng 5,120C),
nhiệt độ phân hủy mạnh nhất đạt 375,660C (tăng 7,510C). Nanosilica phân tán trong vật liệu cao su ở
dưới dạng tập hợp, có kích thước lớn hơn 100 nm. Nanosilica biến tính có hiệu quả gia cường tăng lên
rõ rệt (ở hàm lượng nanosilica biến tính là 30 pkl, độ bền kéo tăng lên 21,1%, nhiệt độ bắt đầu phân hủy
tăng 4,930C, nhiệt độ phân hủy mạnh nhất tăng 4,080C, tốc độ phân hủy nhiệt chậm hơn 0,88%/phút so
với EPDM sử dụng nanosilica không biến tính ở cùng hàm lượng.
8 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 476 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng của nanosilica và tác nhân liên kết bis (3-Trietoxysilyl propyl) tetrasulphit (Si69) tới tính chất của cao su EPDM/silica nanocompozit, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
90
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 4(63).2018
Ảnh hưởng của nanosilica và tác nhân liên kết
bis (3-trietoxysilyl propyl) tetrasulphit (Si69) tới tính chất
của cao su EPDM/silica nanocompozit
Effects of nano-S iO2 and modified agen
bis (3-triethoxysilyl propyl) tetrasulfide (Si69)
on properties of EPDM/silica nanocomposites
Hoàng Thị Hòa, Tăng Thị Phụng
Email: hoangthihoadhsd@gmail.com
Trường Đại học Sao Đỏ
Ngày nhận bài: 6/10/2018
Ngày nhận bài sửa sau phản biện: 20/12/2018
Ngày chấp nhận đăng: 27/12/2018
Tóm tắt
Cao su tổng hợp etylen–propylen–dien đồng trùng hợp là một loại elastome tổng hợp đang được sử
dụng phổ biến trong ngành cao su, nhựa bởi đặc tính nổi bật về khả năng tương hợp với các loại vật
liệu khác và dạng trong suốt không màu của nó. Silica đang được sử dụng phổ biến nhất để gia cường
cho EPDM với mục đích sản phẩm có tính năng cơ lý phù hợp với các ứng dụng. Trong nghiên cứu này,
EPDM được biến tính bằng nanosilica và nanosilica đã được hoạt hóa bề mặt bằng Si69. Các tính chất
của vật liệu được khảo sát là: tính chất cơ lý, tính chất nhiệt, hình thái bề mặt và độ trong của vật liệu.
Kết quả cho thấy: Vật liệu EPDM/silica nanocompozit có tính chất cơ học thay đạt giá trị tốt nhất ở 30 pkl
nanosilica. Khi đó độ bền kéo đứt tăng lên 515%, nhiệt độ bắt đầu phân hủy đạt 260,400C (tăng 5,120C),
nhiệt độ phân hủy mạnh nhất đạt 375,660C (tăng 7,510C). Nanosilica phân tán trong vật liệu cao su ở
dưới dạng tập hợp, có kích thước lớn hơn 100 nm. Nanosilica biến tính có hiệu quả gia cường tăng lên
rõ rệt (ở hàm lượng nanosilica biến tính là 30 pkl, độ bền kéo tăng lên 21,1%, nhiệt độ bắt đầu phân hủy
tăng 4,930C, nhiệt độ phân hủy mạnh nhất tăng 4,080C, tốc độ phân hủy nhiệt chậm hơn 0,88%/phút so
với EPDM sử dụng nanosilica không biến tính ở cùng hàm lượng.
Từ khóa: Cao su; EPDM; nanosilica biến tính; nanocompozit; Si69.
Abstract
Ethylene-propylene-dien copolymer is a synthetic elastomers commonly used in the rubber and plastics
industries because of its outstanding properties. Silica is commonly used to enhance the mechanical,
thermal properties of EPDM. In this study, EPDM was reinforced by nanosilica and modified nanosilica.
The properties of the materials examined are: mechanical properties, thermal properties, surface
morphology and transparency of materials. Results showed that: EPDM / silica nanocomposite material
has the best mechanical properties at 30 pkl nanosilica, the material has improved properties the tensile
strength increased by 515%, the decomposition temperature reached 260.400C (increased 5.120C), the
highest decomposition temperature reached 375.660C (increased 7.510C). Nanosilica is dispersed in
rubber material in aggregated form, larger than 100 nm in size. Nanosilica modified surface properties
were more effective in improving material properties than untreated nanosilica at the same content:
tensile strength was greater than 21.1%, decomposition temperature was higher 4.930C the strongest
decomposition temperature was higher than 4.080C.
Keywords: EPDM; rubber; modified nanosilica; nanocomposite; Si69.
Người phản biện: 1. GS.TSKH. Đỗ Quang Kháng
2. TS. Lương Như Hải
LIÊN NGÀNH HÓA HỌC - CÔNG NGHỆ THỰC PHẨM
Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 4(63).2018 91
Chú thích một số từ viết tắt
EPDM Cao su etylen–propylen–dien
đồng trùng hợp
pkl Phần khối lượng
DCP Dicumyl peroxit
Si69
(TESPT)
B i s - ( 3 - t r i e t o x y s i l y l p r o p y l )
tetrasulfit
TGA Phân tích nhiệt trọng lượng
CSTN Cao su thiên nhiên
FESEM Kính hiển vi điện tử quét trường
phát xạ
VTEO Vinyl trietoxy silan
1. GIỚI THIỆU
Cao su tổng hợp etylen–propylen–dien đồng trùng
hợp là một loại elastome được tổng hợp lần đầu
tiên vào năm 1962, muộn hơn các loại elastome
khác; nhưng hiện nay nó là loại vật liệu đàn hồi
sử dụng nhiều nhất trong các chất dẻo tổng hợp.
Điểm nổi bật của EPDM là tính cách điện và độ
trong cao, tuy nhiên EPDM lại có nhược điểm là
độ bền cơ học kém [1].
Hình 1. Cấu trúc hóa học của cao su EPDM
Chính vì vậy, EPDM thường được phối trộn với
các chất gia cường và các loại cao su khác để
tạo blend khắc phục các nhược điểm tính năng
cơ lý kém của nó. Các chất gia cường như than
đen, silica, canxi cacbonat,... [2]. Khi sử dụng chất
độn silica cho EPDM, ngoài việc làm tăng tính
năng cơ lý, còn tạo ra được loại cao su có màu
từ trong suốt như thủy tinh tới trắng ngà tùy theo
yêu cầu sử dụng, đặc biệt là khi vật liệu được lưu
hóa bằng peroxit. Từ đây, việc tạo màu cho sản
phẩm cũng dễ dàng hơn [3]. Có thể kể đến như:
EPDM được gia cường bằng silica và vinylsilan
và các chất độn màu trắng, lưu hóa bằng peroxit
khác được sử dụng làm cáp, các loại gioăng,
profile và ống dẫn được lưu hóa bằng peroxit [4].
Các loại giày, dép đế cao su trong rất được ưa
chuộng gần đây thường được sản xuất từ các loại
cao su tổng hợp như EVA, PUR, EPDM... Ở Việt
Nam, chỉ tính riêng các tỉnh phía Bắc, nhu cầu cao
su trong cho sản xuất giày đã là 2900 tấn/năm.
Hàm lượng silica gia cường lên tới 50 pkl silica
và sử dụng TESPT (Si69) hoặc VTEO làm chất
tương hợp được lưu hóa bằng peroxit để tránh
màu vàng. Lốp ô tô, lốp xe mô tô và xe đạp cũng
dùng hệ gia cường là than đen và silica với nền
là cao su thiên nhiên, blend NR/EPDM. Cao su
EPDM/60 pkl silica có khả năng bền trong dung
dịch keton, alcol và este được sử dụng trong các
trục cán, con lăn [5].
Để chế tạo được các loại cao su nanocompozit với
chất gia cường silica có thể dùng phương pháp cán
trộn, trộn nóng chảy, phương pháp sol - gel. Phương
pháp trộn nóng chảy được nhiều tác giả [6-9] dùng
để chế tạo thành công cao su nanocompozit không
chỉ với EPDM mà còn với cả các loại cao su và cao
su blend khác như CSTN, BR, SBR, và blend
của chúng. Để đạt được hiệu quả tốt với phương
pháp này cần chú ý tới hệ số điền đầy (50-70%),
tốc độ trộn, nhiệt độ duy trì trong quá trình trộn và
thời gian trộn. Nanocompozit EPDM/silica đã được
tổng hợp bằng phương pháp sol - gel trong trường
hợp có và không có tác nhân tương hợp bis-(3-
trietoxysilylpropyl) tetrasulphit (TESPT) với hàm
lượng silica hình thành in-situ lên 40 pkl [10, 11].
Trong nghiên cứu này, vật liệu EPDM/silica
nanocompozit được chế tạo bằng phương pháp
trộn nóng chảy, sử dụng hệ lưu hóa peroxit với
mục đích tạo ra được loại vật liệu có tính năng cơ
lý, tính chất nhiệt tốt ở dạng trong suốt, phù hợp
cho việc chế tạo các vật liệu yêu cầu có độ truyền
qua cao.
2. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu nghiên cứu
Để thực hiện nghiên cứu này, các vật liệu được sử
dụng như sau:
- Cao su etylen-propylen-dien đồng trùng hợp
(EPDM), loại NDR 37060, Dow Chemicals.
- Nanosilica là loại Reolosil của Công ty Hóa chất
Akpa (Thổ Nhĩ Kỳ) có diện tích bề mặt riêng: 200
± 20 m2/g; cỡ hạt: 12–50 nm.
- Nanosilica biến tính bằng bis (3-trietoxysilyl propyl)
tetrasulphit (Si69) được chế tạo tại Viện Hóa học,
Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam.
- Phụ gia polyetylen glycol (PEG), PEG4000,
Dongnam, Trung Quốc.
- Dicumyl peroxide (DCP), Pudong-Dacao Shanghai
(Trung Quốc).
- Dầu quá trình (Trung Quốc).
92
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 4(63).2018
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Phương pháp chế tạo vật liệu
Công thức phối trộn cơ bản từ cao su EPDM và
các phụ gia được trình bày trong bảng 1.
Bảng 1. Công thức phối trộn tử EPDM và phụ gia
STT Thành phần Phần khối lượng
1 EPDM 100
2 DCP 4,5
3 PEG 2,0
4 Dầu quá trình 4
Trên cơ sở công thức phối trộn cơ bản, cao su
EPDM và các phụ gia (trừ DCP) được phối trộn
với nanosilica và nanosilica biến tính bằng Si69
có hàm lượng thay đổi từ 0; 1; 3; 5; 7; 10; 15; 20;
25; 30; 35 pkl.
Mẫu thí nghiệm được chế tạo bằng phương pháp
trộn kín trên máy trộn Brabender ở nhiệt độ 700C
trong thời gian 8 phút với tốc độ trục quay 50
vòng/phút; sau đó hạ nhiệt độ xuống 500C và trộn
với DCP trên máy cán hai trục. Hợp phần vật liệu
tạo thành được cán xuất tấm trên máy cán hai
trục và ép lưu hóa ở 145 ± 20C trong 10 phút với
áp suất 6 kG/cm2 trên máy ép thủy lực Toyosheiki
(Nhật Bản).
2.2.2. Xác định cấu trúc, tính chất của vật liệu
- Các tính chất cơ học gồm: Tính chất kéo (độ
bền kéo đứt, độ dãn dài khi đứt) được xác định
theo TCVN 4509:2006 (ISO 37–2006) trên máy
đo tính chất kéo của hãng Gester (Trung Quốc);
độ cứng của vật liệu được xác định theo TCVN
1595-1:007 (ISO 7619-1:2004) bằng dụng cụ
đo độ cứng TECLOCK (Jis K6301A) của Nhật
Bản; độ mài mòn của vật liệu được xác định theo
TCVN 1594–87 trên máy YG634 của hãng Ying
hui machine (Đài Loan, Trung Quốc).
- Độ trong của vật liệu được đánh giá thông qua
độ truyền qua của vật liệu trong vùng ánh sáng
400÷800 nm và so sánh với độ trong của mẫu cao
su ban đầu (Crepe) và vật liệu cao su trong mẫu
(vật liệu cao su trong làm đế giày của hãng Novi
– Nhật Bản).
- Tính chất nhiệt của vật liệu được xác định bằng
phương pháp phân tích nhiệt trọng lượng (TGA)
trên máy phân tích nhiệt Netzsch STA 490 PC/PG
(CHLB Đức) với tốc độ nâng nhiệt là 10oC/phút
trong môi trường không khí.
- Cấu trúc hình thái của vật liệu được nghiên cứu
bằng kính hiển vi điện tử quét trường phát xạ
(FESEM), thực hiện trên máy S-4800 của hãng
Hitachi (Nhật Bản).
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Ảnh hưởng của hàm lượng nanosilica đến
tính chất cơ học của vật liệu
Kết quả khảo sát ảnh hưởng của hàm lượng
nanosilica đến tính chất của vật liệu EPDM được
trình bày trong bảng 2.
Kết quả ở bảng 2 cho thấy, khi hàm lượng nanosilica
tăng từ 0 đến 15 pkl, độ bền kéo và độ dãn dài khi
đứt tăng rất chậm. Khi hàm lượng nanosilica trên
15 pkl, các tính chất này của vật liệu tăng mạnh
và đạt cực đại tại hàm lượng nanosilica là 30 pkl.
Tiếp tục tăng hàm lượng nanosilica, các tính chất
này lại có xu hướng giảm. Độ cứng của vật liệu
tăng dần khi hàm lượng nanosilica tăng. Trong khi
đó, độ mài mòn của vật liệu giảm khi hàm lượng
nanosilica tăng từ 0 đến khoảng 30 pkl, sau đó tính
chất này lại tăng khi hàm lượng nanosilica lớn hơn
30 pkl. Điều này có thể giải thích khi hàm lượng
nanosilica chưa lớn (nhỏ hơn 30 pkl) các hạt
nanosilica phân bố đều trong nền cao su EPDM
cho đến khi tạo thành hệ chất độn - cao su đan xen
chặt chẽ và đạt tối ưu thì độ mài mòn là thấp nhất.
Bảng 2. Ảnh hưởng của hàm lượng nanosilica đến tính chất cơ học của EPDM
Hàm lượng
nanosilica (pkl)
Độ bền kéo
(MPa)
Độ dãn dài
khi đứt (%)
Độ dãn dư
(%)
Độ mài mòn
(cm3/1,61 km)
Độ cứng
(Shore A)
0 2,0 150 16 1,03 45
1 2,0 170 17 1,02 47
3 2,5 180 18 1,02 48
5 2,7 215 19 1,01 49
7 3,0 230 19 0,98 50
LIÊN NGÀNH HÓA HỌC - CÔNG NGHỆ THỰC PHẨM
Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 4(63).2018 93
Hàm lượng
nanosilica (pkl)
Độ bền kéo
(MPa)
Độ dãn dài
khi đứt (%)
Độ dãn dư
(%)
Độ mài mòn
(cm3/1,61 km)
Độ cứng
(Shore A)
10 3,5 280 20 0,97 51
15 4,0 410 20 0,94 54
20 7,1 490 21 0,93 58
25 8,0 500 21 0,94 59
30 12,3 510 21 0,95 60
35 11,0 460 22 0,98 61
Khi hàm lượng nanosilica lớn hơn 30 pkl, các hạt
nanosilica có xu hướng tập hợp lại gây cản trở sự
tương tác giữa chất độn và nền cao su, do vậy, độ
mài mòn lại tiếp tục tăng, đồng thời các tính cơ học
khác của vật liệu giảm.
Tiếp tục sử dụng nanosilica biến tính Si69 gia
cường cho EPDM. Kết quả khảo sát ảnh hưởng
của hàm lượng nanosilica biến tính Si69 tới tính
chất cơ học của EPDM được trình bày trong
bảng 3.
Bảng 3. Ảnh hưởng của hàm lượng nanosilica đã biến tính bằng Si69 đến tính chất cơ học của EPDM
Hàm lượng
nanosilica (pkl)
Độ bền kéo
(MPa)
Độ dãn dài
khi đứt (%)
Độ dãn dư
(%)
Độ mài mòn
(cm3/1,61 km)
Độ cứng
(Shore A)
0 2,0 150 16 1.03 45,0
1 2,0 160 16 1,02 47,0
3 2,5 180 18 1,03 49,0
5 2,9 215 19 1,03 51,0
7 3,0 250 19 0,98 50,0
10 3,5 280 20,5 0,96 55,6
15 4,5 400 20 0,92 55,2
20 8,2 485 21 0,93 57,7
25 9,0 510 21 0,95 60,0
30 14,9 525 21 0,94 64,0
35 12,5 455 22 0,96 65,0
Từ bảng 3, nhận thấy rằng, khi thay nanosilica
chưa biến tính bằng nanosilica biến tính bằng
Si69 ở cùng hàm lượng, các tính chất cơ học của
vật liệu có xu hướng tương tự nhưng có giá trị
cao hơn, đặc biệt độ bền kéo của vật liệu tăng lên
đáng kể với hàm lượng nanosilica gia cường ở 30
pkl (tăng 21,1% so với nanosilica chưa biến tính
ở cùng hàm lượng). Khi hàm lượng nanosilica
tăng đến 35 pkl, độ bền kéo và độ dãn dài khi đứt
cùng giảm. Độ dãn dư, độ bền mài mòn, độ cứng
tăng lên khi hàm lượng nanosilica biến tính tăng.
Kết quả ở bảng 2 và 3 còn cho thấy, hàm lượng
nanosilica thích hợp biến tính EPDM đều ở mức
30 pkl cao hơn nhiều so với biến tính cao su thiên
nhiên (tối ưu 3 pkl), cao su butadien (tối ưu 25 pkl)
[12]. Điều này có thể giải thích do tương tác giữa
các đại phân tử EPDM không cao làm cho chúng
có khả năng dung nạp một lượng nanosilica lớn.
Kết quả này cũng phù hợp với một số công bố của
các tác giả khác [10, 11, 13] .
3.2. Ảnh hưởng của nanosilica đến cấu trúc
hình thái của vật liệu
Ảnh FESEM bề mặt cắt các mẫu vật liệu EPDM/
nanosilica tiêu biểu được biểu thị trên hình 2 và 3.
94
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 4(63).2018
Hình 2. Ảnh FESEM mặt cắt mẫu EPDM/30 pkl nanosilica
a. Nanosilica chưa biến tính; b. Nanosilica đã biến tính
a b
Hình 3. Ảnh FESEM mặt cắt mẫu EPDM/35 pkl nanosilica
a. Nanosilica chưa biến tính; b. Nanosilica đã biến tính
b
Kết quả trên ảnh FESEM cho thấy, ở hàm lượng
gia cường thích hợp là 30 pkl, nanosilica tồn tại
chủ yếu ở dưới dạng các tập hợp hạt có kích
thước 200÷500 nm và có những tập hợp có kích
thước tới 1 µm trong trường hợp nanosilica chưa
biến tính và đã biến tính. Tuy nhiên, khi nanosilica
được biến tính, các tập hợp hạt phân bố đều hơn
và kích thước cũng gần nhau hơn do Si69 đã làm
giảm tương tác giữa các hạt. Khi tăng hàm lượng
nanosilica lên 35 pkl, sự tạo tập hợp rất rõ ràng,
có những tập hợp có kích thước tới 3 µm và có
sự khác biệt về kích thước giữa vật liệu chứa
nanosilica chưa biến tính và nanosilica biến tính.
Với vật liệu sử dụng nanosilica chưa biến tính,
kích thước tập hợp hạt lớn hơn, dải phân bố kích
thước rộng hơn so với nanosilica đã được biến
tính. Kết quả tương tự cũng được công bố bởi các
tác giả khác [10].
3.3. Ảnh hưởng của nanosilica đến tính chất
nhiệt của vật liệu
Kết quả phân tích nhiệt trọng lượng của các
mẫu vật liệu EPDM, EPDM với nanosilica biến
tính và chưa biến tính được biểu thị trên hình
4, 5 và 6.
a
0 100 200 300 400 500 600 700
0
20
40
60
80
100
DTG/%/phuùtTG/%
Nhieät ñoä /oC
Toån hao khoái löôïng : -99.96%
368.15 oC, -17.86 %/phuùt
-20
-18
-16
-14
-12
-10
-8
-6
-4
-2
0
2
Hình 4. Giản đồ TGA của mẫu EPDM
0 100 200 300 400 500 600 700
20
40
60
80
100
-16
-14
-12
-10
-8
-6
-4
-2
0
2
Toån hao khoái löôïng: -81.40 %
375.66 oC, -13.66 %/phuùt
DTG/%/phuùtTG/%
Nhieät ñoä/oC
Hình 5. Giản đồ TGA của mẫu EPDM/30 pkl
nanosilica chưa biến tính
LIÊN NGÀNH HÓA HỌC - CÔNG NGHỆ THỰC PHẨM
Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 4(63).2018 95
100 200 300 400 500 600 700
20
40
60
80
100
-16
-14
-12
-10
-8
-6
-4
-2
0
2
Toån hao khoái löôïng: -77.61 %
380.5 oC, -12.78 %/phuùt
TG/%
DTG/%/phuùt
Nhieät ñoä /oC
Hình 6. Giản đồ TGA của mẫu EPDM/30 pkl
nanosilica đã biến tính Si69
Những kết quả phân tích chính được tập hợp
trong bảng 4.
Từ các giản đồ phân tích nhiệt nhận thấy, khi vật
liệu cao su có nanosilica chưa biến tính và đã biến
tính, nhiệt độ bắt đầu phân hủy vật liệu tăng (tăng
5,120C và 10,050C) so với cao su EPDM không
có chất gia cường. Nhiệt độ phân hủy mạnh nhất
của vật liệu cũng tăng (tăng tương ứng 7,510C và
11,590C). Tốc độ phân hủy nhiệt của vật liệu giảm
đáng kể (tương ứng 23,51% và 28,44%), đồng
thời tổn hao khối lượng đến 6000C của vật liệu
giảm (tương ứng 18,56% và 22,35%).
Bảng 4. Kết quả phân tích TGA của các mẫu vật liệu EPDM, EPDM với nanosilica biến tính và chưa
biến tính
Mẫu vật liệu
Nhiệt độ bắt
đầu phân hủy
(oC)
Nhiệt độ phân
hủy mạnh nhất
(oC)
Tổn hao khối
lượng đến
600oC (%)
Tốc độ phân
hủy nhiệt
(%/phút)
EPDM 255,28 368,15 99,96 17,86
EPDM/30 pkl nanosilica 260,40 375,66 81,40 13,66
EPDM/30 pkl nanosilica
biến tính 265,33 380,5 77,61 12,78
Kết quả ở trên có thể giải thích như sau: do
nanosilica là chất độn vô cơ có khả năng bền nhiệt
cao, mặt khác khi có mặt của nanosilica ở hàm
lượng thích hợp, vật liệu có cấu trúc chặt chẽ hơn.
Do vậy, khi đưa vào nền cao su đã làm tăng khả
năng bền nhiệt cho vật liệu. So sánh ảnh hưởng
của nanosilica chưa biến tính và nanosilica được
biến tính bằng Si69 ở cùng hàm lượng gia cường là
30 pkl tới tính chất nhiệt có thể thấy: khi nanosilica
được biến tính, giá trị nhiệt độ bắt đầu phân hủy
cao hơn 2,390C, nhiệt độ phân hủy mạnh nhất cao
hơn 4,080C và tổn hao khối lượng ít hơn 3,79%,
tốc độ phân hủy nhiệt chậm hơn 0,88%/phút. Như
vậy, có thể thấy khi được biến tính, nanosilica có
hiệu quả hơn trong việc nâng cao độ bền nhiệt của
vật liệu. Kết quả này có thể được giải thích là do
nanosilica biến tính phân tán đồng đều hơn trong
nền cao su, kích thước nhỏ hơn, tác nhân Si69 tạo
được cầu nối giữa nanosilica và nền cao su làm
tăng mật độ liên kết trong mạng lưới, giúp cấu trúc
của vật liệu chặt chẽ nên nhiệt độ phân hủy nhiệt
cao hơn.
3.4. Đánh giá độ trong của vật liệu
Tương tự ở các mục trên, độ trong của vật liệu
được đánh giá thông qua độ truyền qua của ánh
sáng vùng nhìn thấy (400-700 nm) khi đi qua vật
liệu. Bảng 5 là độ truyền qua của một số ánh sáng
có bước sóng trong vùng nhìn thấy sau khi đi qua
vật liệu EPDM gốc và vật liệu EPDM/nanosilica.
Từ kết quả có thể thấy: So với vật liệu EPDM gốc,
mẫu EPDM/nanosilica có độ truyền qua từ 81%
đến 84%; còn mẫu EPDM/nanosilica biến tính
bằng Si69 có độ truyền qua từ 84% đến khoảng
88%. Độ trong của vật liệu bị ảnh hưởng bởi kích
thước hạt nanosilica phân tán trong nền cao su.
Nanosilica phân tán càng nhỏ, vật liệu càng trong
và ngược lại khi hạt phân tán có kích thước lớn,
vật liệu có dạng trong mờ hoặc đục ngà [14]. Vật
liệu thu được có độ trong tốt chứng minh các hạt
nanosilica phân tán ở kích thước nanomet trong
nền cao su. So với vật liệu cao su mẫu, vật liệu thu
được có độ trong tốt hơn từ 1,3 đến 2,9 lần.
Bên cạnh đó, vật liệu EPDM/nanosilica được lưu
hóa bằng DCP nên đã loại bỏ được màu vàng là
nhược điểm của cao su khi lưu hóa bằng lưu huỳnh.
96
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 4(63).2018
Bảng 5. Độ truyền qua của các mẫu vật liệu EPDM, EPDM với nanosilica biến tính và chưa biến tính
Bước sóng
Vật liệu
420 nm 500 nm 600 nm 700 nm
Mẫu cao su trong đối chứng 0,158 0,290 0.345 0.440
EPDM gốc 0,552 0,609 0,656 0,665
EPDM/nanosilica chưa biến tính 0,444 0,500 0,538 0,558
EPDM/nanosilica biến tính Si69 0,464 0,520 0,543 0,585
4. KẾT LUẬN
Từ những kết quả nghiên cứu cho thấy:
- Vật liệu EPDM/silica nanocompozit chế tạo được
từ cao su EPDM và nanosilica có tính chất cơ học
thay đổi theo hàm lượng nanosilica và đạt giá trị
cao nhất ở 30 pkl. Khi đó độ bền kéo đứt tăng lên
515%, nhiệt độ bắt đầu phân hủy đạt 260,400C
(tăng 5,120C), nhiệt độ phân hủy mạnh nhất đạt
375,660C (tăng 7,510C). Nanosilica phân tán trong
vật liệu cao su ở dưới dạng tập hợp, có kích thước
lớn hơn 100 nm. Khi hàm lượng nanosilica vượt
quá hàm lượng tối ưu, các tập hợp nanosilica có
kích thước lớn hơn, đến kích thước micromet.
- Khi sử dụng nanosilica được biến tính ở cùng
hàm lượng, vật liệu có cấu trúc đều đặn hơn, các
tập hợp hạt