Tóm tắt
Sóng đông là nhiễu động sóng trong đới gió đông, có liên quan đến hoạt động
của áp cao cận nhiệt Tây Thái Bình Dương. Sóng đông ảnh hưởng đến miền Trung
Việt Nam, gây mưa trên khu vực. Phân tích số liệu mưa quan trắc 13 trạm khí tượng
và số liệu phân tích lại NCEP/NCAR giai đoạn 2006 - 2014 cho thấy, sóng đông
thường hoạt động ở mực 500 - 200mb, mạnh nhất 500 - 700mb, với những sóng
có cường độ mạnh có thể xuống đến mực 700mb. Sóng đông thường xuất hiện ở
khoảng 10 - 200N, trục sóng nghiêng về phía Đông, hướng Đông Bắc - Tây Nam,
gió trước trục sóng có hướng Đông Bắc, sau trục sóng có hướng Đông Nam, sóng
thường có dạng chữ “V” đảo ngược. Dạng chữ “V” xuất hiện rõ mực thấp cho
mưa lớn hơn dạng này xuất hiện mực cao. Độ hội tụ trước trục sóng có giá trị 0
đến 2 (10-4 s-1), vùng phân kỳ xuất hiện sau trục sóng với giá trị 0 đến -1 (10-4 s-1).
Thời gian kéo dài của sóng đông dao động 2 - 4 ngày đối với những đợt sóng đông
hoạt động độc lập; 4 - 6 ngày đối với sóng đông kết hợp với không khí lạnh tầng
thấp. Phân bố lượng mưa do ảnh hưởng của sóng đông khác nhau giữa các khu
vực, tháng 7 và 8 ở Bắc và Trung Trung Bộ, tháng 9, 10 và 11 tại khu vực Trung
và Nam Trung Bộ. Trong đó, khu vực Trung Trung Bộ luôn có lượng mưa lớn nhất.
Lượng mưa trung bình do các đợt sóng đông ảnh hưởng độc lập vào khoảng 20mm,
trong trường hợp sóng đông có cường độ mạnh có thể đạt tới 60mm. Song khi sóng
đông kết hợp với không khí lạnh tầng thấp, gây ra các đợt mưa to đến rất to trên
khu vực Trung và Nam Trung Bộ với lượng mưa trung bình của mỗi đợt dao động
100 - 250mm.
11 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 406 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng của sóng đông đến mưa trên khu vực miền Trung, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu
Tạp chí Khoa học Tài nguyên và Môi trường - Số 18 - năm 201774
ẢNH HƯỞNG CỦA SÓNG ĐÔNG ĐẾN MƯA TRÊN KHU
VỰC MIỀN TRUNG
Thái Thị Thanh Minh1, Lê Thị Thanh Tâm1, Thái Thị Mai Liên2
1 Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội
2 Trường Cao đẳng Sư phạm Nghệ An
Tóm tắt
Sóng đông là nhiễu động sóng trong đới gió đông, có liên quan đến hoạt động
của áp cao cận nhiệt Tây Thái Bình Dương. Sóng đông ảnh hưởng đến miền Trung
Việt Nam, gây mưa trên khu vực. Phân tích số liệu mưa quan trắc 13 trạm khí tượng
và số liệu phân tích lại NCEP/NCAR giai đoạn 2006 - 2014 cho thấy, sóng đông
thường hoạt động ở mực 500 - 200mb, mạnh nhất 500 - 700mb, với những sóng
có cường độ mạnh có thể xuống đến mực 700mb. Sóng đông thường xuất hiện ở
khoảng 10 - 200N, trục sóng nghiêng về phía Đông, hướng Đông Bắc - Tây Nam,
gió trước trục sóng có hướng Đông Bắc, sau trục sóng có hướng Đông Nam, sóng
thường có dạng chữ “V” đảo ngược. Dạng chữ “V” xuất hiện rõ mực thấp cho
mưa lớn hơn dạng này xuất hiện mực cao. Độ hội tụ trước trục sóng có giá trị 0
đến 2 (10-4 s-1), vùng phân kỳ xuất hiện sau trục sóng với giá trị 0 đến -1 (10-4 s-1).
Thời gian kéo dài của sóng đông dao động 2 - 4 ngày đối với những đợt sóng đông
hoạt động độc lập; 4 - 6 ngày đối với sóng đông kết hợp với không khí lạnh tầng
thấp. Phân bố lượng mưa do ảnh hưởng của sóng đông khác nhau giữa các khu
vực, tháng 7 và 8 ở Bắc và Trung Trung Bộ, tháng 9, 10 và 11 tại khu vực Trung
và Nam Trung Bộ. Trong đó, khu vực Trung Trung Bộ luôn có lượng mưa lớn nhất.
Lượng mưa trung bình do các đợt sóng đông ảnh hưởng độc lập vào khoảng 20mm,
trong trường hợp sóng đông có cường độ mạnh có thể đạt tới 60mm. Song khi sóng
đông kết hợp với không khí lạnh tầng thấp, gây ra các đợt mưa to đến rất to trên
khu vực Trung và Nam Trung Bộ với lượng mưa trung bình của mỗi đợt dao động
100 - 250mm.
Từ khóa: GATE (Chương trình nghiên cứu khí quyển toàn cầu); ECMWF
(Trung tâm dự báo thời tiết hạn vừa châu Âu); NCEP/NCAR (Trung tâm Quốc gia
Dự báo Môi trường/ Trung tâm Quốc gia nghiên cứu Khí quyển).
Abstract
The infl uence of easterly waves on rainfall in Central Vietnam
Easterly waves are wavelike disturbances in tropical easterly winds, related to
the northward movement of western Pacifi c subtropical high pressure. Rainfall of the
central Viet Nam is affected by easterly waves. The data used for this study are the
NCEP/NCAR reanalysis for 2006-2014 and the rainfall data of 13 meteorological
stations. We consider only the April-November period. Most easterly waves often
form between 500 mb and 200 mb, the waves tend to be strongest at 300 mb and 200
mb. Sometimes, the waves of the strong intensity can extend down to 700 mb. Easterly
waves tend to form between 10°N and 20°N. Waves generally tilt eastwardly. The
orientation of composite wave’s axis can shift to northeast - southwest. Winds are
generally from the NE ahead of axis and SE behind the axis. Easterly waves havethe
Nghiên cứu
Tạp chí Khoa học Tài nguyên và Môi trường - Số 18 - năm 2017 75
inverted V shape. When the inverted “V” shape occurs clearly in the low-level, it
will rain more heavily than the upper level. Convergence occurs ahead of the wave
axis with the value from 0 to 2 (s-1), while behind the wave axis we see divergence
with the value from 0 to -1(s-1). The waves have a duration of 2-4 days or 4-6 days
when combined with cold air in the low-level. Rainfall affected by easterly waves
are varied in different regions of the central Viet Nam; in July and August, it rains
in the north and middle of Central Vietnam , from September to November, rainfall
occurs in the middle and south of central Viet Nam. In particular, it rains the most
in the middle of central Viet Nam. The average rainfall affected by independent
waves is about 20 mm and reaches 60mm with the highest wave’s intensity.. When
combined with cold air in the low-level, easterly wave can cause heavy rain in the
middle and south of central Viet Nam with average rainfall from 100 to 250 mm.
Keywords: GATE (Global Atmospheric Research Program); ECMWF
(European Center for Medium Range Weather Forcasts); NCEP/NCAR (National
Centers for Environmental Prediction/National Center for Atmospheric Research)
1. Mở đầu
Nhiễu động vùng nhiệt đới có thể
xảy ra trên tất cả các quy mô thời gian.
Do tần suất xuất hiện cao và cường độ
lớn, các nhiễu động này ảnh hưởng rất
lớn đến thời tiết/khí hậu, đặc biệt là thời
tiết/khí hậu cực đoan [17]. Nguồn năng
lượng cung cấp chủ yếu cho các nhiễu
động nhiệt đới là không khí nóng ẩm.
Khi có sự xuất hiện của dòng thăng,
không khí trở nên bất ổn định, một
lượng ẩn nhiệt ngưng kết lớn sẽ được
giải phóng [13].
Sóng đông là một nhiễu động trong
đới gió đông ở vùng biển nhiệt đới khi
đới gió này phát triển mạnh cả về tốc
độ lẫn phạm vi hoạt động. Ngoài dải hội
tụ nhiệt đới, xoáy thuận nhiệt đới thì
sóng đông là nhiễu động chi phối khá
mạnh lượng mưa trên vùng duyên hải
miền Trung,Việt Nam. Lượng mưa ngày
do sóng đông gây ra có thể đạt tới 20 -
50mm, thậm chí có thể trên 50mm. Tuy
nhiên, các nghiên cứu sóng đông ở khu
vực Tây Thái Bình Dương nói chung và
Việt Nam chưa nhiều. Vì vậy, mục tiêu
của bài báo là tìm ra quy luật hoạt động
của sóng đông trên khu vực và mối liên
hệ với mưa trên vùng duyên hải miền
Trung, Việt Nam.
2. Các nghiên cứu trong và ngoài
nước về sóng đông
Dunn (1940) là người nhận ra tầm
quan trọng của sóng đông trong việc hình
thành các cơn bão nhiệt đới. Ông chỉ ra
rằng các sóng đẳng áp - sự dịch chuyển
của trường áp kết hợp với nhiễu động
thời tiết, xuất hiện các sóng ngang trên
bản đồ đẳng áp - là nguồn gốc của các
cơn bão nhiệt đới hình thành năm 1935,
1937 và 1938 [5]. Tiếp nối công trình của
Dunn, Reihl H. (1945 [14], 1965 [150])
đưa ra mô hình sóng đông, lạnh ở bề mặt
và nóng ở phía trên, sóng có độ nghiêng
từ phía đông lên đến giữa tầng đối lưu.
Cường độ cực đại của sóng tại mực 700
- 500mb. Phía trước trục sóng, khí áp
giảm và khí áp tăng phía sau trục sóng.
Carson (1969a [2], 1969b [3]) cho rằng
sóng đông khu vực châu Phi có thời gian
hoạt động 2 - 3 ngày và độ dài bước sóng
khoảng 2100km. Frank, N.L (1969) [8]
đưa ra mô hình mây của sóng đông dạng
chữ V đảo ngược khi phân tích dữ liệu
ảnh mây vệ tinh TIROS từ tháng 6 - 10
Nghiên cứu
Tạp chí Khoa học Tài nguyên và Môi trường - Số 18 - năm 201776
năm 1967, phía đông vùng biển Caribe.
Đặc biệt, mô hình mây dạng này thể hiện
rõ từ 250 - 300W. Như vậy, có thể nhận
thấy các nhiễu động trên lục địa châu Phi
là do ảnh hưởng của sóng đông. Song
các công trình nghiên cứu trên chưa đề
cập đến nguồn gốc hình thành loại nhiễu
động này.
Các nghiên cứu về sóng đông sau
thời kỳ này được hoàn thiện hơn. Năm
1972, Burpee [1] chỉ ra nguồn gốc của
sóng đông châu Phi là do sự tồn tại của
dòng xiết mực 700hPa trên vùng Tây Phi,
dòng xiết này hình thành do sự chênh
lệch nhiệt độ giữa không khí khô trên
sa mạc Sahara với không khí ẩm và mát
hơn ở phía nam lục địa châu Phi. Tác giả
cho biết, độ dài bước sóng đông khoảng
4000km, thời gian hoạt động 3 - 5 ngày,
cường độ cực đại gần mực 700mb.Từ
tháng 6 đến tháng 10, các sóng này lan
truyền qua Đại Tây Dương, một vài sóng
có thể đến phía đông Thái Bình Dương
và 60% cơn bão hình thành Đại Tây
Dương có nguồn gốc từ sóng đông.
Reed và Recker (1971) [12] chỉ ra
cấu trúc của sóng đông khu vực tây Thái
Bình Dương có sự thay đổi khi nó di
chuyển từ đông sang tây. Trục sóng có
độ nghiêng sang phía Đông, đến vùng
trung tâm trục sóng thẳng đứng, sau
đó di chuyển sang phía Tây, trục có độ
nghiêng ngược lại. Độ dài sóng khoảng
3000 - 4000 km, di chuyển về hướng tây
với vận tốc 9m/s. Độ ẩm tương đối cao
nhất khi ở rãnh và thấp nhất khi ở sống
và chiếm khoảng 55 - 75% ở tầng giữa
tầng đối lưu. Lượng mây và mưa ở trục
sóng và vùng phụ cận phía trước trục
sóng là lớn nhất, trung bình đạt được
1,5 - 2 cm/ngày. Sự chênh lệch nhiệt độ
giữa rãnh và sống cao nhất vào khoảng
80C ở mực 400mb, song đến mực 200mb
thì sự chênh lệch này là không lớn. Các
nghiên cứu tiếp theo của Reed, R.J.,
Norquist, D.C. và Recker, E.E (1977)
[13] dựa vào số liệu GATE (giai đoạn
3) đưa ra thời gian hoạt động và biên độ
cực đại sóng đông tương tự nghiên cứu
Burpee (1972) [1], nhưng độ dài bước
sóng khoảng 2500km, tốc độ di chuyển
8m/s khác với nghiên cứu của chính
nhóm tác giả năm 1971. Điểm mới
của công trình đã phát hiện được một
xoáy thấp ở mực 850mb, dòng hội tụ
mạnh mực 700mb và phân kỳ gần mực
200mb. Đến năm 1977, Reed và cộng sự
[13] đã chia tập số liệu GATE thành hai
phần gồm 100E - 150W (phần đất liền)
và 150 - 300W (phần đại dương). Kết quả
nghiên cứu cho thấy độ dài bước sóng
và thời gian hoạt động của sóng đông
trên đại dương ngắn hơn trên lục địa,
nhưng độ nghiêng của trục sóng mực
700mb ngược lại. Trong khi, Diedhiou
và cộng sự (1999) [6] phân tích thành
phần gió kinh hướng tại mực 700mb với
hai chu kỳ chính, từ 3 - 5 ngày và 6 - 9
ngày. Sóng có chu kỳ 3 - 5 ngày, phát
triển cả phía bắc và nam dòng xiết Đông
Phi, hoạt động mạnh vào tháng 8 - 9.
Sóng có chu kỳ 6 - 9 ngày hoạt động
không liên tục, tốc độ di chuyển chậm,
nhưng độ dài bước sóng lớn hơn.
Thorncroff và cộng sự (2001)
[16] chỉ ra hoạt động của sóng đông
trên khu vực Đại Tây Dương tại mực
600mb mạnh lên từ tháng 6 - 8, suy yếu
không đáng kể trong tháng 9 và giảm đi
nhanh chóng trong tháng 10, hoạt động
của sóng kéo dài 5 ngày. Kết quả được
phân tích trên số liệu ECMWF từ 1979
- 1998. Các nghiên cứu này phù hợp với
công trình của Grist (2002) [9]. Ngoài
ra, tác giả còn nhận thấy mùa hoạt động
và di chuyển của sóng đông có liên quan
đến hoạt động của dòng xiết Đông Phi
và gió mùa tầng thấp. Dựa vào dữ liệu
radar và bộ dữ liệu NASA tại ba điểm
thuộc Tây Phi, Zawislak và cộng sự
Nghiên cứu
Tạp chí Khoa học Tài nguyên và Môi trường - Số 18 - năm 2017 77
(2010) [18] chỉ ra 42% hệ thống đối lưu
trên khu vực chịu ảnh hưởng của sóng
đông. Cường độ mưa trong khu vực có
xuất hiện đối lưu lớn hơn 30mm/h, đạt
giá trị cao nhất 60 - 110 mm/h.
Các nghiên cứu trong nước về sóng
đông còn nhiều hạn chế. Giáo trình
“Khí tượng synop” của Trần Công Minh
(2003) cho biết sóng đông đôi khi xuất
hiện ở miền Bắc, xuất hiện nhiều miền
Trung và miền Nam. Sóng xuất hiện vào
mùa thu, tốc độ di chuyển ở Bắc Biển
Đông khoảng 20 km/h. Nguyễn Khanh
Vân và cộng sự (2004) [17] cho rằng khi
không khí lạnh kết hợp với đới gió đông
hoạt động mạnh vào tháng 10 gây mưa
lớn trên khu vực. Trong khi, vào tháng
11, 12 khi đới gió đông suy yếu, lượng
mưa từ Thanh Hóa đến Hà Tĩnh thường
không kéo dài. Điều này được Nguyễn
Văn Hưởng (2012) [10] nhận định trong
kết quả nghiên cứu. Khi không khí lạnh
tương tác với nhiễu động gió đông trên
cao sẽ xuất hiện dòng thăng cưỡng bức,
gây mưa lớn các tỉnh Trung và Nam
Trung Bộ. Hình thế này thường xảy ra
trong tháng 10, 11 và 12.
Như vậy, từ các nguồn số liệu phân
tích lại kết hợp với phân tích synop,
phân tích năng lượng phổ kết hợp với
ảnh mây vệ tinh, các công trình nghiên
cứu ngoài nước đã chỉ ra được cấu
trúc của sóng đông châu Phi là một lõi
lạnh từ (600mb đến 1000mb) và phần
trên là lõi nóng. Sóng hoạt động từ bề
mặt đến 300mb với cường độ cực đại
đạt mực 700 - 500mb. Thời gian hoạt
động của sóng đông xảy ra từ tháng 5
- 11, hoạt động mạnh nhất từ tháng 7 -
9, thời gian hoạt động 3 - 5 ngày, bước
sóng 2000 - 4000km, di chuyển theo
hướng Tây với tốc độ 7 - 8m/s. Theo
phương thẳng đứng, càng lên cao trục
sóng càng nghiêng về phía Đông, lên
mực 500mb trục sóng nghiêng phía Tây.
Theo phương ngang, càng lên phía Bắc
sóng càng lệch về phía Đông, phía Tây
trục sóng đặc trưng chuyển động giáng
cho thời tiết tốt, phía Đông trục sóng là
vùng hội tụ cho thời tiết xấu. Sóng đông
là nhiễu động để hình thành xoáy thuận
nhiệt đới trên vùng Đại Tây Dương.
Đối với sóng đông trên vùng
Tây Thái Bình Dương thường xuất hiện
ở mực 500mb - 200mb, ảnh hưởng đến
Việt Nam, cho lượng mưa đạt tới 20 -
50mm. Đặc biệt vào tháng 10, 11 và 12
khi có sự kết hợp với không khí lạnh sẽ
gây mưa lớn cho các tỉnh miền Trung.
3. Nguồn số liệu và phương pháp
1) Nguồn số liệu sử dụng nghiên
cứu bao gồm:
- Số liệu mưa ngày của 13 trạm
ven biển miền Trung, Việt Nam gồm:
Hà Tĩnh, Kỳ Anh, Đồng Hới, Đông Hà,
Huế, Đà Nẵng, Tam Kỳ, Trà My, Quảng
Ngãi, Ba Tơ, Quy Nhơn, Tuy Hòa, Nha
Trang. Nguồn số liệu này được thu thập
tại Trung tâm dữ liệu Khí tượng Thủy
văn Việt Nam.
- Số liệu phân tích lại NCEP/
NCAR độ phân giải 2,50x 2,50 kinh - vĩ
trên các mực khí áp chuẩn, từ năm 2006
- 2014. Các trường khí tượng được sử
dụng phân tích bao gồm: Trường độ cao
địa thế vị (hgt), trường gió kinh hướng
(uwnd) và trường gió vĩ hướng (vwnd).
2) Phương pháp nghiên cứu: Sử
dụng phương pháp đồ họa để xây dựng
bộ bản đồ tại các mực 1000mb, 850mb,
300mb và 200mb; Phương pháp phân
tích synop mục đích nhận định rõ hệ
thống sóng đông và các hình thế kết hợp.
Ngoài ra, chúng tôi tính sự hội tụ và phân
kỳ của trường gió theo các công thức sau:
(3)
Nghiên cứu
Tạp chí Khoa học Tài nguyên và Môi trường - Số 18 - năm 201778
4. Đặc điểm hoạt động của
sóng đông trên khu vực miền
Trung, Việt Nam
Kết quả thống kê các đợt sóng đông
trên khu vực miền Trung, Việt Nam từ
tháng 7 - 11, giai đoạn 2006 - 2014 được
dẫn ra trong bảng 1 và 2. Có thể nhận
thấy rằng, số đợt sóng đông trên khu
vực miền Trung, Việt Nam có một số
đặc điểm sau:
- Từ tháng 7 - 11 đã xảy ra 70 đợt
sóng đông trên khu vực miền Trung,
Việt Nam, năm ít nhất có 04 đợt (năm
2006 và 2009), năm nhiều nhất 12 đến
13 đợt (năm 2010 và 2014);
- Thời gian hoạt động của sóng
đông tập trung chủ yếu từ tháng 7
đến tháng 11. Trong đó, tập trung vào
2 tháng 10 và 11. Trong 9 năm, riêng
tháng 10 xảy ra 25 đợt và tháng 11 có 17
đợt, chiếm 35,7% và 24,3% trong tổng
số đợt nghiên cứu (Bảng 1).
- Các đợt sóng đông độc lập thường
xuất hiện từ tháng 7 đến tháng 10, sự
kết hợp của sóng đông với không khí
lạnh tầng thấp xảy ra vào tháng 10 và
11 (Bảng 2);
- Trong 70 đợt sóng đông hoạt động
trên khu vực, có 36 đợt sóng đông độc
lập, chiếm 51,4% và 34 đợt kết hợp với
không khí lạnh, chiếm 44,6% (Bảng 2);
- Thời gian kéo dài của các đợt sóng
đông độc lập 2 - 4 ngày, tuy nhiên, khi
kết hợp với không khí lạnh tầng thấp, số
ngày tăng lên 4 - 6 ngày.
- Tần suất xuất hiện sóng đông nhỏ
nhất vào tháng 7, xấp xỉ 0,1 lần/tháng,
lớn nhất trong tháng 10 và 11, dao động
mức 0,24 - 0,36 lần/tháng.
Khi đó, nếu F 0 là phân kỳ. Từ (3) sai phân trung tâm có được:
Bảng 1. Phân bố các đợt sóng đông theo thời gian (tháng, năm) trên khu vực miền
Trung, Việt Nam, giai đoạn 2006 - 2014
Năm Tháng Tổng (đợt)
7 8 9 10 11
2006 2 2 4
2007 1 1 3 2 7
2008 1 1 5 2 9
2009 2 1 1 4
2010 2 2 2 2 4 12
2011 1 2 3 6
2012 1 1 3 1 6
2013 1 1 2 3 2 9
2014 2 3 2 4 2 13
Tổng (đợt) 7 11 10 25 17 70
Bảng 2. Thời gian hoạt động và hình thế kết hợp với sóng đông trên khu vực miền
Trung, Việt Nam, giai đoạn 2006 - 2014
Năm STT Thời gian Số ngày Hình thế synop
2006
1 1 8-9/9 Sóng đông
2 2 12-13/9 Sóng đông
3 3 12-13/10 Sóng đông
4 4 24-27/10 Sóng đông + KKL
Nghiên cứu
Tạp chí Khoa học Tài nguyên và Môi trường - Số 18 - năm 2017 79
Năm STT Thời gian Số ngày Hình thế synop
2007
1 1 18-20/7 Sóng đông
2 2 27-28/8 Sóng đông
3 3 9-12/10 Sóng đông
4 4 13-18/10 Sóng đông + KKL
5 5 24-27/10 Sóng đông + KKL
6 6 9-13/11 Sóng đông + KKL
7 7 16-20/11 Sóng đông + KKL
2008
1 1 29-31/8 Sóng đông
2 2 7-8/9 Sóng đông
3 3 1-3/10 Sóng đông
4 4 10-13/10 Sóng đông
5 5 15-18/10 Sóng đông
6 6 23-25/10 Sóng đông + KKL
7 7 27-29/10 Sóng đông + KKL
8 8 18-21/11 Sóng đông + KKL
9 9 23-27/11 Sóng đông + KKL
2009
1 1 14-15/8 Sóng đông
2 2 17-18/8 Sóng đông
3 3 29/10-1/11 Sóng đông
4 4 5-6/11 Sóng đông
2010
1 1 7-9/7 Sóng đông
2 2 12-13/7 Sóng đông
4 3 13-14/8 Sóng đông
5 4 19-20/8 Sóng đông
6 5 26-27/9 Sóng đông
7 6 30/9-5/10 Sóng đông + KKL
8 7 14-19/10 Sóng đông + KKL
9 8 30/10-2/11 Sóng đông + KKL
10 9 3-5/11 Sóng đông + KKL
11 10 6-10/11 Sóng đông + KKL
12 11 14-19/11 Sóng đông + KKL
2011
1 12 28-30/11 Sóng đông + KKL
2 1 14-16/8 Sóng đông
3 2 15-20/10 Sóng đông + KKL
4 3 26-31/10 Sóng đông + KKL
5 4 4-9/11 Sóng đông + KKL
6 5 15-17/11 Sóng đông + KKL
2012
1 6 25-27/11 Sóng đông + KKL
2 1 16-17/7 Sóng đông
3 2 3-7/9 Sóng đông
4 3 6-8/10 Sóng đông + KKL
5 4 18-20/10 Sóng đông + KKL
6 5 25-27/10 Sóng đông + KKL
2013
1 6 13-15/11 Sóng đông + KKL
2 1 3-4/7 Sóng đông
3 2 5-6/8 Sóng đông
4 3 5-9/9 Sóng đông
5 4 10-13/9 Sóng đông
6 5 1-4/10 Sóng đông + KKL
2014
1 6 12-13/10 Sóng đông + KKL
2 7 16-19/10 Sóng đông + KKL
3 8 4-7/11 Sóng đông + KKL
4 9 14-17/11 Sóng đông + KKL
Nghiên cứu
Tạp chí Khoa học Tài nguyên và Môi trường - Số 18 - năm 201780
Năm STT Thời gian Số ngày Hình thế synop
2014
5 1 4-5/7 Sóng đông
6 2 12-13/7 Sóng đông
7 3 17-18/8 Sóng đông
8 4 25-26/8 Sóng đông
9 5 30/8-1/9 Sóng đông
10 6 6-7/9 Sóng đông
11 7 25-26/9 Sóng đông
12 8 5-8/10 Sóng đông
13 9 12-13/10 Sóng đông
5. Ảnh hưởng của sóng đông đến
mưa trên khu vực miền Trung, Việt Nam
Hình 1 chỉ ra lượng mưa trung bình
tại trạm theo tháng (từ 7 - 11) (a), lượng
mưa do ảnh hưởng của sóng đông (b),
lượng mưa do ảnh hưởng của sóng đông
kết hợp với không khí lạnh (c). Từ hình
1a cho thấy, lượng mưa trung bình trong
hai tháng 7 và 8 dưới 10mm trên khu vực
miền Trung, cao nhất vào tháng 9, 10 và
giảm vào tháng 11 ở khu vực Bắc Trung
Bộ. Đối với khu vực Trung và Nam
Trung Bộ, lượng mưa tăng dần, trong các
tháng 10, 11 lượng mưa cao nhất, dao
động 20 - 50mm, một số trạm đạt 80mm.
Tuy nhiên, đối với những đợt mưa do
ảnh hưởng của sóng đông, thường kéo
dài 2 - 3 ngày, dài nhất 4 ngày. Lượng
mưa trung bình trong 1 đợt dao động 20
- 40mm, cũng có đợt lên đến 60mm. Hơn
nữa, phân bố mưa có xu thế khác nhau
về lượng giữa khu vực phía Bắc so với
phía Nam. Thể hiện, các trạm thuộc khu
vực phía Bắc, lượng mưa trung bình dao
động 30 - 60mm, song ở phía Nam chỉ
đạt mức 10 - 30mm (Hình 1b).
Khi sóng đông kết hợp với không
khí lạnh (Hình 1c) (loại hình thế này
thường xuất hiện vào tháng 10 và 11,
khi vị trí của áp cao cận nhiệt dịch lên
phía Bắc với đới tín phong tầng thấp và
đới gió đông trên cao), quá trình mưa
tăng lên và kéo dài nhiều ngày: khoảng
4 - 6 ngày, lượng mưa phổ biến 100 -
250mm, thậm chí có thể lớn hơn như
trạm Trà My đạt 300mm, Ba Tơ đạt
255mm. Nhìn chung, sóng đông kết hợp
với không khí lạnh tầng thấp thường
cho mưa lớn phía Nam hơn phía Bắc.
Điều này phù hợp với các nhận định của
Nguyễn Văn Hưởng (2012) [0]
Hình 1: Phân bố lượng mưa trung bình
tại trạm: a) Theo tháng (từ 7-11), b) Sóng
đông độc lập, c) Sóng đông kết hợp với
không khí lạnh.
Nghiên cứu
Tạp chí Khoa học Tài nguyên và Môi trường - Số 18 - năm 2017 81
6. Một số đợt sóng đông điển hình
giai đoạn 2006 - 2014
* Đợt sóng đông ngày 12 -
13/10/2006
Trên bản đồ 00z ngày 12/10/2006
mực 500mb (Hình 2a) tồn tại một nhiễu
động sóng hình thành phía bắc Biển
Đông trên đới gió đông ở rìa phía Nam
của áp cao cận nhiệt Tây Thái Bình
Dương, di chuyển sang phía Tây. Trục
sóng nghiêng về phía Đông vào khoảng
12 - 180N, 1140E. Tuy nhiên, mực
300mb (Hình 2b) nhiễu động sóng đông
thể hiện rõ nét hơn, sóng có hình dạng
chữ “V” đảo ngược, trục sóng nghiêng
về phía Đông vào khoảng 11 - 170N,
1100E. Vùng tác động thu hẹp tập trung
trên khu vực Trung và Nam Trung Bộ.
Vùng hội tụ sóng có giá trị dao động
từ 0 đến 2 (10-4 s-1), vùng phân kỳ sóng
vào khoảng 0 đến -1 (10-4 s-1). Trên mực
200mb, v