1. Lí do chọn đề tài
Kể từ khi Việt Nam và Hàn Quốc chính thức đặt lại quan hệ ngoại giao vào năm 1992
đến nay, quan hệ hữu nghị, hợp tác cùng phát triển giữa hai nước đã không ngừng được
duy trì và phát triển, ngày càng trở nên khăng khít. Việt Nam và Hàn Quốc đặt mục tiêu trở
thành những đối tác chiến lược, hợp tác toàn diện trên mọi lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội.
Hàn Quốc là nước đứng thứ 3 trong hỗ trợ vốn ODA cho Việt Nam với 2,33 tỉ USD (Theo
„Báo điện tử Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam), số vốn đầu tư của
Hàn Quốc vào Việt Nam tăng, số lượng các công ty Hàn Quốc tiến vào hoạt động tại Việt
Nam cũng không ngừng gia tăng. Thêm vào đó, ảnh hưởng của „Làn sóng Hàn Quốc‟
(한류) cũng đang gây nên cơn sốt đối với một bộ phận không nhỏ giới trẻ Việt Nam hiện
nay khiến cho nhiều bạn trẻ yêu thích ngôn ngữ xứ Hàn. Vì vậy, nhu cầu học tiếng Hàn
Quốc của người Việt Nam ngày càng trở nên cấp thiết, số lượng sinh viên, học viên Việt
Nam theo học tiếng Hàn ngày một tăng. Trong quá trình học tập, nghiên cứu ngôn ngữ Hàn
Quốc, hẳn không ít các bạn sinh viên gặp phải những khó khăn do sự khác biệt về ngữ
pháp, cú pháp trong ngôn ngữ hai nước cũng như những nét khác biệt về văn hóa. Trong
phạm vi bài nghiên cứu khoa học này, chúng tôi xin giới thiệu về ảnh hưởng của văn hóa
cộng đồng củaHàn Quốc. Với nguồn gốc từ tư tưởng của Nho giáo, trong nhiều năm, văn
hóa cộng đồng của người Hàn Quốc đã không ngừng phát triển, có tầm ảnh hưởng sâu
rộng đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Có thể nói, văn hóa cộng đồng của người Hàn
Quốc là một nét văn hóa tiêu biểu,với nhiều điểm đặc biệt. Ta có thể bắt gặp ảnh hưởng
của văn hóa này trong hoạt động ngôn ngữ của người Hàn Quốc như hình thức kính ngữ,
cách sử dụng đại từ nhân xưng 우리 (chúng tôi, chúng ta), cách xưng hô Văn hóa cộng
đồng cũng có thể được cảm nhận rõ nét qua văn hóa hội, nhóm, văn hóa làng, xã hay văn
hóa của người Hàn Quốc. Có được những hiểu biết đúng đắn về nét văn hóa đặc biệt này,
chúng ta có thể hiểu được phần nào tư tưởng, suy nghĩ, cách ứng xử của con người Hàn
Quốc cũng như nắm bắt được ngôn ngữ - sản phẩm của tư duy một cách dễ dàng hơn.
Thông qua bài nghiên cứu, chúng tôi hi vọng cung cấp thêm cho các bạn sinh viên đang
theo học tiếng Hàn Quốc một số thông tin, hiểu biết cụ thể hơn về văn hóa cộng đồng của
người Hàn, giúp các bạn có thêm những kiến thức về văn hóa, xã hội của Hàn Quốc, phần
nào mang lại hiệu quả cho hoạt động học tập, rèn luyện ngôn ngữ Hàn Quốc của các bạn.
16 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 26 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng của văn hóa cộng đồng đến hoạt động ngôn ngữ và xã hội Hàn Quốc, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
3/2014 HỘI THẢO KHOA HỌC SINH VIÊN-KHOA TIẾNG HÀN QUỐC
281
ẢNH HƯỞNG CỦA VĂN HÓA CỘNG ĐỒNG
ĐẾN HOẠT ĐỘNG NGÔN NGỮ VÀ XÃ HỘI HÀN QUỐC
SVTH: Vũ Thị Hoàng Anh, Nguyễn Thị Vân Anh,
Nguyễn Thị Thanh Thùy
GVHD: Lê Nguyệt Minh
I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Kể từ khi Việt Nam và Hàn Quốc chính thức đặt lại quan hệ ngoại giao vào năm 1992
đến nay, quan hệ hữu nghị, hợp tác cùng phát triển giữa hai nƣớc đã không ngừng đƣợc
duy trì và phát triển, ngày càng trở nên khăng khít. Việt Nam và Hàn Quốc đặt mục tiêu trở
thành những đối tác chiến lƣợc, hợp tác toàn diện trên mọi lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội.
Hàn Quốc là nƣớc đứng thứ 3 trong hỗ trợ vốn ODA cho Việt Nam với 2,33 tỉ USD (Theo
„Báo điện tử Chính phủ nƣớc Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam), số vốn đầu tƣ của
Hàn Quốc vào Việt Nam tăng, số lƣợng các công ty Hàn Quốc tiến vào hoạt động tại Việt
Nam cũng không ngừng gia tăng. Thêm vào đó, ảnh hƣởng của „Làn sóng Hàn Quốc‟
(한류) cũng đang gây nên cơn sốt đối với một bộ phận không nhỏ giới trẻ Việt Nam hiện
nay khiến cho nhiều bạn trẻ yêu thích ngôn ngữ xứ Hàn. Vì vậy, nhu cầu học tiếng Hàn
Quốc của ngƣời Việt Nam ngày càng trở nên cấp thiết, số lƣợng sinh viên, học viên Việt
Nam theo học tiếng Hàn ngày một tăng. Trong quá trình học tập, nghiên cứu ngôn ngữ Hàn
Quốc, hẳn không ít các bạn sinh viên gặp phải những khó khăn do sự khác biệt về ngữ
pháp, cú pháp trong ngôn ngữ hai nƣớc cũng nhƣ những nét khác biệt về văn hóa. Trong
phạm vi bài nghiên cứu khoa học này, chúng tôi xin giới thiệu về ảnh hƣởng của văn hóa
cộng đồng củaHàn Quốc. Với nguồn gốc từ tƣ tƣởng của Nho giáo, trong nhiều năm, văn
hóa cộng đồng của ngƣời Hàn Quốc đã không ngừng phát triển, có tầm ảnh hƣởng sâu
rộng đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Có thể nói, văn hóa cộng đồng của ngƣời Hàn
Quốc là một nét văn hóa tiêu biểu,với nhiều điểm đặc biệt. Ta có thể bắt gặp ảnh hƣởng
của văn hóa này trong hoạt động ngôn ngữ của ngƣời Hàn Quốc nhƣ hình thức kính ngữ,
cách sử dụng đại từ nhân xƣng 우리 (chúng tôi, chúng ta), cách xƣng hô Văn hóa cộng
đồng cũng có thể đƣợc cảm nhận rõ nét qua văn hóa hội, nhóm, văn hóa làng, xã hay văn
hóa của ngƣời Hàn Quốc. Có đƣợc những hiểu biết đúng đắn về nét văn hóa đặc biệt này,
chúng ta có thể hiểu đƣợc phần nào tƣ tƣởng, suy nghĩ, cách ứng xử của con ngƣời Hàn
Quốc cũng nhƣ nắm bắt đƣợc ngôn ngữ - sản phẩm của tƣ duy một cách dễ dàng hơn.
Thông qua bài nghiên cứu, chúng tôi hi vọng cung cấp thêm cho các bạn sinh viên đang
theo học tiếng Hàn Quốc một số thông tin, hiểu biết cụ thể hơn về văn hóa cộng đồng của
ngƣời Hàn, giúp các bạn có thêm những kiến thức về văn hóa, xã hội của Hàn Quốc, phần
nào mang lại hiệu quả cho hoạt động học tập, rèn luyện ngôn ngữ Hàn Quốc của các bạn.
3/2014 HỘI THẢO KHOA HỌC SINH VIÊN-KHOA TIẾNG HÀN QUỐC
282
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Trong bài nghiên cứu này, chúng tôi tập trung nghiên cứu đến những ảnh hƣởng của
văn hóa cộng đồng đến nhiều lĩnh vực trong đời sống của ngƣời Hàn thông qua những biểu
hiện ở nhiều mặt của hoạt động ngôn ngữ, xã hội Hàn Quốc.
Phạm vi nghiên cứu của chúng tôi giới hạn trong những nội dung nhƣ sau:
1. Khái niệm văn hóa cộng đồng và lịch sử hình thành văn hóa cộng đồng của Hàn
Quốc:
1.1 Văn hóa và chủ nghĩa gia đình
1.2 Chủ nghĩa tập thể
2. Ảnh hƣởng của văn hóa cộng đồng đến những hoạt động ngôn ngữ, xã hội của
Hàn Quốc
2.1 Trong hoạt động ngôn ngữ:
2.1.1 Đại từ „우리‟
2.1.2 Kính ngữ
2.1.3 Cách xƣng hô
2.2 Trong xã hội Hàn Quốc:
2.2.1 Văn hóa làng, xã
2.2.2 Văn hóa hội, nhóm
2.2.3 Văn hóa [ ]
3. Phƣơng pháp nghiên cứu
Về phƣơng pháp, chúng tôi chủ yếu sử dụng phƣơng pháp nghiên cứu tài liệu, tìm
kiếm, phân tích thông tin trong các sách nghiên cứu về văn hóa Hàn Quốc cũng nhƣ thông
tin trên mạng internet, kết hợp với phƣơng pháp quan sát, nhận xét những hiện tƣợng thực
tế mà bản thân đƣợc chứng kiến trong cuộc sống hàng ngày.
II. PHẦN NỘI DUNG
1. Khái niệm Văn hóa cộng đồng và lịch sử hình thành
Có lẽ Hàn Quốc là dân tộc sử dụng từ”우리”nhiều hơn bất kì quốc gia nào trên thế
giới, đến nỗi nó đã trở thành một nét văn hóa đặc trƣng của dân tộc này.”우리”nếu dịch ra
tiếng việt có nghĩa là”chúng tôi”, tiếng Anh có nghĩa là”we”nhƣng ngƣời Hàn Quốc không
chỉ sử dụng”우리”để áp dụng cho những tập thể tổ chức lớn mà nó còn đƣợc sử dụng hết
sức tự nhiên trong trƣờng hợp sở hữu cá nhân.
3/2014 HỘI THẢO KHOA HỌC SINH VIÊN-KHOA TIẾNG HÀN QUỐC
283
“우리‟ là một từ có lịch sử lâu đời và sức sống nội sinh vô cùng mãnh liệt trong văn
hóa sinh hoạt của ngƣời Hàn Quốc. Vậy điều gì khiến cho”우리”có sức sống mạnh mẽ đến
vậy?
“우리”chính là biểu hiện rõ nét cho thấy xã hội Hàn Quốc là một điển hình của xã hội
văn hóa cộng đồng. Chúng ta hãy cùng tìm hiểu xem văn hóa cộng đồng là gì, điều gì tạo
nên văn hóa cộng đồng và tại sao nó lại có sức ảnh hƣởng, sức sống lớn nhƣ vậy đến xã hội
Hàn Quốc...
Văn hóa cộng đồng chính là xã hội mà ở đó ngƣời ta luôn coi trọng và đặt lợi ích gia
đình, ngƣời thân hay những ngƣời trong cùng một cộng đồng lên trên lợi ích cá nhân, thay
vì đƣa ra suy nghĩ của bản thân thì họ sẽ tuân theo quy tắc của tập thể, của cộng đồng đó.
Con ngƣời là một thực thể tự nhiên mang đặc tính xã hội, chúng ta không thể tồn tại
trên trái đất này một mình mà phải sống cùng cộng đồng, tập thể. Có thể nói quy mô cộng
đồng nhỏ nhất chính là gia đình.”Gia đình là đơn vị tổ chức đặc trƣng phổ biến ở mọi xã
hội loài ngƣời. Tuy nhiên, ở mỗi loại hình văn hoá, mỗi nền văn hoá, vai trò của gia đình
rất khác nhau. Trong xã hội phƣơng Tây hoặc phƣơng Tây hóa, thì vai trò của gia đình
thấp mà vai trò của của cá nhân cao; trong xã hội phƣơng Đông thì ngƣợc lại. Ngay trong
xã hội phƣơng Đông, cùng với xu hƣớng hội nhập, vai trò của gia đình trong xã hội cũng
giảm dần, nhƣờng chỗ cho sự gia tăng của vai trò cá nhân. Song ở Hàn Quốc ngày nay, dù
đã trở thành một nƣớc công nghiệp phát triển, nhƣng truyền thống gia đình và ảnh hƣởng
của gia đình vẫn còn rất mạnh mẽ. Sở dĩ nhƣ vậy là vì trong nền văn hoá Hàn Quốc, gia
đình không chỉ đơn giản là một tế bào xã hội, mà hơn thế nữa, nó trở thành một nhân tố chi
phối tổ chức xã hội, một thứ”chủ nghĩa”– chủ nghĩa gia đình.”(GS.TSKH. Trần Ngọc
Thêm).
1.1. Nho giáo và Chủ nghĩa gia đình
Hàn Nho giáo dạy về đạo làm ngƣời –”đạo hiếu”
“Hiếu”là một phạm trù đạo đức của Nho giáo. Cùng với”Trung”,”Hiếu”xây dựng các
quy tắc ứng xử của con ngƣời trong hai mối quan hệ xã hội và gia đình. Đạo Nho bắt đầu
đƣợc du nhập vào Hàn Quốc từ đầu thời kì Joseon, luân lý cơ b ản nhất của đạo Nho chính
là đạo lý gi ữa cha và con trai(trƣởng nam) đƣợc thể hiện trong Ngũ luân và phụ tử hữu
thân. Theo đó làm ngƣời phải biết có hiếu với cha mình, một mực kính trọng, bảo vệ cha
mẹ mình hơn bất cứ ai khác, và nhƣ vậy việc coi trọng gia đình ngƣời thân hơn những
ngƣời khác cũng là điều đƣơng nhiên. Giá trị của chữ”hiếu”đƣợc đề cao và cũng là thƣớc
đo cho nhân cách con ngƣời.
Chúng ta đều biết cảm xúc cơ bản và tự nhiên nhất của con ngƣời chính là yêu quý
ngƣời yêu thƣơng và dạy dỗ mình. Vì thế, đối với tình yêu của cha mẹ thì việc con cái đáp
lại tình cảm đó bằng tấm lòng mình đƣợc coi là ngƣời con có hiếu.
3/2014 HỘI THẢO KHOA HỌC SINH VIÊN-KHOA TIẾNG HÀN QUỐC
284
Gia đình là nhân tố của xã hội, nếu trong gia đình con cái coi trọng chữ”hiếu”với cha
mẹ thì đối với xã hội”chữ hiếu”sẽ trở thành lòng trung thành với vua. Trong xã hội xƣa,
Vua đƣợc coi là cha và hoàng hậu đƣợc xem nhƣ mẹ của muôn dân do vậy nếu bất trung
bất hiếu với vua thì cũng chính là bất trung bất hiếu với cha mẹ.”Gia đình là nhân tố tạo
nên sự vững mạnh của quốc gia. Vậy nên muốn lãnh đạo đƣợc quốc gia trƣớc hết phải lãnh
đạo đƣợc gia đình.”- (한국인에게 문화는 있는가- 최준석). Nắm đƣợc yếu tố cơ bản này,
vua Sejong đã biến đạo hiếu trở thành binh pháp điều khiển quân lính trong thời kì Joseon.
Ông nhận thấy rằng so với việc thống trị và áp đặt từng ngƣời dân thì việc để họ tự mình
tuân thủ theo những nguyên tắc đó sẽ mang lại hiệu quả cao hơn. Ví dụ, nếu tuân theo
những kỉ cƣơng phép tắc trong gia đình thì nhất định sẽ phục tùng những luật lệ của đất
nƣớc, quốc giaQua đó có thể thấy Nho giáo đóng góp một vai trò rất lớn đối với sự hình
thành khái niệm gia đình đối với ngƣời Hàn Quốc, không chỉ giới hạn trong quan hệ của
những ngƣời có chung huyết thống mà nó còn mở rộng ra phạm vi của một đất nƣớc. Nho
giáo đã mang đến những ảnh hƣởng mạnh mẽ và tạo nên văn hóa gia đình mang đặc trƣng
của ngƣời Hàn Quốc.
Tại sao Nho giáo lại coi trọng yếu tố gia đình
Trong Nho Giáo, huyết thống và sự nối dõi dòng tộc là điều vô cùng quan trọng.
Trong xã hội Hàn Quốc truyền thống, một gia đình điển hình thƣờng bao gồm các thành
viên thuộc ba, bốn thế hệ sống cùng trong một mái nhà; một gia đình lớn đông thành viên
thƣờng đƣợc xem nhƣ có nhiều phúc lộc.
Mục đích lớn nhất, nhiệm vụ quan trọng của hôn nhân trong gia đình Hàn Quốc là
duy trì hậu duệ và thờ cúng tổ tiên với biểu hiện cụ thể là sinh ra những ngƣời con trai để
nối dõi, thừa kế gia sản, chăm sóc cha mẹ lúc già yếu. Chính vì thế có rất nhiều thế hệ phụ
nữ phải chịu đau khổ vì không thực hiện đƣợc”nghĩa vụ”của mình là sinh đƣợc con trai
cho nhà chồng. Hôn nhân thƣờng do cha mẹ hoặc thông qua mối lái sắp đặt. Cô dâu chỉ
biết mặt chú rể vào ngày cƣới là chuyện bình thƣờng theo luật tục hôn nhân thời trƣớc.
Hệ thống dòng họ, thân tộc truyền thống của ngƣời Hàn Quốc đƣợc xác định chủ yếu
trong mối quan hệ thờ cúng tổ tiên rất phức tạp
Con ngƣời đƣợc sinh ra là một thành viên của gia đình, khi đến độ tuổi nhất định sẽ
kết hôn và tiếp tục hình thành một gia đình mới. Những việc nhƣ thế đƣợc lặp đi lặp lại và
làm hình thành nên mối quan hệ gắn kết với các gia đình khác, vì thế những ngƣời có mối
quan hệ và kết hôn với nhau đƣợc gọi là thân tộc. Ngƣời Hàn Quốc rất coi trọng mối quan
hệ với họ hàng nên vào dịp lễ tết thƣờng đến nhà nhau thăm hỏi, khi có việc đại sự trong
gia đình sẽ có họ hàng đến và giúp đỡ.
Và chính những điều đó đã làm sản sinh chủ nghĩa gia đình, ảnh hƣởng mạnh mẽ và
sâu sắc, ăn sâu vào máu thịt của ngƣời dân Hàn Quốc từ trong lịch sử. Những ngƣời cùng
3/2014 HỘI THẢO KHOA HỌC SINH VIÊN-KHOA TIẾNG HÀN QUỐC
285
chung một nguồn gốc, chảy chung một dòng máu, những ngƣời đƣợc gắn kết trong một
đoàn thể chính là ngƣời thân,gia đình, là chỗ dựa và là nơi đáng tin tƣởng, bảo vệ.
1.2. Văn hóa cộng đồng của Hàn Quốc
Mô hình và cấu trúc gia đình Hàn Quốc có sự khác biệt ở mỗi giai đoạn xã hội.
Trong xã hội Hàn Quốc ngày xƣa, gia đình có nghĩa là một tập thể huyết thống cùng
chung sống, cùng ngủ dƣới một mái nhà và cùng ăn chung một nồi cơm. Đại gia đình là
một mô hình gia đình truyền thống của Hàn Quốc bao gồm ngƣời lớn tuổi nhất là ông bà
cùng cha mẹ, con cái, cháu chắt chung sống.
Xƣa kia ngƣời Hàn Quốc quan niệm rằng những gia đình có cùng một huyết thống
sống quây quần bên nhau hoà thuận, cùng chia sẻ công việc đồng áng, niềm vui nỗi buồn
với nhau là một tập tục tốt đẹp. Và do đặc trƣng của xã hội nông nghiệp đòi hỏi tính cộng
đồng cao khiến cho vai trò của cộng đồng càng trở nên quan trọng hơn. Từ đó đã dần hình
thành nên một tập thể mà những ngƣời trong cùng tập thể đó luôn giúp đỡ, bảo vệ và làm
việc vì lợi ích chung của cộng đồng. Sự trao đổi sức lao động của cá nhân này đối với cá
nhân khác cũng làm nảy sinh những tình cảm thân thiết gắn bó và quan tâm lẫn nhau.
Không những thế, cùng sống trong môi trƣờng tập thể, ngƣời trẻ tuổi có thể học hỏi và tiếp
thu kiến thức cuộc sống từ những ngƣời già đã có nhiều kinh nghiệm sống. Những ngƣời
sống trong cùng một tập thể đó thƣờng là ngƣời thân cùng huyết thống, tổ tiên hoặc là
những ngƣời cƣ ngụ trong một khu vực địa lý nhất định dần tạo thành cộng đồng ngƣời mà
ngƣời ta còn gọi là cộng đồng làng xã.
Vậy ở xã hội hiện đại ngày nay, văn hóa cộng đồng đƣợc biểu hiện nhƣ thế nào?
Văn hóa cộng đồng ngày nay đƣợc thể hiện rõ trong ngôn ngữ Hàn Quốc, đại
từ”우리”đƣợc sử dụng phổ biến trong cuộc sống, trở thành nét văn hóa, đặc trƣng trong
ngôn ngữ. Tính tôn ti cũng là nguyên nhân của hệ thống kính ngữ rất phát triển.”Trong
tiếng Hàn, có những từ mà chỉ có ngƣời trên mới đƣợc dùng để gọi ngƣời dƣới và, ngƣợc
lại, có những từ chỉ dành cho ngƣời dƣới sử dụng để gọi ngƣời trên. khi viết tên ngƣời ta
luôn viết họ lên trƣớc, cũng nhƣ khi chào hỏi, ngƣời Hàn Quốc thƣờng quan tâm đến họ
của đối phƣơng, nếu họ giống nhau và hai ngƣời cùng sinh ra ở một khu vực lập tức họ sẽ
có cảm giác thân thiết giống nhƣ những ngƣời trong một gia đình”- (cách xưng hô và chủ
nghĩa gia đình ở Hàn Quốc- học tiếng hàn.com). Hoặc ngay cả khi sinh sống ở nƣớc
ngoài, ngƣời Hàn Quốc nhất định phải tham gia vào một hội,một tổ chức, một cồng đồng
ngƣời thì mới có thể sinh sống và làm việc tốt hơn. Hay ở nơi làm việc”họ”thƣờng đƣợc
gắn với chức danh của ngƣời đó ví dụ nhƣ: giám đốc lee, tổ trƣởng kim,....Điều đó cho
thấy việc coi trọng yếu tố cộng đồng vẫn còn tồn tại rất mạnh mẽ và ảnh hƣởng trực tiếp
lên các mặt đời sống trong xã hội hiện nay.
Ngƣời Hàn Quốc luôn nêu cao tinh thần tập thể, sự đoàn kết, gắn bó và bền chặt trong
3/2014 HỘI THẢO KHOA HỌC SINH VIÊN-KHOA TIẾNG HÀN QUỐC
286
lịch sử đấu tranh, sinh tồn. Và họ tin rằng chính sức mạnh tập thể đó sẽ trở thành bức
tƣờng bảo vệ vững chắc giúp họ vƣợt qua khó khăn, thử thách. Vì vậy không chỉ có sự tin
tƣởng mà còn phải có sự trung thành tuyệt đối với niềm tin ấy. Đó chính là những yếu tố
cần thiết để cấu thành lên một xã hội văn hóa cộng đồng mà sức ảnh hƣởng vẫn còn mạnh
mẽ cho đến ngày nay.
2. Ảnh hƣởng của Văn hóa cộng đồng đến hoạt động ngôn ngữ và xã hội Hàn
Quốc
2.1. Trong hoạt động ngôn ngữ
2.1.1. Cách sử dụng đại từ”우리”
Đại từ”우리”luôn xuất hiện trƣớc các đối tƣợng để chỉ sự sở hữu, kể cả khi đối tƣợng
đó thuộc quyền sở hữu của cá nhân.
Ví dụ: 1/ a.”우리 학교는 아름답다.: Trƣờng học của chúng tôi rất đẹp.
b.우리 선생님은 예쁘다: Cô giáo của chúng tôi rất xinh.
c. 우리 김민준은 노래를 잘 부른다.: Kim Min Jun của chúng ta hát rất hay.
d. 우리 남편은 의사입니다: Chồng của chúng tôi là bác sĩ.
e. 우리 딸은 여행을 좋아해요: Con gái của chúng tôi thích du lịch.
Ở ví dụ 1/ (a),(b),(c) các đối tƣợng”trƣờng học”,”cô giáo”không thuộc quyền sở hữu
của các nhân ngƣời nói nên dung đại từ”우리”trƣớc các đối tƣợng này để trở thành”trƣờng
học của chúng tôi”,”cô giáo của chúng tôi”là điều dễ hiểu. Nhƣng đối với các nƣớc theo
chủ nghĩa cá nhân, ví dụ nhƣ Anh hay thậm chí là Việt Nam thì luôn đề cao vai trò của cá
nhân hơn tập thể nên các ví dụ 1/(a),(b),(c) khi dịch sang tiếng Anh, Tiếng Việt sẽ trở
thành
1/ a‟. My school is very beautiful: Trƣờng học của tôi rất đẹp
b‟. My teacher is very beautiful: Cô giáo của tôi rất xinh.
c‟. Min Jun sings very well: Min Jun hát rất hay.
Ở ví dụ 1/(d),(e), Thậm chí với các đối tƣợng thuộc quyền sở hữu của cá nhân
nhƣ”남편(chồng)”,”딸(con gái)”.. ngƣời Hàn Quốc vẫn dùng biểu hiện”우리 남편(chồng
của chúng tôi)”,”우리 딸(con gái của chúng tôi)”khi nhắc đến hay giới thiệu chồng, con
với ngƣời khác. Đây là một trong những biểu hiện rõ ràng nhất về ảnh hƣởng của văn hóa
cộng đồng trong lĩnh vực ngôn ngữ và nó rất xa lạ đối với ngƣời ở các nƣớc theo xu hƣớng
chủ nghĩa cá nhân.
3/2014 HỘI THẢO KHOA HỌC SINH VIÊN-KHOA TIẾNG HÀN QUỐC
287
2.1.2. Hệ thống kính ngữ
Hệ thống kính ngữ trong tiếng Hàn Quốc rất phát triển. Bởi vậy, việc học tập và sử
dụng thành thạo kính ngữ đối với ngƣời nƣớc ngoài không phải là một điều dễ dàng. Nếu
nhƣ trong tiếng Anh, để hỏi đối phƣơng đã ăn cơm chƣa, thì dù là ngƣời lớn hỏi trẻ con,
hay trẻ con hỏi ngƣời lớn đều sử dụng câu”Have you eaten yet ?”thì ngƣời Hàn Quốc, tùy
vào vai vế của ngƣời hỏi và đối phƣơng lại sử dụng hai câu khác nhau.
2/ a. 할아버지께서는 진지를 드셨나요 ?: Ông đã xơi cơm chƣa ạ ?
b. 너는 밥을 먹었니? Cháu ăn cơm chƣa ?
Ở ví dụ trên, 2/(a) là câu cháu dùng để hỏi ông (ngƣời bề dƣới hỏi ngƣời bề trên),
trong tiếng Hàn Quốc sử dụng các loại 2 loại kính ngữ: kính ngữ cho chủ thể đƣợc nói đến
(kính ngữ tiểu từ chủ ngữ 은/는 -> 께서/께서는/께; kính ngữ danh từ 밥-> 잔지; kính ngữ
động 먹다->드시다) và kính ngữ cho ngƣời nghe (đuôi câu 나요?/(으)ㄴ가요? ). Còn ví
dụ 2/(b) là câu ông hỏi cháu (ngƣời bề trên hỏi ngƣời bề dƣới ) thì thay vào việc dùng kính
ngữ, ngƣời hỏi phải sử dụng 반말 để phù hợp với hoàn cảnh.
Nhƣ vậy, trong hệ thống kính ngữ của tiếng Hàn Quốc chia ra thành hai thể: thể kính
ngữ(dùng để thể hiện sự kính trọng của ngƣời nói với ngƣời nghe hay của ngƣời nói với
chủ thể đƣợc nhắc đến) và lối nói thân mật(hay còn gọi là trống không 반말- dùng để giao
tiếp giữa những ngƣời có mối quan hệ thân thiết, và cho những mối quan hệ không cần sự
kính trọng nhƣ khi ngƣời bề trên nói chuyện với ngƣời bề dƣới). Đặc biệt, hệ thống kính
ngữ còn đƣợc đƣợc quy định chặt chẽ, nghiêm ngặt về đối tƣợng đƣợc phép sử dụng.
Ngƣời bề dƣới khi nói chuyện với ngƣời bề trên, hay nói chuyện với ngƣời khác về ngƣời
bề trên, nhất định phải sử dụng kính ngữ để thể hiện lễ nghĩa, sự kính trọng của mình dành
cho đối tƣợng đƣợc nói đến và ngƣợc lại, khi ngƣời bề trên khi nói chuyện với ngƣời bề
dƣới có quyền sử dụng lối nói thân mật- là lối nói trong từng trƣờng hợp thể hiện sự suồng
sã, thân mật, trong trƣờng hợp lại mang ý nghĩa không thể hiện lễ nghĩa, sự tôn trọng của
ngƣời nói dành cho ngƣời nghe. Chính vì sự quy định nghiêm ngặt về đối tƣợng sử dụng
này, ngƣời Hàn Quốc lần đầu tiên gặp nhau nhất định sẽ hỏi tuổi- điều ở xã hội các nƣớc
phƣơng Tây là một thất lễ. Ngƣời Hàn Quốc nhất định phải biết tuổi của đối phƣơng để
phân định rạch ròi vai vế, lựa chọn sử dụng kính ngữ hay lối nói thân mật khi giao tiếp với
nhau cho phù hợp. Vì vậy, việc hỏi tuổi những ngƣời lần đầu tiên gặp mặt với ngƣời Hàn
Quốc là một việc làm cần thiết. Trong khi ngƣời phƣơng Tây- những ngƣời theo chủ nghĩa
các nhân rất kị việc hỏi tuổi trong lần gặp đầu tiên, vì tuổi tác không ảnh hƣởng đến cách
sử dụng ngôn ngữ, thậm chí, việc hỏi tuổi lại là biểu hiện của sự tò mò về đời sống cá
nhân.Sự khác biệt văn hóa này chính là nguyên nhân của những cú”shock văn hóa”khi
ngƣời nƣớc ngoài học tiếng Hàn Quốc.
Nguyên nhân của sự phát triển trong hệ thống kính ngữ cũng nhƣ sự nghiêm ngặt
3/2014 HỘI THẢO KHOA HỌC SINH VIÊN-KHOA TIẾNG HÀN QUỐC
288
trong lối sử dụng bắt nguồn từ chính chủ nghĩa gia đình- tiền thân của văn hóa cộng đồng
(nhƣ đã trình bày ở chƣơng I). Trong chủ nghĩa gia đình, chữ Hiếu đƣợc đặt lên hàng đầu,
con cái phải hiếu đạo với cha mẹ. Tức là, con cái có nghĩa vụ phải kính trọng, lễ phép,
vâng lời cha mẹ. Vƣợt ra khỏi phạm vi gia đình, quan hệ bố mẹ- con cái, chữ Hiếu đƣợc
thể hiện ở việc giữ lễ nghi của ngƣời bề dƣới với ngƣời bề trên, ra ngoài xã hội chính là
cách đối xử của học sinh với giáo viên, của nhân viên với cấp trên, của hậu bối với tiền
bối.. vv.vv. Dấu tích của sụ nghiêm ngặt trong cách cƣ xử này trong hoạt động ngôn ngữ
Hàn Quốc chính là hệ thống kính ngữ phát triển và nghiêm ngặt.
2.1.3. Đại từ xƣng hô
Trong giao tiếp, ngƣời Hàn Quốc hay dùng những đại từ xƣng hô trong gia đình để
xƣng hô trong các mối quan hệ xã hội. Ví dụ giữa quan hệ tiền bối- hậu bối, hậu bối sẽ gọi
tiền bối là”anh(오빠, 형)",”chị (언니, 누나)”còn tiền bối sẽ gọi hậu bối là”em (동생)".
Hay khi vào quán ăn, tuy không phải quan hệ gia đình họ hàng nhƣng khách vẫn gọi chủ
cửa hàng bằng đại từ chỉ mối quan hệ trong gia đình là”chú (아저씨)”,”cô(이모)”..
Hiện tƣợng này cũng xuất phát từ văn hoá cộng đồng của ngƣời Hàn Quốc. Vì văn
hóa cộng đồng đã ăn sâu vào tiềm thức nên ngƣời Hàn Quốc luôn có xu hƣớng lôi kéo
ngƣời khác gia nhập vào đoàn thể của mình. Khi đã trở thành thành viên của một đoàn thể
nào đó, cách cƣ xử giữa các thành viên cũng trở nên khác với cách cƣ xử với ngƣời không
thuộc đoàn thể của mình. Họ sẽ thân thiện, cởi mở, sẵn sàng giúp đỡ lẫn nhau. Cũng nhƣ