Bài điều kiện môn Lý Luận văn học

I. Đặt vấn đề “Tác phẩm văn học vừa là kết tinh của tâm hồn người sáng tác, vừa là sợi dây truyền cho người đọc sự sống mà nghệ sĩ mang trong lòng”. Hẳn vậy mà văn học đã đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển, hoàn thiện nhân cách, phẩm giá con người. Đôi lúc, nhờ có văn học mà cứu dỗi tâm hồn cằn cõi, hun đúc, nảy mầm sự sống cho trái tim bầm dập bao vết thương về tinh thần. Ta tìm đến văn học như một con cừu non khát sữa mẹ, tìm đến nó để thanh lọc, gột rửa tâm hồn, để hái trái thơm kiến thức, để gặt hái vựa lúa của tình người ấm áp. Có thể thấy rằng: “Văn học như một bước đi song hành cùng với sự hình thành, phát triển của xã hội loài người”. Tuy nhiên, trong bối cảnh bùng nổ của văn hóa nghe nhìn thì văn học còn giữ vững được vai trò, vị thế của mình nữa hay không? Trong tương lai con người có cần đến văn học nữa hay không? Đó là một vấn đề lớn cần được giải đáp. Song ta vẫn khẳng định một điều rằng: Văn học chắc chắn sẽ vẫn tiếp tục và tồn tại cho dù đứng trước thách thức của các loại hình nghệ thuật khác đang ngày càng bùng nổ và chiếm ưu thế. Để lý giải vấn đề này tôi xin bàn về chức năng và chất liệu của văn học trong tương quan với các loại hình nghệ thuật khác. Từ đó, làm rõ nét khác biệt, nổi trội, ưu thế của văn học mà không một loại hình nghệ thuật nào có thể thay thế được.

docx20 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 189 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài điều kiện môn Lý Luận văn học, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BÀI ĐIỀU KIỆN MÔN LÝ LUẬN VĂN HỌC Họ và tên: Lê Thị Thảo Lớp C: Khoa Ngữ Văn Giảng viên: Đỗ Văn Hiểu Đề bài: “Anh chị hãy trình bày suy nghĩ của mình về số phận của văn học trong thời đại của bùng nổ văn hóa nghe nhìn. Trong tương lai con người có cần đến văn học nữa hay không? Vì sao?” Bài làm Đặt vấn đề “Tác phẩm văn học vừa là kết tinh của tâm hồn người sáng tác, vừa là sợi dây truyền cho người đọc sự sống mà nghệ sĩ mang trong lòng”. Hẳn vậy mà văn học đã đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển, hoàn thiện nhân cách, phẩm giá con người. Đôi lúc, nhờ có văn học mà cứu dỗi tâm hồn cằn cõi, hun đúc, nảy mầm sự sống cho trái tim bầm dập bao vết thương về tinh thần. Ta tìm đến văn học như một con cừu non khát sữa mẹ, tìm đến nó để thanh lọc, gột rửa tâm hồn, để hái trái thơm kiến thức, để gặt hái vựa lúa của tình người ấm áp. Có thể thấy rằng: “Văn học như một bước đi song hành cùng với sự hình thành, phát triển của xã hội loài người”. Tuy nhiên, trong bối cảnh bùng nổ của văn hóa nghe nhìn thì văn học còn giữ vững được vai trò, vị thế của mình nữa hay không? Trong tương lai con người có cần đến văn học nữa hay không? Đó là một vấn đề lớn cần được giải đáp. Song ta vẫn khẳng định một điều rằng: Văn học chắc chắn sẽ vẫn tiếp tục và tồn tại cho dù đứng trước thách thức của các loại hình nghệ thuật khác đang ngày càng bùng nổ và chiếm ưu thế. Để lý giải vấn đề này tôi xin bàn về chức năng và chất liệu của văn học trong tương quan với các loại hình nghệ thuật khác. Từ đó, làm rõ nét khác biệt, nổi trội, ưu thế của văn học mà không một loại hình nghệ thuật nào có thể thay thế được. Nội dung Khái niệm văn học là gì? Trước tiên, ta phải khẳng định rằng có rất nhiều quan điểm xoay quanh khái niệm văn học là gì. Có ý kiến cho rằng văn học là một loại hình sáng tác, tái hiện những vấn đề của đời sống xã hội và con người. Có ý kiến khác lại cho rằng văn học cũng chỉ là hiện thực đời sống. Song, tựu chung lại, văn học là một loại hình ý thức xã hội thẩm mĩ thuộc kiến trúc thượng tầng, là tác phẩm bằng ngôn từ - đây cũng là bản chất của văn học, nhằm phân biệt văn học với các loại hình nghệ thuật khác. Vị trí của văn học trước khi bùng nổ văn hóa nghe nhìn Như chúng ta đã thấy, văn học đối với đời sống con người là vô cùng quan trọng. Nếu như trước kia người ta coi văn chương như một phương tiện để truyền tải đạo lí “Văn dĩ tải đạo, thi dĩ ngôn chí”, văn chương dùng để nói trí, để tuyên truyền đạo đức, ứng xử ở đời. Văn học đóng vị trí vô cùng quan trọng. Trong thời phong kiến để tuyển chọn người tài người ta tổ chức các cuộc thi về văn. Quan văn – quan võ ngang bằng nhau trong xã hội, đây là hai yếu tố được đề cao với một bậc quân tử, người tài. Người ta tìm đến văn chương như một người bạn, là nguồn tri thức khổng lồ để hoàn thiện nhân cách, trí tuệ bản thân. Và dường như văn học là nguồn cung cấp kiến thức, tìm kiếm sự giải trí, sự đồng điệu về cảm xúc duy nhất. Sự hạn chế về công nghệ, các loại hình giải trí khác chưa được đề cao và phát triển rực rỡ như ngày nay thì vị trí của văn học càng được đề cao. Tuy nhiên, ngày nay với sự bùng nổ của văn hóa nghe nhìn thì số phận, vai trò của văn học cũng ít nhiều thay đổi. Người ta tìm đến nhiều nguồn khác nhau để giải trí, giáo dục, thưởng thức: hội họa, ca nhạc, nhảy múa, Vậy câu hỏi đặt ra và cần được giải quyết là: điều gì làm cho văn học có thể tiếp tục tồn tại và con người vẫn luôn cần đến văn học. Để minh chứng cho vấn đề trên tôi sẽ đi làm sáng rõ giá trị, sự khác biệt trong chất liệu và chức năng của văn học so với các loại hình nghệ thuật khác. Chất liệu của văn học (ngôn từ) trong tương quan chất liệu với các loại hình khác. Từ đó, thấy được sự khác biệt, cũng như giá trị của việc dùng ngôn từ trong biểu đạt giá trị tác phẩm và tư tưởng của nhà văn. Văn học không chỉ là một loại hình thái ý thức xã hội mà còn là một loại hình nghệ thuật. Do đó phải tiến lên so sánh với các loại hình nghệ thuật khác. Đặc trưng của các loại hình nghệ thuật xét đến cùng cũng là bắt nguồn từ chất liệu của nó. Nếu như chất liệu của hội họa là màu sắc, đường nét, của âm nhạc là âm thanh và tiết tấu, của vũ đạo là hình thể và động tác, đều là vật chất với những trạng thái của nó. Thì chất liệu của văn học chính là ngôn từ, không phải là bản thân vật chất mà chỉ là một hệ thống những kí hiệu mà thôi. Nói văn học là nghệ thuật của ngôn từ nhưng không phải là những ngôn từ logic chỉ tác động chủ yếu vào lý tính như chính trị, triết học, mà phải là ngôn từ giàu hình ảnh và tình cảm, tác động chủ yếu vào tâm hồn con người. Dưới đây, tôi sẽ làm rõ nét độc đáo, giá trị trong việc sử dụng ngôn từ trong tương quan với chất liệu của các loại hình nghệ thuật khác: Ngôn từ có khả năng biểu đạt thế giới chủ quan của con người cả về cảm xúc, tư tưởng, cảm giác Do ngôn ngữ là cái “vỏ bọc trực tiếp của tư duy” (theo quan điểm của Mác), là kí hiệu của tư duy cho nên những suy nghĩ, cảm xúc hoặc bất cứ trạng thái tư tưởng tình cảm nào của con người dù không nói ra cũng phải thông qua ngôn ngữ để tư duy. Chính vì ngôn ngữ là vỏ bọc của tư duy nên để giải phóng khả năng tư duy người ta phải hướng tới cách tân và mở rộng ngôn ngữ. Thứ nhất, văn học lấy ngôn ngữ làm chất liệu nên có thể bộc lộ trực tiếp cảm xúc, tình cảm của nhân vật hay của chính nhà văn. Trong thơ Xuân Diệu, tiếng lòng của một hồn thơ khát khao sự sống, khát khao tình yêu được thể hiện một cách rõ nét: “Anh nhớ tiếng. Anh nhớ hình. Anh nhớ ảnh Anh nhớ em, anh nhớ lắm em ơi Anh nhớ anh của ngày tháng xa khơi Nhớ đôi môi đang cười ở phương trời Nhớ đôi mắt đang nhìn anh đắm đắm” Trong tình yêu làm sao để không có nỗi nhớ. Nỗi nhớ đã trở thành một hương vị quen thuộc không thể thiếu trong tình yêu. Nỗi nhớ cháy bỏng, cồn cào đang gào thét trong trái tim dường như muốn nổ tung vì nhớ em. Trong thơ Xuân Diệu nỗi nhớ càng được đẩy lên cao trào. Khi yêu nhau họ nhớ nhau từ hình bóng, mái tóc, đôi mắt long lanh đang rực cháy ngọn lửa của tình yêu. Có gì đâu nếu con người ta bộc lộ nỗi nhớ, ca dao xưa cũng có câu: “Nhớ ai bổi hổi, bồi hồi Như đứng đống lửa như ngồi đống than” Cái hay của văn học là tình cảm của nhân vật, cảm xúc của họ không phải được thể như: tiếng nấc, gào thét tuyệt vọng như trong phim, không phải là giai điệu trầm lắng hay cao vót trong âm nhạc, có thể dùng tai, mắt để cảm nhận. Mà trong văn học cảm xúc nhân vật tuy được bộc lộ trực tiếp qua ngôn từ, nhưng để hiểu và thấu cảm được ta phải lắng nghe tiếng lòng đồng cảm của chính mình và tưởng tượng, liên tưởng. Thứ hai, văn học với chất liệu là ngôn từ còn thể hiện quá trình tư duy. Hình tượng văn học có được là một quá trình đọc và nghiền ngẫm của bạn đọc. Nếu các loại hình nghệ thuật khác quá trình tư duy gần như rất ít, bởi đó là các loại hình vật chất, tác động trực tiếp vào các giác quan của con người. Ngược lại, khi đọc một tác phẩm văn học đòi hỏi bạn đọc phải đọc toàn bộ tác phẩm, mỗi chương, mỗi phần là sự chuyển mình trong thế giới nội tâm nhân vật. Hình tượng nhân vật chỉ hoàn thiện khi ta khép lại trang cuối của cuốn sách. Khi đọc “Ngàn mặt trời rực rỡ” chắc hẳn chúng ta mới thấu hiểu cuộc sống, tâm tư của con người bị vùi dập cả thể chất lẫn tinh thần do mảnh vỡ chiến tranh ở Afghanistan. Và phải đọc từng trang sách, thông qua cả một quá trình tư duy ta mới xây dựng được hình tượng của nhân vật Mariam trong trí tưởng tượng. Một Mariam mạnh mẽ, đầy sự đau khổ, bất hạnh với diễn biến tâm lý vô cùng phức tạp. Mariam là con gái ngoài giã thú của một trong những doanh nhân thành đạt nhất ở thành phố Herat, Jalil. Cô lớn lên trong một túp lều nhỏ bên ngoài thành phố cùng với người mẹ. Cuộc sống xa cách với xã hội, không được hưởng một nền giáo dục, không bạn bè, tuổi thơ của cô bé bị ám ảnh bởi sự xấu hổ với thân phận một harami. Sự xấu hổ, đau đớn, giằng xé hơn khi cô tin rằng mình là nguyên nhân khiến mẹ tự tử. Xấu hổ khi cảm thấy mình không là gì, không quan trọng với cha. Rồi đau thương chồng chất đau thương khi chồng cũng xa lánh vì cô không thể sinh cho anh ta một đứa con trai. “Hãy nhớ lấy điều này và nhớ kĩ con gái ạ. Giống như chiếc kim la bàn luôn chỉ về hướng Bắc, ngón tay buộc tội của người đàn ông luôn trỏ tay vào người phụ nữ. Luôn luôn là như vậy.” Cuộc đời của Mariam được đánh dấu bởi cái chết chăng: Cái chết của mẹ Nana, cái chết của đứa con còn chưa kịp cất tiếng khóc chào đời, cái chết của chồng và cuối cùng là cái chết của chính mình nhằm bảo vệ Laila và những đứa con của cô – vợ thứ hai của chồng mình và đó cũng là người cô yêu thương duy nhất còn sống sót. Mariam như một tảng đá dưới suối không chai sạn, vô cảm mà càng mặn nồng yêu thương hơn trước sóng gió cuộc đời, một người phụ nữ đầy nghị lực, niềm tin và lòng nhân ái. Có lẽ, phải đọc đến trang cuối cùng hình ảnh của một Mariam mới hoàn thiện trong ta với tất cả phẩm chất, thế giới nội tâm, dòng suy tưởng, quá trình đấu tranh tâm lý mãnh liệt của người phụ nữ trong xã hội đầy rẫy áp bức, bất công. Ngôn ngữ là hiện tượng phi vật thể - xuất hiện trong tưởng tượng, liên tưởng của người đọc Chất liệu của tất cả các loại hình nghệ thuật như hội họa, âm nhạc, phim ảnh đều là các vật chất, vật thể có thể tác động trực tiếp đến các giác quan của con người, tạo sự tập trung, thu hút lớn. Như chúng ta có thể trực tiếp xem được tượng Phật bà nghìn mắt nghìn tay, chùa Dâu, Tất nhiên nghe nhìn xong, công chúng cũng tha hồ tưởng tượng thêm nhưng vốn đã có hình ảnh trực quan ban đầu. Trái lại, ngôn ngữ không phải là vật thể cụ thể mà chỉ là một hệ thống kí hiệu. Cho nên hình tượng mà thơ văn xây dựng lên không thể nghe nhìn một cách trực quan mà phải thông qua tưởng tượng, liên tưởng. Vẻ đẹp của nàng Vân, nàng Kiều trong thơ Nguyễn Du chỉ sống cùng năm tháng, sống trong trái tim bạn đọc khi đọc tác phẩm kết hợp với liên tưởng để hình dung vẻ đẹp của hai nàng: “Vân xem trang trọng khác vời Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang Hoa cười ngọc thốt đoan trang Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da” Thuý Vân hiện lên với những gì đẹp đẽ nhất, đặc sắc nhất, thiêng liêng nhất của tinh hoa đất trời: Hoa, trăng, ngọc, mây, tuyết. Đó là sự quy tụ của vẻ đẹp trời đất, của thiên nhiên. Đó cũng là chuẩn của vẻ đẹp con người cần hướng đến trong thi pháp văn học trung đại. Mỗi câu thơ, là một nét vẽ tài hoa về bức chân dung giai nhân. Cử chỉ, dáng đi đứng rất trang trọng, quý phái. Cách xử sự rất đúng mực, đoan trang. Đây là vẻ đẹp toàn bích của một thiếu nữ trong sáng, dịu hiền, không vướng một chút bụi trần.           Tác giả miêu tả khuôn mặt của Thuý Vân đầy đặn, sáng trong như khuôn trăng tròn vành vạnh. Tiếng nói trong như ngọc. Miệng cười tươi như hoa. Tóc mềm bóng mượt đến nỗi “mây thua”. Da trắng làm cho tuyết phải “nhường”. Rõ ràng, ở nàng Vân là cái đẹp phúc hậu, đoan trang, cái đẹp chinh phục được xung quanh. Nếu vẻ đẹp của Vân là thuần phác, dịu hiền, đằm thắm, thì Kiều hiện lên với sự sắc sảo, mặn mà hiếm có. “Kiều càng sắc sảo mặn mà So bề tài sắc lại là phần hơn Làn thu thủy, nét xuân sơn Hoa ghen thua thắm, liễu hơn kém xanh” Cái “thần” trong bức chân dung của Thúy Kiều nằm ở đôi mắt. Mắt nàng Kiều xanh trong như nước mùa thu, lông mày thanh tú như  dáng vẻ, nét núi mùa xuân . Thế là đủ cho một tuyệt sắc. Trong nhân tướng học Trung Hoa, phàm ai có đôi mắt vậy thì rất đa đoan và nặng tình. Chính “làn thu thủy” ấy đã dự cảm cho số phận nghiệt ngã của nàng Kiều trong suốt 15 năm trời lưu lạc sau này. Như vậy, hình ảnh nhân vật không trực tiếp tác động đến các giác quan của con người mà ta chỉ có thể cảm nhận bằng năng lực cảm thụ, liên tưởng mà thôi. Đây là nét đặc trưng, riêng biệt của văn học mà không loại hình nghệ thuật nào có thể có được. Khả năng biểu hiện không gian – thời gian Chất liệu của các loại hình nghệ thuật khác, mặc dù là vật chất, vật thể, nhưng hiển nhiên hoàn toàn có khả năng chuyển hóa thành những kí hiệu tượng trưng cho các sự vật khác. Tuy nhiên, cho dù có gộp tất cả những chất liệu như: âm thanh, tiết tấu, màu sắc, đường nét, hình thể,... cũng không thể nào tượng trưng cho mọi sự vật, hiện tượng trong nhân sinh và vũ trụ này. Chính vì thế các loại hình nghệ thuật khác đều mang những hữu hạn trong việc biểu hiện không gian, thời gian ở những mức độ và hình thức khác nhau. Mặt khác, với tư cách là vật thể, những chất liệu ấy cho dù có thứ nhẹ như lông hồng thì tác phẩm cũng rất cồng kềnh. Một bức tranh không thể vẽ hết được một cánh rừng bất tận, một bài hát không thể nói hết được khói bụi chiến tranh, Trái lại, với tư cách là những kí hiệu phi vật thể, ngôn ngữ hay ngôn từ có thể cố kết lại trong văn bản cực kì gọn nhẹ. Và đúng như một câu đố Nga: “Không phải là mật nhưng lại dính với tất cả”, ngôn ngữ hay ngôn từ có thể hình dung bất kì sự vật nào trong thế giới vĩ mô cũng như vi mô, hữu hình cũng như vô hình. Lấy ngôn từ làm chất liệu văn học mang tính cực trị và cực tiểu về không gian, cực lâu và cực nhanh về thời gian là như vậy. Thứ nhất, văn học tái hiện được cả không gian vật lý với cây đa, bến nước, sân đình: “Đầu làng cây duối Cuối làng cây đa Cây duối anh để làm nhà Cây đa bóng mát này ra anh chào” Hay: “Hỏi đâu trúc mọc bờ ao Ai xinh ai đứng nơi nào cũng xinh Hỏi đâu táo rụng sân đình” Cây đa, bến nước sân đình là biểu tưởng của làng quê Việt Nam, là nơi hò hẹn của những đôi trai gái yêu nhau, nơi tụ tập sum họp, lễ hội của người dân, là nơi dừng chân nghỉ ngơi sau ngày làm đồng vất vả, cùng nhau trò chuyện vui vẻ, cùng hát cũng câu ca, điệu hò, điệu lí dân ca. Hiện thực cuộc ấy đi vào trong thơ ca như một người tình yêu dấu tram năm không lỡ lời thề. Thời gian trong văn học cũng vô cùng độc đáo, đó là ánh nắng dịu ngọt của mật vào buổi sáng bình minh, là ánh nắng vương vấn cuối ngày của buổi hoàng hôn. “Mặt trời xuống biển như hòn lửa Sóng đã cài then đêm sập cửa Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi Câu hát căng buồm cùng gió khơi” Thứ hai, văn học không chỉ tái hiện không gian, thời gian vật lý, mà khung thời gian tâm lý, tâm linh được diễn tả sâu sắc: “Dạo hiên vắng thầm reo từng bước Ngoài rèm thưa rủ thác đòi phen Ngoài rèm thước chẳng mách tin Trong rèm dường đã có đèn biết chăng Đèn có biết dường bằng chẳng biết Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi Buồn rầu nói chẳng nên lời Hoa đèn kia với bóng người khá thương” Giữa không gian tĩnh mịch và vắng vẻ người chinh phụ bồn chồn, thấp thỏm chờ tin chồng trở về. Nỗi cô đơn, buồn tủi phủ khắp bầu không gian để người thiếu phụ cô đơn, lẻ bóng suốt đêm thâu bao tháng ngày. Nếu tiếng yêu thúc giục nàng Kiều “Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” thì ở đây trước hiên vắng người chinh phụ lại “thầm gieo từng bước”. Không gian nghệ thuật mà người nghệ sĩ gợi ra chính là “hiên vắng” nhỏ hẹp trước nhà. Nàng lo lắng đi đi lại lại trong vô thức như muốn reo rắc vào lòng người đọc những thanh âm của khổ sầu. Thẳm sâu trong tâm hồn đang chất chứa bao nỗi khổ đau không nơi giãi bày. Cả không gian “trong rèm” và “ngoài rèm” đều nặng nỗi buồn, bao phủ một lớp bụi hiu quạnh, cô đơn. Phải chăng là: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” Sự chia lìa của thời gian trong thơ Hàn Mặc Tử mới chua xót làm sao: “Gió theo lối gió mây đường mây Dòng nước buồn thui hoa bắp lay” Không gian gió mây chia lìa như một nghịch cảnh đầy ám ảnh. Trong thiên nhiên gió mây vốn là người bạn tâm giao, tri âm tri kỉ chẳng bao giờ chia lìa. Vậy mà trong thơ Hàn Mặc Tử gió mây lại chia cắt đôi ngả như tình và lòng người bấy lâu, như chính mối tình của Hàn Mặc Tử. Nhìn lại quan niệm về thời gian, không quan qua các thời kì và thông qua lăng kính của người nghệ sĩ là vô cùng khác nhau. Nếu thời gian trong thi ca trung đại là “thời gian tuần hoàn” nghĩa là thời gian được hình dung như một vòng tròn quay liên tục, tái diễn, hết vòng này đến vòng khác. Đã là vòng tròn tuần hoàn thì thời khắc, thời đoạn có qua đi thì cũng có thể quay trở lại. Quan niệm thời gian tuần hoàn xuất phát từ cái nhìn tĩnh có phần siêu hình, lấy sinh mệnh vũ trụ để làm thước đo thời gian. Ngược lại, thời gian trong thơ Xuân Diệu là “thời gian tuyến tính” nghĩa là thời gian được hình dung như một dòng chảy xuôi chiều, một đi không trở lại. Vì vậy mỗi khoảnh khắc trôi qua là mất đi vĩnh viễn. Cho nên tâm trạng của con người trước cuộc đời vì thế cũng không còn an nhiên, chậm rãi mà sống nhanh, sống vội, sống gấp hơn. “Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già” Xuân Diệu nhìn cuộc đời bằng đôi mắt xanh non biếc rờn nhưng cũng không tránh khỏi những hoài nghi, mất mát. Điều thi sĩ sợ nhất là tuổi trẻ qua đi, tuổi già mau tới, bởi thời gian là tuyến tính nên thời gian như một dòng chảy mà mỗi một khoảnh khắc qua đi là mất đi vĩnh viễn. Bởi vậy, cách sống Xuân Diệu lựa chọn là sống nhanh để tận hưởng, tận hiến thời gian. “Nhanh lên chứ, vội vàng lên mới chứ Em ơi em, tình non sắp già rồi” Tính phổ thông của văn học trong sáng tác, truyền bá, tiếp nhận, lưu trữ Ngôn ngữ có một đặc điểm tuyệt diệu là vốn sở hữu chung của mọi người nhưng đồng thời cũng là sở hữu riêng trọn vẹn không cần phải chia cho từng người. Do đó, là một phương tiện vừa để tự biểu hiện lại vừa để giao tiếp với người khác. Từ đó, về mặt sáng tác, nếu quả mỗi người đều có mầm mống nghệ sĩ thì nghệ sĩ ngôn từ dễ nảy mầm nhất. Và dễ dàng nhận thấy việc sáng tác, xuất bản, lưu trữ, phát hành, tiếp nhận, của văn học ít phải đầu tư về phương diện vật chất hơn nhiều so với các loại hình nghệ thuật khác. Chỉ cần nhắc tới việc xuất bản một số lượng lớn những tác phẩm văn học mà vẫn đưa được bản chính đến tận tay từng người đọc, chứ chưa cần đề cập đến vốn đầu tư cho một cuốn phim lớn như thế nào. Đó là chưa kể tùy theo sở thích và hoàn cảnh của mình người đọc được tự do tuyệt đối trong việc thưởng thức: đọc nhanh, đọc chậm, liền mạch hay nhảy cóc, đọc dở dang hay đọc đi đọc lại. Tiểu kết: Tác phẩm văn học không chỉ phụ thuộc vào chất lượng mà còn phụ thuộc vào rất nhiều điều kiện khác nhau trong quá trình truyền bá, tiếp nhận của bạn đọc. Ngày nay, trong xã hội hiện đại, bùng nổ của văn hóa nghe nhìn đầy hấp dẫn, thú vị, mới mẻ, tính chất phi trực quan của văn học ngày càng tỏ ra ít thuận tiện và ưu thế. Tuy nhiên, do văn học là nghệ thuật ngôn từ, văn học bao giờ cũng bộc lộ khuynh hướng tư tưởng sâu sắc hơn và phản ánh hiện thực toàn diện hơn với cách tiếp nhận và cảm nhận bằng chính sự liên tưởng của người đọc. Chức năng của văn học Để làm rõ được luận điểm: “Trong tương lai con người có cần đến văn học nữa hay không? Vì sao?”, chúng ta phải làm rõ giá trị của văn học trong tương quan với các loại hình nghệ thuật khác. Xuất phát từ nhu cầu giáo dục, giải trí, thẩm mỹ, mà văn học ra đời nhằm đáp ứng những nhu cầu đó. Như vậy, nhận xét từ phía cá tính sáng tạo, từ bản chất văn học, từ góc độ tiếp nhận thưởng thức có thể thấy văn học mang nhiều chức năng trong bản thân nó như một hành động ý thức xã hội từ sáng tạo đến tiếp nhận. Tính đa chức năng của văn học được quyết định bởi tính thống nhất đa dạng của đối tượng nghệ thuật và tính đa nhu cầu của đời sống xã hội và chủ thể sáng tác. Chức năng của văn học thường vận động, biến đổi theo sự đổi thay nhu cầu của con người trong đời sống xã hội. Mỗi một thời đại, một dân tộc tùy hoàn cảnh lịch sử cụ thể của mình mà có những yêu cầu khác nhau đối với hoạt động văn học và mỗi cộng đồng, mỗi giai cấp, mỗi cá nhân lại tùy vào điều kiện thực tại của mình, mục đích thực tiễn của mình để có thể khai thác, tận dụng các khả năng tiềm tàng khác nhau của văn học. Khi cuộc sống thanh bình người ta thích ngâm thơ, vịnh nguyệt tìm thú vui trong thưởng thức văn chương. Lúc cả xã hội dồn sức đấu tranh chống giặc ngoại xâm thì chức năng, nhận thức giáo dục của văn học được đề cao: “Văn chương là vũ khí chiến đấu”. Chức năng thẩm mỹ (chức năng bản chất của văn học) Tình cảm thẩm mỹ là đặc trưng bản chất của văn học nghệ thuật. Nó cho phép văn học thể hiện chức năng tình cảm thẩm mỹ. Chức năng này là chức năng bao chum đặc trưng của văn học. Thẩm mỹ là một phạm trù mang đặc điểm vừa có nét khách quan, vừa có nét chủ quan. Trong tiếp nhận, đánh giá theo một cách nhìn nào đó mang quan hệ ngườ