Trong những thập kỷ gần đây, khái niệm của sự phát triển đã tiến triển qua nhiều giai đoạn, từ việc chú trọng vào tăng trưởng kinh tế, đến tăng trưởng với sự công bằng, thỏa mãn những nhu cầu cơ bản, sự tham gia đến phát triển bền vững (Bates, 1998; Black, 1993; Hobart, 1993; Watts, 1993).
Một thời kỳ dài, khái niệm phát triển gần như chú trọng đến các tiêu chí về công nghiệp, khoa học công nghệ, kinh tế .v.v. khoa học hiện đại, phát triển trên cơ sở khoa học hàn lâm được phân tích trên cơ sở hệ sinh thái tự nhiên. Trong khi đó, như đã trình bày ở mục trên, hệ sinh thái nhân văn đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển xã hội. Hệ xã hội trong hệ sinh thái nhân văn được coi như một phần quan trọng trong phép phân tích hệ thống
22 trang |
Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 2118 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài giảng Các luật tục của cộng đồng trong quản lý tài nguyên rừng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG 4
CÁC LUẬT TỤC CỦA CỘNG ĐỒNG TRONG QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN RỪNG
4.1. Tri thức bản địa và quản lý tài nguyên rừng
4.1.1. Khái niệm về tri thức bản địa và bảo vệ tài nguyên rừng
Trong những thập kỷ gần đây, khái niệm của sự phát triển đã tiến triển qua nhiều giai đoạn, từ việc chú trọng vào tăng trưởng kinh tế, đến tăng trưởng với sự công bằng, thỏa mãn những nhu cầu cơ bản, sự tham gia đến phát triển bền vững (Bates, 1998; Black, 1993; Hobart, 1993; Watts, 1993).
Một thời kỳ dài, khái niệm phát triển gần như chú trọng đến các tiêu chí về công nghiệp, khoa học công nghệ, kinh tế .v.v. khoa học hiện đại, phát triển trên cơ sở khoa học hàn lâm được phân tích trên cơ sở hệ sinh thái tự nhiên. Trong khi đó, như đã trình bày ở mục trên, hệ sinh thái nhân văn đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển xã hội. Hệ xã hội trong hệ sinh thái nhân văn được coi như một phần quan trọng trong phép phân tích hệ thống. Tri thức bản địa là hệ thống thông tin làm cơ sở của một hệ thống xã hội, được làm thuận tiện trong sự truyền đạt thông tin và ra quyết định. Hệ thống thông tin bản địa là động lực và sự tác động liên tục bởi sự sáng tạo từ nội lực, sự thực nghiệm, cũng như sự giao diện với hệ thống bên ngoài (Flavier và ctv. 1995).
Tri thức bản địa, nói một cách rộng rãi là tri thức được sử dụng bởi những người dân địa phương trong cuộc sống của một môi trường nhất định (Langil và Landon, 1998). Như vậy, tri thức bản địa có thể bao gồm môi trường truyền thống, tri thức sinh thái, tri thức nông thôn và tri thức địa phương... .
Theo Johnson, 1992, tri thức bản địa là nhóm tri thức được tạo ra bởi một nhóm người qua nhiều thế hệ sống và quan hệ chặt chẻ với thiên nhiên trong một vùng nhất định. Nói một cách khái quát, tri thức bản địa là những tri thức được rút ra từ môi trường địa phương, vì vậy nó gắn liền với nhu cầu của con người và đIều kiện địa phương (Langil và Landon, 1998).
Theo Warren, 1991, tri thức bản địa là tri thức địa phương – dạng kiến thức duy nhất cho một nền văn hóa hay một xã hội nhất định. Đây là kiến thức cơ bản cho việc ra quyết định ở mức địa phương về nông nghiệp, chăm sóc sức khỏe, chế biến thức ăn, giáo dục, quản lý tài nguyên thiên nhiên, và các hoạt động chủ yếu của cộng đồng nông thôn. Khác với tri thức bản địa hệ thống tri thức hàn lâm thường được xây dựng từ các Trường đại học, Viện nghiên cứu.
Ngày nay, tri thức bản địa được xem như là một trong những vấn đề then chốt trong việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên bền vững và sự cân bằng trong phát triển (Brokensha và ctv., 1980; Compton, 1989; Gupta, 1992; Niamir, 1990; Warren, 1991a).
Tri thức bản địa là tri thức của cộng đồng cư dân trong một cộng đồng nhất định phát triển vượt thời gian và liên tục phát triển (IIRR, 1999). Tri thức bản địa được hình thành dựa vào kinh nghiệm, thường xuyên kiểm nghiệm trong quá trình sử dụng, thích hợp với văn hóa và môi trường địa phương, năng động và biến đổi.
Các khái niệm về tri thức bản địa (local indigenous knowledge) hàm ý không chỉ là phần cứng hay ảnh hưởng và ứng dụng của kỹ thuật như chăm sóc sức khỏe gia súc, mà còn có phần mềm, đó là các hệ thống quản lý gia súc và cấu trúc xã hội, cấu trúc nhóm đã tạo nên chúng (Mathias-Mundy và McCorkle, 1992).
Tóm lại, tri thức bản địa là những nhận thức, những hiểu biết về môi trường sinh sống được hình thành từ cộng đồng dân cư ở một nơi cư trú nhất định trong lịch sử tồn tại và phát triển của cộng đồng (Nguyễn Thanh Thự, Hồ Đắc Thái Hoàng, 2000).
Đặc điểm của hai hệ thống kiến thức hiện hành được mô tả và thảo luận trong Bảng 1. Về mặt ngữ nghĩa trong nghiên cứu hiện tượng, tri thức hàn lâm được nghiên cứu chính thống về mặt thời gian có thể ngắn hoặc dài nhưng dựa trên hệ thống kiến thức mang tính kế thừa, được kết luận thông qua quá trình thí nghiệm hoàn chỉnh. Hệ thống tri thức bản địa mang tính tổng quát, được rút ra từ sự quan sát ghi nhận, phân tích theo tính tự phát. Thí nghiệm phi chính quy thường được thực hiện với thời gian dài. Theo tính chất sử dụng tài nguyên và đầu ra của hệ thống, tri thức bản địa thường chú trọng vào tiềm năng địa phương và sản xuất theo công thức “đầu tư thấp-năng suất thấp”.
Bảng 4.1: Đặc điểm của hệ thống kiến thức hiện hành
Nguồn: DeWalt, 1994.
4.1.2. Ý nghĩa của tri thức bản địa
Tri thức bản địa là nhấn mạnh cho tính tự cung, tự quyết với nhiều lý do trong đó hai lý do chính được mô tả như sau:
1. Con người quen thuộc với thực tiễn và kỹ thuật địa phương. Họ có thể hiểu, nắm vững nó, duy trì chúng dễ hơn việc học tập và thực hành các tri thức mới được cung cấp bởi những người ngoài xa lạ và xa xôi, không phù hợp với điều kiện tự nhiên địa phương.
2. Tri thức bản địa được hình thành trên nguồn tài nguyên địa phương, người dân có thể ít phụ thuộc vào nguồn cung cấp từ bên ngoài-có thế đắt tiền và không phù hợp với họ. Theo Mundy và Compton, 1992, tri thức bản địa thường có thể được cung cấp rẻ tiền, giải quyết được các vấn đề mang tính địa phương nhằm nâng cao sức sản xuất và mức sống.
Tri thức bản địa có giá trị và ảnh hưởng lớn đến hệ thống quản lý tài nguyên thiên nhiên đặc biệt là tài nguyên rừng với các cộng đồng dân tộc miền núi vì vậy có thể coi như là cơ sở và là nguồn tiềm năng chính của việc quản lý bền vững tài nguyên thiên nhiên địa phương (Boonto, 1992). Vì vậy, tri thức bản địa phải được coi là một nguồn tài nguyên quý giá và quan trọng của từng địa phương và của đất nước (Hoàng Xuân Tý, 1998).
4.1.3. Các loại hình tri thức bản địa
Theo IIRR, 1999, tri thức bản địa có thể phân ra các loại hình như sau:
- Thông tin: Hệ thống thông tin về cây cỏ, thực vật có thể được trồng trọt hay canh tác tốt cùng tồn tại với nhau trên cùng một diện tích canh tác nhất định hay những chỉ số về thực vật. Các câu chuyện, thông điệp được truyền lại bằng các vết đục, chạm khắc hay viết trên các thẻ trúc (Trung quốc, Việt nam, Thái lan...), các dạng lưu truyền dân gian, hệ thống trao đổi thông tin truyền thống.
- Thực tiễn và kỹ thuật: Tri thức bản địa bao gồm kỹ thuật về trồng trọt và chăn nuôi, và phương pháp lưu trữ giống, chế biến thức ăn, kỹ năng chữa bệnh cho người và gia súc, gia cầm.
- Tín ngưỡng: Tín ngưỡng có thể đóng vai trò cơ bản trong sinh kế, chăm sóc sức khỏe và quản lý môi trường của con người. Những cánh rừng thiêng (rừng ma) được bảo vệ với những lý do tôn giáo. Những lý do này có thể duy trì những lưu vực rộng lớn đầy sức sống. Những lễ hội tôn giáo có thể là cơ hội bổ sung thực phẩm, dinh dưỡng cho những cư dân địa phương khi mà khẩu phần thường nhật của họ là rất ít ỏi.
- Công cụ: Tri thức bản địa được thể hiện ở những công cụ lao động trang bị cho canh tác và thu hoạch mùa màng. Công cụ nấu nướng cũng như sự thực hiện các hoạt động đi kèm.
- Vật liệu: Tri thức bản địa được thể hiện với vật liệu xây dựng, vật liệu làm đồ gia dụng cũng như tiểu thủ công nghiệp truyền thống.
- Kinh nghiệm: Người nông dân thường tích lũy kinh nghiệm trong quá trình canh tác, giới thiệu các nguyên liệu giống mới cho hệ thống canh tác đặc hữu. Nhiều kết quả chữa bệnh đặc biệt được tích lũy qua kinh nghiệm sử dụng nguồi thực vật địa phương.
- Tài nguyên sinh học: Tri thức bản địa được thể hiện thông qua quá trình chọn giống vật nuôi và các loại cây trồng.
- Tài nguyên nhân lưc: Nhiều chuyên gia có chuyên môn cao như thầy lang, thợ rèn ... có thể coi như đại diện của dạng tri thức bản địa. Tri thức bản địa trong dạng này có thể thấy ở các tổ chức địa phương như nhóm họ tộc, hội đồng già làng trưởng tộc, các nhóm tổ chia sẻ hoặc đổi công.
- Giáo dục: Phương pháp truyền thụ kiến thức truyền thống, cách truyền nghề cho các thợ học việc, học hỏi thông qua sự quan sát và những thực nghiệm, thực hành tại chỗ.
4.1.4. Nguồn cung cấp và mối quan hệ của nguồn và tri thức bản địa
Không phải tất cả mọi người trong cộng đồng có cùng chung và giống nhau về tri thức kỹ thuật bản địa (Swift, 1979). Thông thường những người già cả có khi thức phong phú hơn người trẻ tuổi (IIRR, 1999). Tuy nhiên trong thực tế các thành phần khác nhau của xã hội có thể biết những tri thức khác nhau và được phân biệt với các dạng, giới tính, nghề nghiệp, tuổi tác, trình độ văn hóa... Tri thức thông thường, phổ biến thì được mọi giới mọi loại người biết được ví dụ cách nấu cơm, hay làm thức ăn thông thường đơn giản. Tuy nhiên đối với những tri thức đặc hữu, sự chia sẻ kiến thức không được phổ cập mà chỉ cho một vài giới hay người trong cộng đồng. Ví dụ: Những trẻ chăn thả gia súc thường có nhiều kinh nghiệm về chăm sóc gia súc hơn những trẻ khác. Một số bài thuốc chữa bệnh được truyền lại cho trưởng nam (người Kinh và người các dân tộc thiểu số Trung bộ) hoặc trong phạm vi những người con gái trong gia đình (Người Thái ở Sơn la và Nghệ an). Vài ngành nghề truyền thống được truyền lại chặt chẻ hơn nữa chỉ dành cho một số rất ít người nhằm duy trì nghề nghiệp và bí mật nghề nghiệp.
Các dạng tri thức có quan hệ đến tuổi tác, giới tính, trình độ văn hóa, phân bố lao động trong gia đình hay trong cộng đồng, nghề nghiệp, môI trường, địa vị xã hội, kinh nghiệm, lịch sử... (IIRR, 1999; Swift, 1979). Phân bố tri thức bản địa theo các kiểu trên đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển công việc với tối ưu hóa trong kết quả và hiệu suất công việc.
Có thể thấy 5 dạng người đóng vai trò truyền thông và lưu trữ tri thức trong cộng đồng (Mundy và Compton, 1992), được thống kê sau:
i. Các chuyên gia địa phương (Indigenous experts)- các chuyên gia địa phương hay theo cách gọi của McCorkle và ctv (1988) là những nhà thông thái địa phương có tầm hiểu biết rộng rãi, thường được thỉnh cầu ý kiến bởi cộng đồng cư dân địa phương, cả 2 giới đều có thể có những đại diện này trong kết quả điều tra của Norem và ctv (1988).
ii. Các nhà chuyên nghiệp địa phương (Indigenous professionals) là một dạng đặc biệt của các chuyên gia địa phương, những người này có kiến thức không rộng rãi và thông thái trong cộng đồng nhưng những gì họ biết là nhóm kiến thức được giữ bí mật với những người khác trong cộng đồng như là thầy lang, thầy phù thủy, thợ rèn, thợ sơn tràng.
iii. Nhà cải cách (Innovator)- người hiểu biết thuộc nhóm này có thể phát triển ý tưởng bởi chính họ, hoặc giới thiệu ý tưởng đã được quan sát sâu sắc cho cộng đồng thử nghiệm, họ cúng có thể là người giới thiệu ý tưởng ngoại lai vào cộng đồng.
iv. Người trung gian (Intermediary)- là nhóm người chuyển giao thông tin từ nơi này đến nơi khác và giới thiệu ý tưởng thử nghiệm cho cộng đồng cư dân địa phương, nhóm thông tin này có thể trở thành tri thức bản địa theo sự thử nghiệm và điều chỉnh theo điều kiện lập địa của địa phương.
v. Người dễ tiếp nhận (Recipient-disseminator)- là những người dễ tiếp nhận nhóm tri thức ngoại lai hoặc tự nghiên cứu thử nghiệm nhằm tạo nhóm tri thức bản địa theo thời gian.
4.1.5. Đặc trưng của tri thức bản địa
Tri thức bản địa có những đặc trưng sau:
1. Đa Tri thức bản địa được hình thành và biến đổi liên tục qua các thế hệ trong một cộng đồng địa phương nhất định
2. Tri thức bản địa có khả năng thích ứng cao với môi trường riêng của từng địa phương, nơi đã hình thành và phát triển tri thức đó.
3. Tri thức bản địa rất đơn giản, chi phí thấp và bền vững đối với điều kiện tự nhiên địa phương (Wongsamun, 1992; Hoàng Xuân Tý, 1998b)
4. Tri thức bản địa do toàn thể cộng đồng trực tiếp sáng tạo ra qua lao động trực tiếp
5. Tri thức bản địa không được ghi chép bằng văn bản cụ thể (Mundy và Compton, 1992) mà được lưu giữ bằng trí nhớ và lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng, thơ ca, hò vè, tế lễ và nhiều tập tục khác nhau (thông qua các hình thức văn hóa đặc trưng mang tính địa phương).
6. Tri thức bản địa luôn gắn liền và hòa hợp với nền văn hóa, tập tục địa phương
7. Tri thức bản địa có giá trị cao trong việc xây dựng các mô hình phát triển nông thôn bền vững.
8. Tính dạng của tri thức bản địa rất cao
Theo Boonto (1992), tri thức bản địa của người dân tộc Karen vùng Tam giác vàng trong bảo vệ tài nguyên thiên nhiên có 3 đặc trưng là i. Ảnh hưởng của các tổ chức xã hội quản lý cộng đồng, ii. Luật tục và các quy ước sử dụng đất, và iii. Kỹ thuật sử dụng và bảo vệ tài nguyên của địa phương.
4.1.6. Tri thức bản địa trong quản lý tài nguyên thiên nhiên
Dân số thế giới ngày càng tăng nhanh, nhu cầu của con người cũng tăng lên mạnh mẽ theo tốc độ tăng nhanh của khoa học kỹ thuật. Người ta ở khắp nơi đã và đang khai thác tài nguyên thiên nhiên một cách quá mức và nhiều vấn đề về môi trường đang được đặt ra ở cả các nước phát triển, đang phát triển và các nước nghèo. Nạn suy thoái môi trường nghiêm trọng đã buộc con người nhìn nhận lại vấn đề phát triển bền vững, và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên.
Theo Atteh (1992), tri thức bản địa là chìa khóa cho sự phát triển ở cấp địa phương (Hoàng Xuân Tý, 1998a). Hiện nay trên thế giới có khoảng 124 nước hoạt động trong lĩnh vực nghiên cứu tri thức bản địa nhằm tăng tính hiệu quả trong phát triển nông thôn và quản lý bền vững tài nguyên thiên nhiên. Cá biệt, nhiều nước trên thế giới chú trọng khai thác dạng tài nguyên này cho các mục đích thương mại có giá trị cao ví dụ trong lĩnh vực dược học và mỹ phẩm. Ngoài ra, ở rất nhiều nơi trên thế giới kể cả các nước phát triển và đang phát triển, tri thức bản địa đang được nghiên cứu hỗ trợ cho các nghiên cứu khoa học, làm tăng nguồn tư liệu cơ sở về môi trường, được sử dụng để đánh giá tác động của quy trình phát triển, được sử dụng như một công cụ để lựa chọn, quyết định. Vì vậy, nên phát triển nghiên cứu tri thức bản địa nhằm thu thập, lưu trữ, nâng cao sự hiểu biết các tiến trình phát triển, ứng dụng và điều chỉnh kỹ thuật của các cộng đồng cư dân địa phương (Wongsamun, 1992)
Ở các nước đang phát triển, tri thức bản địa được sử dụng thường xuyên và thường gặp trong kỹ thuật bảo vệ tài nguyên thiên nhiên. Nghiên cứu của Boonto (1992) cho thấy, hệ thống quản lý tài nguyên thiên nhiên của người dân tộc Karen đã và đang tác động rất lớn vào môi trường thông qua canh tác nương rẫy. Tuy nhiên kỹ thuật canh tác nương rẫy của dân tộc này cho phép họ bảo vệ và sử dụng tài nguyên, môi trường bền vững và ổn định theo thời gian. Hai lý do của kỹ thuật bảo vệ hệ thống canh tác nương rẫy: 1. Ngăn chặn sự thoái hóa đất canh tác, bảo vệ rừng và 2. Xúc tiến tái sinh tự nhiên trong quá trình bỏ hóa đất canh tác. Bảo vệ sự tác động vào diện tích rừng và tài nguyên rừng bằng cách i. Bố trí các đường ranh cản lửa nhằm ngăn chặn cháy lan khi đốt nương rẫy; ii. Tránh tác động vào rừng và thảm thực vật ở đỉnh đồi, núi nơi có bố trí đất canh tác ở sườn đồi; iii. Canh tác với luần kỳ 1 năm trồng trọt và 7 năm bỏ hóa; iv. Không đào và cắt bỏ hệ thống rễ cây khi vệ sinh nương rẫy, các gốc cây được giữ lại với chiều cao khoảng 0,4m có lợi cho tái sinh chồi trong vòng 6 tháng tới.
Tại miền núi Trung Việt Nam, theo Hoàng Xuân Tý, 1998b, Người K’tu thường sử dụng các khái niệm đơn giản để phân loại đất và nhiều kinh nghiệm canh tác được phát triển theo các phân loại đất này đã mang lại hiệu quả rõ rệt cho vùng có chế độ mưa muộn, cường độ cao và tập trung. Tuy nhiên, người Thái ở Sơn La phân loại đất theo mục đích sử dụng và hệ thống phân loại đất canh tác theo địa hình chung, theo màu, bằng dao, bằng vị giác và cây chỉ thị nhằm xác định cơ cấu cây trồng thích hợp cho từng loại đất đai (Hoàng Hữu Bình, Hoàng Xuân Tý, 1998). Việc phân loại đất canh tác góp phần quan trọng trong việc sử dụng đất đai, nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên thiên nhiên. Các dự án quản lý tài nguyên thiên nhiên cần phát triển trên hệ thống tri thức bản địa có sẵn (Boonto, 1992), phân tích và phát triển trên cơ sở thực thi dự án có sự tham gia của cộng đồng cư dân địa phương.
Thông thường, các dự án phát triển bắt đầu với việc phát hiện vấn đề sau đó thảo luận tìm hướng giải quyết vấn đề. Ví dụ, nếu tình trạng xói mòn đất là vấn đề cần quan tâm. Vậy, bảo vệ đất đai chống xói mòn là yêu cầu cần giải quyết. Nếu nông dân cần tiền để đầu tư cho trang trại, chương trình tín dụng cần phải được trả lời. IIRR, (1999) đề nghị biểu đồ tổng kết những quyết định phải được thực thi. Có 4 bước cơ bản như sau.
Tri thức bản địa dưới góc độ tri thức kỹ thuật bản địa đóng vai trò quan trọng trong tiến trình phát triển nông thôn và bảo vệ tài nguyên môi trường. Tại Thái Lan, chỉ vài nghiên cứu về tri thức bản địa được tổ chức vào năm 1987 tại miền Đông Bắc người ta đã tìm thấy 993 tri thức kỹ thuật bản địa được sử dụng thường xuyên bởi người dân địa phương (Wongsamun, 1992).
Kết quả điều tra được tổ chức tại thôn Phú mậu Tỉnh Thừa Thiên Huế, gần 200 tri thức bản địa, kiến thức dân gian được thu thập về các lĩnh vực kỹ thuật canh tác, sử dụng bền vững tài nguyên rừng. Các nhóm tri thức bản địa thường khá đơn giản, dễ dàng sử dụng đối với từng nhóm dân tộc, độ tuổi và ngành nghề nên thường có hiệu quả cao.
4.1.7. Phương pháp tiếp cận trong nghiên cứu tri thức bản địa
Tiếp cận tri thức bản địa cần có nhiều hiểu biết về kỹ thuật lẫn xã hội, thông thường nên sử dụng các phương pháp có người dân tham gia như PRA (Hoàng Xuân Tý, 1998), nhưng cần sử dụng rất linh hoạt, kiểm tra nhanh kết quả và kết hợp đa ngành.
Có nhiều phương pháp tiếp cận tri thức bản địa vì vậy có thể lựa chọn phương pháp tiếp cận linh hoạt tùy theo đIều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của địa điểm nghiên cứu.
1. Nhận ra chuyên gia tri thức bản địa: Là phương pháp xác định nhận diện cá nhân hiểu biết bằng phương pháp đặt câu hỏi hoặc biểu đồ hóa.
2. Nghiên cứu trường hợp: Là phương pháp điều tra điều kiện tự nhiên hoàn chỉnh và sâu sắc một vấn đề, một hoạt động trong một điều kiện tự nhiên nhất định.
3. Quan sát hiện trường: Quan sát ngoại mạo những hiện tượng được thực hiện hoặc có sẵn của cộng đồng cư dân dịa phương.
4. Quan sát có sự tham gia: Là phương pháp nghiên cứu trong đó điều tra viên với cộng đồng cư dân cùng quan sát và tham gia các hoạt động thường nhật nhằm phát hiện chủ đề nghiên cứu.
5. Phỏng vấn chuyên sâu: Là một dạng phỏng vấn trong đó các câu hỏi hoăc chủ đề được xây dựng trên cơ sở phát triển ý tưởng nhằm phát hiện sự thật và sự linh hoạt.
6. Phân tích công nghệ có sự tham gia: Là phương pháp phân tích hệ thống mà nghiên cứu viên và người dân địa phương cùng cộng tác phân tích phát triển chi tiết công nghệ.
7. Não công: Là phương pháp thảo luận nhóm trong đó các thành viên thực hiện não công chọn lựa ý tưởng cho một chủ đề đặc biệt.
8. Năm câu hỏi: Là phương pháp năm bước phân tích nguyên nhân và kết quả.
9. Trò chơi: Là dạng điều tra bằng trò chơi hoặc thể thao nhẹ nhằm phát huy ý tưởng hoặc gợi nhớ tri thức trong các tình huống cụ thể trong thời diểm cụ thể, có phát huy năng lực cá nhân.
10. Đóng kịch: Là phương pháp diễn kịch tự phát nhằm đưa đến tình trạng cụ thể để phát huy năng lực tri thức.
11. Thảo luận nhóm: Là phương pháp điều tra nhằm huy động sự trao đổi giám định tri thức của nhóm hiểu biết cụ thể.
12. Phân tích ưu nhược điểm: Là phương pháp phân tích theo nhóm có sự tham gia theo chủ đề nhất định nhằm thẩm định chủ đề.
13. Phân tích SWOT: Là phương pháp phân tích phản hồi hệ thống theo nhóm nhằm phát hiện ưu - nhược - cơ hội và nguy cơ.
14. So sánh lịch sử: Mô tả điều kiện kỹ thuật và hiện trạng về mặt không gian trong các giai đoạn khác nhau của địa phương về mặt thời gian.
15. Bản đồ: Là phương pháp thu thập thông tin về hiện trạng theo đặc điểm của địa phương nhằm làm cơ sở cho phương pháp phân tích hệ thống thông tin không gian (Spatial Information System).
16. Ma trận: Là phương pháp lập danh mục vật liệu, mô tả tính chất khai thác tri thức bằng phương pháp gợi nhớ và chứng minh.
17. Biểu đồ lịch thời vụ: Là phương pháp mô tả đời sống, hoạt động thực tế trong khoảng thời gian một năm.
18. Biểu đồ Venn: Là phương pháp sử dụng các vòng tròn nhỏ bằng giấy nhằm nhận định vấn đề, mối liên hệ của nhóm ý tưởng và phát triển ý tưởng (IIRR, 1999).
19. Sắp xếp và xếp hạng: Là phương pháp dẫn dắt sắp xếp ý tưởng theo nhóm với tiêu chí cụ thể nhằm phát hiện tiêu chuẩn nghiên cứu.