Bài giảng Chương 3: Tư duy (tiếp)

1. Về kiwsn thức: Sau khi học xong SV trình bày được bản chất phản ánh của tư duy, các đặc điểm, vai trò của tư duy và chứng minh được tư duy là một quá trình có mở đầu, diễn biến, kết thúc một cách rõ ràng. 2. Về kỹ năng: Áp dụng kiến thức đã học vào thực tiễn để rèn luyện, phát triển tư duy. 3. Về thái độ: Có trách nhiệm trong việc rèn luyện bản thân nhằm hình thành, phát triển tư duy cho học sinh trong quá trình dạy học, giáo dục.

pdf46 trang | Chia sẻ: nyanko | Lượt xem: 10840 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài giảng Chương 3: Tư duy (tiếp), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
24 Chương 3: TƯ DUY (Lý thuyết: 9; Thảo luận, thực hành: 2; KT: 1) Môc tiªu häc tËp 1. VÒ kiÕn thøc: Sau khi học xong SV trình bày được bản chất phản ánh của tư duy, các đặc điểm, vai trò của tư duy và chứng minh được tư duy là một quá trình có mở đầu, diễn biến, kết thúc một cách rõ ràng.. 2. Về kỹ năng: Áp dụng kiến thức đã học vào thực tiễn để rèn luyện, phát triển tư duy. 3. Về thái độ: Có trách nhiệm trong việc rèn luyện bản thân nhằm hình thành, phát triển tư duy cho học sinh trong quá trình dạy học, giáo dục. NỘI DUNG 3.1. Khái niệm chung về tư duy 3.1.1. Tư duy là gì ? Tư duy là một quá trình tâm lý phản ánh những thuộc tính bản chất, những mối liên hệ và quan hệ bên trong có tính quy luật của sự vật, hiện tượng trong hiện thực khách quan, mà trước đó ta chưa biết. Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng có vô số những thuộc tính và vô số những mối liên hệ, quan hệ. Trong đó có những thuộc tính, những mối liên hệ, quan hệ bên ngoài; có những thuộc tính, những mối liên hệ, quan hệ bên trong, bản chất. - Ở mức độ nhận thức cảm tính con người mới chỉ phản ánh các thuộc tính bên ngoài (như hình dáng, màu sắc...) là những thuộc tính có thể thay đổi, và nhận thức được bằng các giác quan khi sự vật, hiện tượng đang trực tiếp tác động. Nảy sinh trên cơ sở nhận thức cảm tính và vượt xa giới hạn của nhận thức cảm tính, tư duy phản ánh những thuộc tính bản chất. + Đó là những thuộc tính (đặc điểm) cố hữu (vốn có) tương đối ổn định (có thể mất) gắn liền với sự vật hiện tượng, nhưng nếu mất sẽ không còn sự vật hiện tượng. + Đây là cái để phân biệt sự vật, hiện tượng này với sự vật, hiện tượng khác về phương diện bản chất. 25 + Những thuộc tính bản chất không phải là bản thân vật chất bên trong mà nó là những thuộc tính tương đối trừu tượng chỉ có thể nhận thức được chủ yếu thông qua tư duy. + Những thuộc tính bản chất này tương đối ổn định, tiềm tàng ở bên trong, nhưng nó được bộc lộ ra bên ngoài. Tuy nhiên, cái bên trong, bản chất đó không bộc lộ hoàn toàn mà tùy theo từng điều kiện, từng hoàn cảnh, tức là cái bên ngoài chỉ là một mặt, một biểu hiện của cái bản chất. (nó nói lên một phần nào cái bản chất bên trong). + Những thuộc tính bản chất rất trừu tượng và cũng rất cụ thể tức là cái bên ngoài nói lên một phần nào cái bên trong. + Cái bản chất có tính chất độc lập tương đối, tức là nhiều khi sự vật, hiện tượng thay đổi nhưng về bản chất chưa thay đổi. Vậy: giữa bản chất và hiện tượng có mối quan hệ gắn bó với nhau có tính chất biện chứng vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn (cái bên trong ổn định, khó mất mâu thuẫn với cái bên ngoài thường thay đổi). Các Mác: “Nếu hiện tượng và bản chất của sự vật trùng khớp nhau thì mọi thứ khoa học đều trở nên thừa”. (Tư bản quyển III - 1963 trang 281) Vì nếu bản chất bộc lộ ra toàn bộ bằng cái bên ngoài thì con người sẽ nhận biết được bằng các giác quan tức là con người không cần suy nghĩ, tìm tòi. + Một sự vật hiện tượng có vô số những thuộc tính bản chất (tuy rằng trong đó có những thuộc tính bản chất nhất) tùy theo góc độ mà ta phản ánh, tùy theo mức độ mà ta đi sâu. + Do phản ánh cái bản chất, cái bên trong mà tư duy giúp ta nhận thức sâu sắc, đúng đắn hơn nhiều so với nhận thức cảm tính. - Ở mức độ nhận thức cảm tính con người mới chỉ phản ánh được những mối liên hệ, quan hệ về mặt không gian, thời gian và trạng thái vận động - Đó là mối quan hệ bên ngoài trực quan, cảm tính nói lên sự tồn tại của vật trong không gian, thời gian, trạng thái vận động cụ thể. Nhưng đến tư duy đã phản ánh được những mối liên hệ, quan hệ bản chất, bên trong của hàng 26 loạt những sự vật, hiện tượng, những mối quan hệ ấy mang tính quy luật. Đó là mối liên hệ bên trong và tất yếu giữa các hiện tượng, mối liên hệ có tính quy luật, rất trừu tượng chỉ có thể nhận thức được thông qua tư duy. - Ở mức độ nhận thức cảm tính, con người chỉ phản ánh những cái đang có trong hiện thực, trực tiếp tác động vào giác quan ta, đến tư duy con người hường vào việc tìm kiếm cái mới, cái bản chất, cái khái quát, những cái mà con người chưa biết. Đó là những thuộc tính bản chất, bên trong, những mối liên hệ có tính quy luật của hàng loạt sự vật, hiện tượng, những cái mà bằng giác quan và phương thức nhận thức cảm tính con người chưa thể phản ánh được, con người cần phải tìm kiếm và nắm được để tiếp tục nhận thức, cải tạo và sáng tạo thế giới. Tóm lại: Tư duy là một quá trình tâm lý thuộc bậc thang nhận thức lý tính, cao hơn hẳn so với cảm giác, tri giác. 3.1.2. Bản chất xã hội của tư duy Mặc dù tư duy được tiến hành trong bộ óc của từng người cụ thể, được hình thành và phát triển trong quá trình hoạt động nhận thức tích cực của bản thân mỗi người, nhưng tư duy bao giờ cũng có bản chất xã hội. Bản chất xã hội của tư duy được thể hiện ở những mặt sau: - Tư duy của con người nảy sinh từ tình huống có vấn đề được đặt ra do nhu cầu của cuộc sống, học tập và hoạt động xã hội. Nói cách khác, tư duy của con người bị quy định bởi nguyên nhân xã hội, do nhu cầu xã hội quy định. - Trong quá trình phát triển lịch sử xã hội, tư duy của con người không dừng lại ở trình độ tư duy bằng thao tác tay chân, bằng hình tượng mà con người còn đạt tới trình độ tư duy bằng ngôn ngữ, tư duy trừu tượng, tư duy khái quát - hình thức tư duy đặc biệt của con người. - Trong quá trình tư duy, con người sử dụng phương tiện ngôn ngữ, sản phẩm có tính xã hội cao để nhận thức tình huống có vấn đề, để tiến hành các thao tác tư duy: Phân tích, tổng hợp, so sánh, trừu tượng hóa, khái quát hóa để đi đến những khái niệm, phán đoán, suy lý, những quy luật - những sản phẩm khái quát của tư duy. 27 - Trong quá trình phát triển của mình, con người không chỉ tư duy nhằm giải quyết các vấn đề do thực tiễn cuộc sống đặt ra mà con người còn tiến hành tư duy nhằm lĩnh hội nền văn hóa xã hội để hình thành và phát triển nhân cách của mình, trên cơ sở đó đóng góp những kết quả hoạt động của mình vào kho tàng văn hóa của loài người. - Trong điều kiện phát triển cao của xã hội loài người, hoạt động tư duy của con người mang tính tập thể cao hơn, tức là tư duy phải sử dụng các tài liệu thu được trong các lĩnh vực tri thức liên quan nếu không sẽ không giải quyết được các nhiệm vụ đặt ra. Tư duy của tập thể, tư duy của nhiều nhà khoa học ở nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội cùng góp phần đem lại những thành tựu vĩ đại, góp phần cải tạo thế giới, phục vụ cuộc sống con người. 3.1.3. Đặc điểm của tư duy Thuộc bậc thang nhận thức cao - nhận thức lý tính, tư duy có những đặc điểm mới về chất so với cảm giác, tri giác. Tư duy có những đặc điểm cơ bản sau: a) Tính có vấn đề của tư duy Đây là đặc điểm rất quan trọng nói lên nguyên tắc quyết định luận duy vật biện chứng về tư duy. Quan niệm duy tâm: Tư duy là do ý thức bản ngã, do cái tôi quyết định. Do vậy tư duy không xuất phát từ thực tế khách quan. Quan niệm duy vật: Tư duy dù có trừu tượng, cao siêu đến đâu cũng xuất phát từ thực tiễn khách quan (xuất phát từ đòi hỏi của lao động sản xuất, nhu cầu xã hội ...). Theo Lê Nin: “Thực ra thì mục đích hoạt động của con người là do thế giới khách quan sản sinh ra, lấy thế giới khách quan làm tiền đề”. (V.I. Lê nin - Bút ký triết học 209 - 210) Song không phải hoàn cảnh nào cũng gây được tư duy của con người. Muốn kích thích được tư duy, phải đồng thời có hai điều kiện: - Trước hết phải gặp hoàn cảnh (hay tình huống) có vấn đề. + Vấn đề: Là một câu hỏi, một thắc mắc nào đó về mặt lý thuyết hoặc về mặt thực tiễn, một điều ta chưa hiểu, hay một nhiệm vụ mà ta cần giải quyết, nó chứa đựng những dữ kiện và những điều cần tìm. 28 + Tình huống có vấn đề: Là một tình huống chưa có đáp số nhưng đáp số đã tiềm tàng ở bên trong. Nghĩa là, đã chứa đựng những cái chưa biết từ những cái đã biết. Con người có nhu cầu cần nhận biết những cái chưa biết. + Tình huống có vấn đề xuất hiện khi con người cảm thấy không có khả năng giải thích bản chất vấn đề, hoặc không có khả năng giải quyết vấn đề bằng vốn hiểu biết cũ, bằng phương thức hành động cũ, lúc đó buộc con người phải có nhu cầu tìm phương thức hành động mới, tìm cách giải quyết mới. Trạng thái đó dẫn đến tình huống có vấn đề nảy sinh trong đầu ta. Vậy: Tình huống có vấn đề đó là tình huống (hoàn cảnh) có chứa đựng một mục đích mới, một vấn đề mới, một cách thức giải quyết mới, mà bằng vốn hiểu biết cũ, những phương tiện cũ, phương pháp hoạt động cũ đã có (mặc dù vẫn cần thiết) nhưng không đủ sức giải quyết vấn đề mới đó, để đạt mục đích mới đó. Con người phải tìm cách giải quyết mới tức là phải tư duy. - Thứ hai: Hoàn cảnh có vấn đề đó phải được cá nhân nhận thức đầy đủ, được chuyển thành nhiệm vụ của cá nhân. Tức là, cá nhân phải xác định được cái gì (dữ kiện) đã biết, đã cho và cái gì chưa biết (phải tìm) đồng thời phải có nhu cầu (động cơ) tìm kiếm nó và phải có tri thức cần thiết để giải quyết (trên cơ sở đó tư duy nảy sinh). Những điều kiện quen thuộc hoặc nằm ngoài tầm hiểu biết của cá nhân thì tư duy không xuất hiện. Như vậy: Tư duy chỉ nảy sinh khi đứng trước tình huống (hoàn cảnh) có vấn đề. b) Tính gián tiếp của tư duy Chức năng của tư duy là đi vào cái bản chất và quan hệ có tính quy luật của hàng loạt sự vật, hiện tượng, những cái mà trước đó bằng các giác quan, bằng nhận thức cảm tính chưa phản ánh được (cái không trực tiếp tác động vào các giác quan). Do vậy, buộc tư duy phải phản ánh gián tiếp. Tính gián tiếp của tư duy thể hiện: + Tư duy phản ánh gián tiếp hiện thực khách quan thông qua ngôn ngữ. Ở con người đến tư duy là phản ánh bằng ngôn ngữ, tư duy phản ánh thế giới bằng ngôn ngữ là chủ yếu, hay lấy ngôn ngữ làm phương tiện. Tư duy 29 ngôn ngữ là phương thức hoạt động gián tiếp. Tức là, nhờ có ngôn ngữ tư duy dựa vào mối quan hệ giữa đối tượng này và đối tượng khác, dựa vào mối quan hệ giữa các thuộc tính, các mặt của đối tượng... để phản ánh. + Tư duy phản ánh gián tiếp khi ta không có mặt hoặc chưa có mặt ở nơi sự vật, hiện tượng xảy ra. Có được như vậy là do nắm được cái chung của nhiều đối tượng nên lúc nào đó chỉ cần gặp một dấu hiệu, hoặc quan hệ nào đấy là ta có thể phản ánh được trọn vẹn về một hoặc một số đối tượng. + Tư duy phát hiện ra bản chất của sự vật, hiện tượng và quy luật giữa chúng nhờ sử dụng công cụ, phương tiện (đồng hồ, nhiệt kế, máy móc...) và các kết quả nhận thức (như quy tắc, công thức, quy luật...) của loài người và kinh nghiệm cá nhân mình. + Nhờ đặc điểm gián tiếp này mà tư duy mở rộng không giới hạn những khả năng nhận thức của con người. Tức là nhờ khả năng phản ánh gián tiếp mà tư duy phản ánh được cả quá khứ, hiện tại và tương lai. c) Tính trừu tượng và khái quát của tư duy Khác với nhận thức cảm tính, tư duy có khả năng đi sâu vào nhiều sự vật, hiện tượng nhằm vạch ra những thuộc tính chung, những mối liên hệ, quan hệ có tính quy luật giữa chúng. Hay nói khác, tư duy có khả năng phản ánh những thuộc tính chung nhất, bản chất nhất của một loạt đối tượng cùng loại - Tư duy phản ánh khái quát hiện thực khách quan. Tư duy phản ánh khái quát nghĩa là phản ánh những nguyên tắc, nguyên lý, phản ánh bằng khái niệm, bằng quy luật - phản ánh tính phổ biến, phản ánh cái chung. Song, không phải mọi cái chung đều là cái bản chất vì cái chung (thuộc tính chung) có cái chung giống nhau, cái chung bản chất. ở đây tư duy chỉ khái quát cái chung bản chất. Quá trình đi đến khái quát hóa hiện thực khách quan, tư duy phải trừu xuất khỏi sự vật, hiện tượng những thuộc tính, những dấu hiệu cụ thể, cá biệt xét về một phương diện nào đó - tức là trừu tượng để chỉ giữ lại 30 những thuộc tính bản chất chung cho nhiều sự vật, hiện tượng... rồi trên cơ sở đó mà khái quát. Tóm lại: Tư duy phản ánh cái bản chất chung cho nhiều sự vật hợp thành một nhóm, một loại, một phạm trù, đồng thời trừu xuất khỏi những sự vật đó những cái cụ thể, cá biệt. Vì vậy, tư duy đồng thời vừa mang tính trừu tượng, vừa mang tính khái quát. d) Tư duy liên hệ chặt chẽ với ngôn ngữ Khi nói mối quan hệ giữa tư duy và ngôn ngữ có nhiều quan điểm khác nhau. * Có quan điểm tách biệt tư duy và ngôn ngữ, cho rằng: Tư duy và ngôn ngữ không có quan hệ với nhau, nếu có là do ta gắn cho nó. Họ cho rằng tư duy như là mắc áo, ngôn ngữ là cái áo, khi cái áo khoác lên mắc thì lúc đó tư duy và ngôn ngữ có quan hệ với nhau, còn bình thường thì không có quan hệ với nhau. * Có quan điểm đồng nhất tư duy và ngôn ngữ: Cho rằng: Ngôn ngữ chẳng qua là tư duy phát ngôn ra thành tiếng, hay tư duy là một chuỗi kỹ xảo của những ngôn ngữ. Tức là nghĩ giỏi thì nói giỏi. Quan niệm này có phần đúng là nêu được mối quan hệ gắn bó, nhưng sai là đã nhập cục tư duy và ngôn ngữ. * Quan điểm duy vật biện chứng: Cho rằng: Tư duy trừu tượng, gián tiếp, khái quát không thể tồn tại bên ngoài ngôn ngữ, nó phải dùng ngôn ngữ làm phương tiện. Nếu không có ngôn ngữ thì bản thân quá trình tư duy không diễn ra được, đồng thời các sản phẩm tư duy cũng không được chủ thể và người khác tiếp nhận. Ngôn ngữ cố định lại các kết quả của tư duy. Ở mức độ nhận thức cảm tính có thể chưa cần đến ngôn ngữ vẫn có hình ảnh trên não. Còn đến tư duy nhất thiết phải sử dụng ngôn ngữ làm phương tiện.Vì: - Nhờ quá trình ngôn ngữ trong đầu ta mới ý thức được, nhận thức được tình huống có vấn đề. 31 - Tiếp theo, trong sự diễn biến của quá trình tư duy, con người phải sử dụng ngôn ngữ để tiến hành các thao tác tư duy: phân tích, tổng hợp, so sánh, khái quát hóa, trừu tượng hóa - Ngôn ngữ tham gia vào chính quá trình tư duy. - Ngôn ngữ còn biểu đạt kết quả của quá trình tư duy. Sản phẩm mà tư duy đem lại là những khái niệm,... ngôn ngữ sẽ làm khách quan hóa, vật chất hóa ra khỏi đầu ta để ta nhận thức nó bằng tìm tòi những từ, những mệnh đề biểu đạt cái đó. Như vậy: Tư duy và ngôn ngữ có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Tuy nhiên, ngôn ngữ không phải là tư duy mà ngôn ngữ chỉ là phương tiện của tư duy. Giữa ngôn ngữ và tư duy khác nhau: + Ở chức năng: Tư duy là phản ánh thế giới (nhận thức thế giới) và cho sản phẩm là khái niệm - tư duy là nội dung. Còn ngôn ngữ thì không phản ánh mà biểu đạt, thông báo - ngôn ngữ là hình thức, là phương tiện. + Ở sản phẩm: Tư duy đi đến mặt nội dung là khái niệm, phán đoán, suy lý... Còn ngôn ngữ là những từ, những câu, những tín hiệu, kí hiệu - ngôn ngữ là cái vỏ vật chất. + Một khái niệm có thể biểu đạt bằng nhiều từ, nhiều câu tùy theo mức độ nhận thức. Ngược lại, một từ có thể biểu đạt nhiều khái niệm tùy theo phương diện, mục đích phản ánh. e) Tư duy có quan hệ mật thiết với nhận thức cảm tính Mặc dù tư duy và nhận thức cảm tính thuộc hai mức độ nhận thức khác nhau. Song, giữa tư duy và nhận thức cảm tính có quan hệ chặt chẽ, bổ sung, chi phối lẫn nhau trong hoạt động thống nhất và biện chứng. Thể hiện: - Tư duy bao giờ cũng bắt nguồn từ nhận thức cảm tính (từ trực quan sinh động) nhờ nó làm nảy sinh tình huống có vấn đề là nguồn kích thích để nảy sinh tư duy. Tiếp theo, trong quá trình diễn biến của mình, tư duy nhất thiết phải sử dụng nguồn tài liệu phong phú do nhận thức cảm tính đem lại để tư duy nhằm giải quyết vấn đề. - Ngược lại, tư duy và những kết quả của nó có ảnh hưởng mạnh mẽ đến khả năng phản ánh của cảm giác và tri giác (đến nhận thức cảm tính) làm 32 cho năng lực cảm giác tinh vi, nhạy bén hơn, làm cho tri giác mang tính lựa chọn, ý nghĩa, ổn định. Đồng thời, còn bổ sung, điều chỉnh và khắc phục những sai lầm của nhận thức cảm tính. Những đặc điểm tư duy trên đây có ý nghĩa rất to lớn đối với công tác giáo dục và dạy học. 3.1.4. Sản phẩm của tư duy Bản thân quá trình tư duy đi đến sản phẩm là những ý nghĩ, những ý nghĩ đó khác nhau về mức độ. Đó là những khái niệm, phán đoán, suy lý... a. Khái niệm Là những tri thức bản chất, những qui luật cơ bản, chung nhất của hàng loạt sự vật, hiện tượng. Là sản phẩm cao nhất của nhận thức. Có quan hệ chặt chẽ với từ ngữ biểu đạt khái niệm, khái niệm là nội dung, từ ngữ là vỏ vật chất, là hình thức biểu đạt. b. Phán đoán Là tư tưởng phủ định hoặc khẳng định về một điều gì đấy hoặc có tính chất giả thuyết. Nội dung của phán đoán là kết của các quá trình phân tích, tổng hợp, so sánh, trừu tượng hóa, khái quát hóa. - Căn cứ vào tính chất, người ta chia phán đoán thành 3 loại: + Phán đoán phủ định. Ví dụ: Động vật không có ý thức. + Phán đoán khẳng định. Ví dụ: Chỉ có ở người mới có ý thức. + Phán đoán có tính chất giả thuyết. Ví dụ: Có lẽ, ngoài trái đất, trên các hành tinh khác cũng có sự sống. - Căn cứ vào khối lượng, người ta chia phán đoán thành 2 loại: + Phán đoán toàn thể: Là phán đoán có lượng toàn thể. Khi những đối tượng của phán đoán phản ánh chiếm toàn bộ lớp đối tượng mà người ta đề cập tới thì lượng của phán đoán gọi là toàn thể. Khi những đối tượng được phán đoán phản ánh chỉ chiếm một bộ phận trong lớp đối tượng mà người ta đề cập tới thì lượng của phán đoán là lượng bộ phận. 33 c. Suy lý - Là một hình thức của tư duy đi từ phán đoán này đến phán đoán khác để chúng ta nhận thức đầy đủ thế giới. Ví dụ: Mọi thầy giáo đều phải học lý luận dạy học và chúng ta là thầy giáo nên chúng ta phải học lý luận dạy học. - Suy lý có hai loại: Quy nạp và diễn dịch. + Quy nạp: Là suy lý đi từ cái riêng đến cái chung. Do đó, là yếu tố cấu trúc của tri thức khái quát, của việc hình thành khái niệm, định luật và quy tắc. Ví dụ: Vàng - là kim loại - dẫn điện. Đồng - là kim loại - dẫn điện.  Mọi kim loại đều dẫn điện. Sắt - là kim loại - dẫn điện. Nhôm - là kim loại - dẫn điện. + Diễn dịch: Là suy lý đi từ cái chung đến cái riêng, rút ra kết luận về các sự vật đơn nhất bằng cách giải thích chúng dựa vào các định luật hoặc quy tắc tương ứng đã biết. Ví dụ: Mọi kim loại đều dẫn điện - Sắt là kim loại - Sắt dẫn điện. Hai hình thức quy nạp và diễn dịch gắn bó chặt chẽ với nhau. Ngoài ra, còn có hình thức suy lý tương tự. Đó là suy lý từ những trường hợp riêng biệt này đến trường hợp riêng biệt khác. 3.1.5. Vai trò của tư duy Tư duy có vai trò rất to lớn đối với đời sống và hoạt động nhận thức của con người. Cụ thể: - Tư duy mở rộng giới hạn của nhận thức, tạo ra khả năng vượt ra ngoài những giới hạn của kinh nghiệm cảm tính trực tiếp do cảm giác, tri giác mang lại để đi sâu vào bản chất của sự vật, hiện tượng tìm ra những mối liên hệ, quan hệ có tính quy luật giữa chúng với nhau. - Tư duy không chỉ giải quyết nhiệm vụ trước mắt, ngày hôm nay mà còn có khả năng giải quyết trước cả những nhiệm vụ của ngày mai, trong tương lai do nắm được bản chất và quy luật vận động của tự nhiên, xã hội, con người. 34 - Tư duy cải tạo lại thông tin của nhận thức cảm tính làm cho chúng có ý nghĩa hơn cho hoạt động của con người. Tư duy vận dụng những cái đã biết để đề ra giải pháp giải quyết những cái tương tự, nhưng chưa biết. Do đó làm tiết kiệm công sức của con người. Nhờ tư duy con người hiểu biết sâu sắc và vững chắc về thực tiễn hơn, hành động có kết quả hơn. 3.2. Các giai đoạn của tư duy Tư duy là một hành động. Mỗi hành động tư duy là quá trình giải quyết một nhiệm vụ nào đó nảy sinh trong quá trình nhận thức hay trong hoạt động thực tiễn. Quá trình tư duy từ khi gặp phải tình huống có vấn đề và nhận thức được vấn đề cho đến khi vấn đề được giải quyết bao gồm nhiều giai đoạn (khâu) kế tiếp nhau. Các giai đoạn đó là: 3.2.1. Xác định vấn đề và biểu đạt vấn đề Đây là giai đoạn đầu tiên và quan trọng nhất của quá trình tư duy. Vì hoàn cảnh có vấn đề là một điều kiện quan trọng của tư duy. Tư duy chỉ nảy sinh khi con người nhận thức được hoàn cảnh có vấn đề (tức là xác định được nhiệm vụ tư duy) và biểu đạt được nó. Khi gặp một tình huống có vấn đề, chủ thể tư duy phải ý thức được đó là tình