Nguyên nhân, đặc điểm, tính chất chiến tranh
II.Những bước phát triển của cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước
III. Mấy vấn đề nghệ thuật quân sự trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
Trọng tâm: Mục III
Thời gian
40 trang |
Chia sẻ: nyanko | Lượt xem: 2790 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài giảng Chương IX: Lịch sử cuộc kháng chiến chống mỹ cứu nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương IX
LỊCH SỬ CUỘC KHÁNG CHIẾN
CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC
Giảng viên chính
Đại tá, TS. Phạm Quốc Văn
LỊCH SỬ CUỘC KHÁNG CHIẾN
CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC
NỘI DUNG
I.Nguyên nhân, đặc điểm, tính chất chiến tranh
II.Những bước phát triển của cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước
III. Mấy vấn đề nghệ thuật quân sự trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
Trọng tâm: Mục III
Thời gian
Phương pháp
LỊCH SỬ CUỘC KHÁNG CHIẾN
CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC
*****
I.Nguyên nhân, đặc điểm, tính chất chiến tranh
1.Nguyên nhân
Sau CT thế giới 2, Mỹ trở thành đứng đầu các nước
đế quốc, với chiến lược toàn cầu phản CM chống
lại phong trào độc lập dân tộc, ngăn chặn sự phát
triển của CNXH và bá chủ thế giới
Việt Nam có vị trí địa chính trị, địa kinh tế, địa quân
sự quan trọng ở khu vực Đông Nam Á. Sau khi
chiến thắng thực dân Pháp, VN có ảnh hưởng to
lớn tới phong trào giải phóng dân tộc và có tác
động tới quan hệ của các nước lớn trên thế giới
Trước những ảnh hưởng mạnh mẽ của CM-VN đổi
với phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.
Sau khi Pháp thua trận , Mỹ vội lập ra khối quân
sự Đông Nam Á, và xâm lược miền Nam nhằm
đàn áp phong trào CM của nhân dân ta và rút kinh
nghiệm đối phó với phong trào CM thế giới.
Âm mưu cơ bản của Mỹ là thôn tính miền Nam, biến
miền Nam thành thuộc địa kiếu mới và căn cứ
quân sự của Mỹ, ngăn chặn CNXH lan xuống
Đông Nam Á.
Về phía ta, mục tiêu độc lập dân tộc, thống nhất Tổ
quốc, cả nước tiến lên XHCN là mục tiêu cơ bản
lâu dài của CM-VN. Vì vậy nhân dân ta không có
con đường nào khác là phải kháng chiến chống
xâm lược
Việt Nam là nơi tập trung mâu thuẫn cơ bản của
thế giới. Cuộc kháng chiến của nhân dân ta trở
thành cuộc đọ sức điển hình, tiêu điểm của
cuộc đấu tranh giữa CM và phản CM trên thế
giới, là cuộc CT giải phóng và bảo vệ Tổ quốc
mang tính chất thời đại sâu sắc. Đó là nguồn
gốc, là nguyên nhân và cũng là bản chất của
cuộc CTgiữa nhân dân VN với đế quốc Mỹ.
2.Đặc điểm của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước:
-Đất nước ta tạm thời chia làm hai miền, Đảng ta
nhân dân ta thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược
nhằm một mục tiêu hoàn thành độc lập , thống
nhất đất nước.
-Việt Nam là một nước nhỏ, kinh tế chậm phát
triển, phải đương đầu và đánh thắng một đế
quốc to, có tiềm lực kinh tế và quân sự mạnh.
-Cả hai bên , ta và địch đều vừa phải vừa đánh
vừa tìm hiếu đối phương.
3. Tính chất.
-Là cuộc CT chính nghĩa của nhân dân ta chống
CT xâm lược thực dân mới của đế quốc Mỹ
-Cuộc kháng chiến chống Mỹ vừa mang tính chất
giải phóng dân tộc,vừa mang tính chất bảo vệ
Tổ quốc
-Cuộc kháng chiến của nhân dân ta mang tính
chất liên minh chiến đấu với Lào, Cam-pu-chia
- Cuộc kháng chiến của nhân dân ta mang tính
chất thời đại sâu sắc.
II.Những bước phát triển của cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ kéo dài gần 21 năm,
là một trong những cuộc CT dài ngày nhất, ác
liệt nhất, ác liệt, phức tạp nhất trong lịch sử
chống ngoại xâm của dân tộc. Cuộc CT trải qua
5 giai đoạn chiến lược.
1.Giai đoạn 1 (7.1954-cuối năm 1960)
Đế quốc Mỹ thực hiện chủ nghĩa thực dân mới ở
miên Nam, thông qua chế độ độc tài phát xít
của bọn tay sai Ngô Đình Diệm
Ta ra sức ổn định , củng cố miền Bắc, xây dựng
miền Bắc theo hướng XHCN làm căn cứ địa vững
chắc cho CM cả nước; nhân dân miền Nam tiến
hành đấu tranh chính trị, đòi thi hành hiệp định
Giơ-ne-vơ, đồng thời ra sức tìm phương pháp đấu
tranh thích hợp để vừa đẩy mạnh CM miền Nam,
hạn chế được tổn thất,vừa bảo vệ được miền Bắc,
bảo vệ hệ thống XHCN và bảo vệ hoà bình thế
giới.
Ngày 20.7.1954 các nước tham gia hội nghị Giơ-ne-
vơ đã ký vào bản tuyên bố cuối cùng, “thừa nhận
nhận về nguyên tắc sự độc lập, thống nhất và toàn
vẹn lãnh thổ của VN” 20.7.1955 bắt đầu hiệp
thương, tháng 7.1956 sẽ tổng tuyển cử nhưng đại
diện chính phủ Mỹ không ký. Đây là sự phá hoại
đầu tiên của Mỹ về hội nghi Giơ-ne-vơ
Từ 5.9.1954 đến năm 1960 Đảng đã xác định
nhiệm vụ của CM hai miền Nam-Bắc, nội dung
cơ bản là: “Tiến hành đồng thời hai chiến lược
CM: CM dân tộc dân chủ nhân dân và CM-
XHCN. Hai nhiệm vụ trên đều quan trọng, tuy
vậy, nhiệm vụ củng cố miền Bắc tiến lên XHCN
có tính chất quyết định cho toàn bộ thắng lợi
của CM trong giai đoạn mới”
Dưới sự lãnh đạo của Đảng nhân dân miền Bắc
đã vượt qua khó khăn thử thách, khắc phục
hậu quả CT và cải tạo XHCN đối với nông
nghiệp, công nghiệp, thương nghiệp, thủ công
nghiệp, bước đầu xây dựng, phát triển KT, VH-
XH theo con đường XHCN, xây dựng quân đội,
củng cố quốc phòng.
Ở miền nam cuộc đấu tranh CM của nhân dân ta
trải qua những năm tháng vô cùng khó khăn, ác
liệt, các đợt: “tố cộng”, “diệt cộng”, những cuộc
càn quét của địch làm cho lực lượng CM bị tổn
thất lớn. Mặc dù vậy Đảng đã rút vào hoạt động
bí mật, lãnh đạo quần chúng đấu tranh.
Từ thực tiễn của phong trào đấu tranh của nhân
dân miền Nam. Tháng 1.1959, ban chấp hành
TƯ ra nghị quyết 15 về con đường tiến lên của
CM miền Nam. Nhiệm vụ cơ bản là “giải phóng
miền Nam, trước mắt là đánh đổ tập đoàn Ngô
Đình Diệm, phương thức đấu tranh là dùng bạo
lực CM, từ đấu tranh chính trị tiến lên kết hợp
đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang”
Nghị quyết 15 có ý nghĩa hết sức quan trọng, giải
quyết kịp thời yêu cầu của CM-MN, đáp ứng
nguyện vọng đồng bào miền nam, dấy lên cao
trào “đồng khởi” làm xoay chuyển tình thế CM.
Tháng 2.1959, Tổng Quân uỷ đề ra một số biện
pháp về xây dựng căn cứ địa và xây dựng
LLVT miền Nam.
Tổng quân uỷ nhận định: đối tượng tác chiến của
quân đội ta là quân đội Mỹ và tay sai có trang bị
hiện đại. Phương thức tác chiến có sự phát
triển so với cuộc kháng chiến chống Pháp.Cuộc
CT mới vẫn là chiến tranh nhân dân trong điều
kiện hiện đại
Từ cao trào đồng khởi, Đảng bộ miền Nam được
khôi phục, lực lượng đấu tranh chính trị phát triển
mạnh mẽ. LLVT ba thứ quân và hệ thống chỉ huy
các cấp từng bước hình thành. Các căn cứ CM
được khôi phục, mở rộng. Mặt trận Dân tộc giải
phóng miền Nam được thành lập. Đường vận tải
chiến lược Bắc-Nam trên bộ và trên biển nối liền
hậu phương với tiền tuyến.
Cách mạng MN từ thế giữ gìn LL chuyển sang thế
tiến công, từ đấu tranh chính trị chuyển sang kết
hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang.
Hình thức thống trị bằng chủ nghĩa thực dân mới bị
phá sản. Đế quốc Mỹ buộc phải thay đổi sang
chiến lược “CT đặc biệt”. CM nước ta chuyển sang
giai đoạn mới.
2.Giai đoạn 2 (đầu 1961-giữa 1965)
Đế quốc Mỹ tiến hành “CT đặc biệt”, cuộc CT bằng
quân đội nguỵ tay sai do Mỹ chỉ huy, trang bị nhằm
tiêu diệt phong trào CM. Từ khởi nghĩa từng phần,
CM miền Nam chuyển sang CT –CM, kết hợp đấu
tranh quân sự với đấu tranh chính trị, đánh địch
bằng ba mũi giáp công trên cả ba vùng chiến lược,
phát huy sức mạnh to lớn của CT nhân dân, của
cả nước đánh bại chiến lược “CT đặc biệt” của đế
quốc Mỹ.
Chiến lược “CT đặc biệt” là một trong ba loại hình
CT trong chiến lược “phản ứng linh hoạt”. Đặc
điểm là binh lính nguỵ+chỉ huy và trang bị Mỹ, dồn
dân vào ấp chiến lược, tiêu diệt LLVT giải phóng.
Kế hoạch Xta-lây – Tay-lo là bịnh định miền Nam
trong 18 tháng (từ giữa 1961-cuối 1962), tiếp đó là
kế hoạch Giôn-xơn – Mác-na-ma-ra trong hai năm
1963-1964. Mỹ đã tăng cường nguỵ quân, nguỵ
quyền, tăng viện trợ, dùng nhiều phương tiện, kỹ
thuật mới, với những thủ đoạn “trực thăng vận”
“thiết xa vận” nhằm tiêu diệt LLVT, cán bộ, đảng
viên, đánh sâu vào các căn cứ, gây cho ta nhiều
tổn thất.
Đảng chỉ đạo chuyển từ khởi nghĩa từng phần thành
CT-CM toàn miền Nam. Trong quá trình CT, kết
hợp đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị song
song, đẩy mạnh đánh địch bằng ba mũi giáp công:
chính trị, quân sự và địch vận trên cả ba vùng
chiến lược, đánh bại chính sách bình định, giành
dân của địch.
Ở miền nam phong trào đấu tranh chống địch càn
quét, gom dân lập “ấp chiến lược” diễn ra quyết
liệt. Phong trào đấu tranh vũ trang có bước phát
triển mới, tiêu biểu như chiến thắng Ấp Bắc
(2.1.1963). Năm 1964-1965 ta đẩy mạnh tác chiến
tập trung của bộ đội chủ lực trên các địa bàn chiến
lược; hướng tiến công chính là miền Đông nam
Bộ, miền Trung Trung Bộ và tây Nguyên. Ta mở
chiến dịch Bình Giã (2.12.1964), chiến dịch Đồng
Xoài (hè 1965) và nhiều nơi khác ở miền Trung,
Tây nguyên. Quân đội Nguỵ do Mỹ tổ chức, trang
bị, huấn luyện có nguy cơ bị tiêu diệt và tan rã.
Trong thế bị động và thất bại, Mỹ buộc phải đưa
quân Mỹ vào miền Nam, đánh phá miền Bắc. Cuộc
kháng chiến chống Mỹ chuyển sang giai đoạn mới.
3. Giai đoạn 3 (giữa1965-cuối 1968)
Đế quốc Mỹ thực hiện chiến lược “chiến tranh
cục bộ”. Chiến tranh nhân dân phát triển đến
trình độ cao trên cả hai miền Nam-Bắc, làm phá
sản chiến lược CT cục bộ của địch, tạo bước
ngoặt quyết định của cuộc kháng chiến.
Từ giữa 1965 Mỹ gấp rút đưa quân Mỹ và đồng
minh vào miền Nam, thực hiện chiến lược “tìm
và diệt” của tướng W.Oét-mo-len gồm 3 giai
đoạn trong thời gian từ 25-30 tháng.
-Giai đoạn 1:Ngăn chặn chiều hướng thua của
quân Nguỵ, triển khai quân chiến đấu Mỹ cuối
năm 1965.
-Giai đoạn 2; Mở cuộc phản công chiến lược tìm
diệt chủ lực ta và kiểm soát vùng nông thôn
(sáu tháng đầu năm 1966)
-Giai đoạn 3; Hoàn thành việc tiêu diệt chủ lực ta,
tiếp tục bình định, rút quân Mỹ về nước vào
cuối năm 1967.
Đối với miền Bắc, đế quốc Mỹ mở rộng cuộc CT
phá hoại ngày càng ác liệt bằng không quân và
hải quân, nhằm ngăn chặn sự chi viện cho
miền Nam
Ở Lào Mỹ tăng cường cuộc “CT đặc biệt”, chỉ huy
quân đội phái hữu, tiến công quân Pa-thét Lào,
dùng không quân ném bom vùng giải phóng,
phá hoại chính phủ liên hiệp ba phái.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ của quân và dân ta
chuyển sang giai đoạn đầy khó khăn, đối tượng
tác chiến của quân và dân ta là quân Mỹ gồm cả
ba quân chủng lục, thuỷ, không quân trang bị rất
hiện đại, hoả lực mạnh, sức cơ động cao. Nhưng
quân Mỹ vào miền Nam trong thế bị động và thất
bại của “CT đặc biệt”.
Ngày 20-11-1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi
quân dân cả nước: “Dù phải chiến đấu 5 năm,
mười năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa, chúng ta
cũng quyết tâm chiến đấu đến thắng lợi hoàn
toàn”.
Dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và
Trung ương Đảng, quân và dân hai miền Nam,
Bắc , giữ vững thế chủ động tiến công địch.
Trên chiến trường miền Nam, thu đông 1965 quân
và dân ta đã đánh thắng một số trận đầu, tiêu biểu
là các trận Núi Thành, Vạn Tường, , Plây me, Đất
Cuốc, Bầu Bàngbước đầu tìm ra chỗ yếu và
cách đánh thắng quân Mỹ.
Trên miền Bắc, quân và dân ta đã xây dựng thế trận
mới của chiến tranh nhân dân, phát triển lực lượng
phòng không ba thứ quân, bắn rơi hàng trăm máy
bay hiện đại Mỹ, vừa sản xuất vừa chiến đấu, đẩy
mạnh chi viện lực lượng và vật chất cho chiến
trường.
Quân và dân, trên hai miền Nam, Bắc đã đánh bại
cuộc phản công chiến lược lần thứ nhất của 20
vạn quân Mỹ và trên 50 vạn quân ngụy trong mùa
khô 1965-1966, đánh bại các bước leo thang chiến
tranh phá hoại trên miền Bắc
Hội nghị Bộ Chính trị tháng 10.1966 đánh giá: “Đây
là thời kỳ hết sức trọng yếu trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước. Ta đã giành được
thắng lợi có tầm quan trọng rất lớn về chiến lược,
chiến thuật và chỉ đạo chiến tranh..”
Với bản chất ngoan cố và hiếu chiến, chúng ráo riết
tăng quân,(đưa số quân lên gần 400 000, quân
ngụy lên 5000 000), mở cuộc phản công chiến
lược lần thứ hai trong mùa khô 1966-1967. Từ “tìm
diệt” là chủ yếu, chúng chuyển sang thực hiện
chiến lược hai gọng kìm “tìm diệt” và “bình định”
nhằm diệt một bộ phận quan trọng chủ lực ta, phá
cứ kháng chiến, tăng cường “bình định”, giành
dân, mở rộng vùng kiểm soát, giải tỏa thế bị uy
hiếp xung quanh Sài Gòn.
Đánh giá đúng âm mưu của địch, quân và dân ta
trên chiến trường miền Nam đã giữ vững quyền
chủ động tiến công, đỉnh cao là chiến dịch phản
công đánh bại cuộc hành quân Gian-xơn Xi-ty
của 45 000 quân viễn chinh Mỹ vào căn cứ
Dương Minh Châu, bảo vệ Trung ương Cục, Bộ
tư lệnh Miền và các đơn vị chủ lực.
Trên miền Bắc, quân dân ta đã bắn rơi nhiều máy
bay hiện đại Mỹ, vừa sản xuất vừa chiến đấu,
không ngừng tăng cường sức người sức của
cho chiến trường. Tuyến vận tải chiến lược
Trường Sơn ngày càng được củng cố và mở
rộng và cơ giới hóa.
Với thắng lợi trên chiến trường, đầu năm 1967, hội
nghị trung ương lần thứ 13 quyết định mở mặt trận
tiến công ngoại giao, tranh thủ sự ủng hộ, đồng
tình, ủng hộ sâu rộng và mạnh mẽ hơn nữa của
nhân dân thế giới, khoét sâu mâu thuẫn nội bộ kẻ
thù.
Thất bại bước đầu của chiến lược :chiến tranh cục
bộ” trong hai năm 1966-1967 làm cho giới cầm
quyền Mỹ phân hóa, dao động “tiến thoái lưỡng
nan’ về chiến lược. Phong trào chống chiến tranh
xâm lược Việt Nam phát triển ngày càng sâu rộng
trong lòng nước Mỹ, nhưng giới quân sự vẫn đòi
tăng quân, ráo riết chuẩn bị cuộc phản công chiến
lược lần ba. Ta đã thắng lớn nhưng chưa làm
chuyển biến cơ bản cục diện
Trước tình hình trên. Hội nghị lần thứ 14 của trung
ương chỉ rõ: lúc này cần phải và có thể tạo một
chuyển biến lớn giữa lúc đế quốc Mỹ ở thế ngập
ngừng về chiến lược. Muốn thực hienj mục tiêu đó
phải tạo ra bước nhảy vọt bằng cách chon hướng
chiến lược hiểm và dùng cách đánh mới, giáng
một đòn bất ngờ và thật mạnh vào ý chí xâm lược
của Mỹ. Nét đặc sắc của cuộc tiến công chiến
lược là:
-Hướng chủ yếu là đô thị, trọng điểm là Sài Gòn, Đà
Nẵng, Huế, nơi địch đang sơ hở cũng là nơi nhạy
cảm, gây chấn động lớn.
-Mục tiêu TC chủ yếu nhằm vào nhằm vào cơ quan
đầu não, các trung tâm chỉ huy, các hậu cứ vừa
diệt sinh lực vừa phá hủy phương tiện, đây là chỗ
hiểm, dễ chấn động nhất.
-Không gian tiến công là toàn miền, tiến hành
đồng loạt trên quy mô rộng lớn.
-Thời gian tiến công vào đêm giao thừa tết Mậu
Thân nhằm tạo bất ngờ lớn.
- Phương châm đánh địch vẫn là kết hợp tiến
công quân địch với nổi dậy của quần chúng
nhưng trên diện rộng ở cả ba vùng chiến lược,
kết hợp tổng công kích với tổng khởi nghĩa.
Mở đầu cuộc tiến công chiến lược, đêm
20.1.1968, ta nổ súng tiến công địch ở mặt trận
đường 9-Khe Sanh, nhằm thu hút quân cơ
động Mỹ , tiêu diệt một bộ phận, vây hãm và
giam chân , tiêu hao chúng, tạo thế cho các
chiến trường khác, nhất là Huế, Đà Nẵng.
Đêm giao thừa va đêm 1 Tết Mậu Thân (30 và
31.1.1968), quân và dân ta trên chiến trường
miền Nam đồng loạt tiến công và nổi dậy ở 4
thành phố và 37 thị xã , hàng trăm thị trấn,
đánh vào hầu hết các cơ quan đầu não ở trung
ương và địa phương của Mỹ và ngụy ( 4 bộ tư
lệnh quân khu, quân đoàn, 8 bộ tư lệnh sư
đoàn, 2 bộ tư lệnh biệt khu ngụy, 2 bộ tư lệnh
dã chiến, 30 sân bay, nhiều tổng kho)Một số
trận đánh gây chấn động lớn như đại sứ Mỹ,
đài phát thanh, dinh độc lập, bộ tổng tham mưu
ngụy Sài Gòn; tiến công và làm chủ thành phố
Huế 25 ngày đêm.
Cuộc TC và nổi dậy Tết Mậu Thân là “đòn sét
đánh” với đế quốc Mỹ, làm chấn động nước Mỹ
và dư luận thế giới. Lần đầu tiên trong lịch sử
nước Mỹ, quân đội Mỹ có nguy cơ bị đánh bại
trong một cuộc chiến tranh. Tướng Oét-mo-len,
tư lệnh quân Mỹ ở miền Nam bị cách chức. Bộ
trưởng quốc Mỹ Mắc Na-ma-ra từ chức. Tổng
thống Mỹ L.giôn-xơn tuyên bố đơn phương
ngừng đánh phá miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra,
nhận đàm phán với ta tại Pa-ri để tìm cách kết
thúc chiến tranh và không ra tranh cử tổng
thống nhiệm kỳ thứ hai.
Cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân
1968 đã đánh bại cố gắng quân sự cao nhất
của đế quốc Mỹ trong chiến tranh xâm lược
Việt Nam, giáng đòn quyết định vào chiến lược
“chiến tranh cục bộ”, làm lung lay một bước
nghiêm trọng ý chí xâm lược của giới cầm
quyền nước Mỹ, buộc chúng chuyển sang
chiến lược “phi Mỹ hóa” rồi “Việt Nam hóa
chiến tranh”, bắt đầu rút quân Mỹ về nước,
chấm dứt chiến tranh phá hoại miền Bắc, cử
người đàm phán với ta tại hội nghị Pa-ri.
Trên miền Bắc ta đánh bại cuộc chiến tranh phá
hoại của Mỹ (từ 7.2.1965-1.1.1968 bắn rơi
3243 máy bay, bắn chìm và cháy 134 lần chiếc
tàu chiến Mỹ).
4. Giai đoạn thứ tư (1969-1.1973)
Đế quốc Mỹ thực hiện chiến lược “Việt Nam hóa
chiến tranh”, rút quân Mỹ về nước nhưng vẫn
tiếp tục tăng cường và mở rộng chiến tranh.
Quân và dân ta phối hợp với hai nước Lào và
Căm-pu-chia đánh bại một bước quan trọng
chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” và “học
thuyết Ních-xơn” ở Đông Dương: trên miền Bắc
đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại lần hai,
đỉnh cao là cuộc tập kích đường không chiến
lược, buộc Mỹ phải ký hiệp định Pa-ri, rút hết
quân Mỹ và quân các nước chư hầu ra khỏi
miền Nam nước ta.
5. Giai đoạn thứ năm (1973-4.1975)
Mỹ -ngụy tiếp tục thực hiện chiến lược “Việt Nam
hóa chiến tranh”, đẩy mạnh cuộc chiến tranh
lấn chiếm và bình định. Ta ra sức tạo thế, tạo
lực, tạo thời cơ, kiên quyết tiến hành cuộc tổng
tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975, kết thúc
thăng lợi cuộc kháng chiến chống mỹ cứu
nước.
Sau khi rút hết quân Mỹ và quân chư hầu ra khỏi
miền Nam, Mỹ tiếp tục dùng ngụy quân, ngụy
quyền làm công cụ thực hiện chủ nghĩa thực
dân mới, mục tiêu trước mắt là lấn chiếm vùng
giải phóng và bình định.
Tháng 7.1973 Hội nghị trung ương lần thứ 21 chỉ
rõ, địch đang dùng hành động chống ta một
cách có hệ thống. Ta phải kiên quyết phản công
và tiến công địch, giữ vững và phát huy thế chủ
động về mọi mặt của ta, đồng thời đẩy mạnh
đấu tranh chính trị, tăng cường đấu tranh trên
mặt trận ngoại giao.
Cuối năm 1974 đầu năm 1975, cục diện chiến
trường miền Nam chuyển biến nhanh chóng.
Kiên quyết phản công và tiến công, quân dân
miền Nam đã chặn đứng hành động bình định,
lấn chiếm của địch giành lại quyền chủ động.
Chiến thăng Thượng Đức (mùa hè 1974) và
chiến thắng đường 14 Phước Long đã chứng
tỏ sức mạnh của bộ đội chủ lực ta.
Tháng 10 và tháng 12.1974 Bộ Chính trị, Quân
ủy Trung ương và lãnh đạo các chiến trường
thông qua kế hoạch chiến lược giải phóng miền
Nam trong thời gian hai năm (1975-1976), nếu
thời cơ đến thì lập tức giải phóng miền Nam
trong năm 1975.
Đêm 3 rạng 4.3.1975 nổ súng mở màn tiến công
chiến lược mùa xuân 1975. Đêm 10.3 tiến công
thị xã buôn Ma Thuột, giải phóng thị xã, đây là
trận then chốt quyết định chiến dịch Tây
Nguyên
Từ 12-18.3 ta đập tan cuộc phản kích tái chiếm
Buôn Ma Thuột, đây là trận then chốt thứ 2 của
chiến dịch Tây Nguyên.
Ngày 18.3.1975 Bộ Chính trị hạ quyết tâm hoàn
thành kế hoạch giải phóng miền Nam ngay
trong năm 1975, nhiệm vụ trước mắt là nhanh
chóng tiêu diệt quân đoàn 1 địch, không cho
chúng rút về SG, giải phóng Huế, Đà Nẵng và
các tỉnh Trung bộ.
Ngày 25.3 giải phóng tỉnh Thừa thiên và thành
phố Huế, , giải phóng Tam Kỳ tỉnh Quảng Nam
24.3; Quảng Ngãi 25.3; ngày 29.3 giải phóng
Đà nẵng.
Ngày 31.3.1975 Bộ Chính trị quyết định mở cuộc
tổng tiến công và nổi dậy giải phóng SG tốt
nhất là trong tháng 4. tư tưởng chỉ đạo là “thần
tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng”.
• ỳiuop
• cygio
• fuhiôp
• fuhiô
• cyii
• dyio
• ugipp
• Fudỳgoio