Bài giảng Chương VIII: Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân pháp xâm lược

Quá trình phát triển của cuộc kháng chiến I.Tính chất và đặc điểm cuộc kháng chiến 1.Tính chất. -Là cuộc CT chính nghĩa, CT cách mạng chống CT xâm lược của thực dân Pháp; đồng thời vì mục tiêu dân chủ, tự do, và hoà bình thế giới. -Cuộc kháng chiến của ta vừa có tính chất giải phóng dân tộc, vừa có tính chất bảo vệ Tổ quốc

pdf49 trang | Chia sẻ: nyanko | Lượt xem: 1652 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài giảng Chương VIII: Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân pháp xâm lược, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương VIII LỊCH SỬ CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC Giảng viên chính Đại tá, TS.Phạm Quốc Văn LỊCH SỬ CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC ***** NỘI DUNG A. Quá trình phát triển của cuộc kháng chiến B. Mấy vấn đề nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp Trọng tâm: Mục B Thời gian Phương pháp LỊCH SỬ CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC ***** A. Quá trình phát triển của cuộc kháng chiến I.Tính chất và đặc điểm cuộc kháng chiến 1.Tính chất. -Là cuộc CT chính nghĩa, CT cách mạng chống CT xâm lược của thực dân Pháp; đồng thời vì mục tiêu dân chủ, tự do, và hoà bình thế giới. -Cuộc kháng chiến của ta vừa có tính chất giải phóng dân tộc, vừa có tính chất bảo vệ Tổ quốc -Là cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh, cả nước đánh giặc dưới sự lãnh đạo của Đảng Mác-xít – Lênin-nít -Là cuộc chiến tranh liên minh Việt Nam - Lào- Cam-pu-chia, chống kẻ thù chung là thực dân Pháp và can thiệp Mỹ. 2. Đặc điểm -Cuộc kháng chiến chống Pháp là sự kế tục sự nghiệp cách mạng tháng tám năm1945, đặc điểm này chi phối việc hoạch định đường lối chiến lược CM phù hợp từ quy luật khởi nghĩa sang quy luật CT-CM, nhằm thực hiện mục đích độc lập dân tộc, tự do dân chủ cho nhân dân. -Cuộc CT giữa ta và địch, nhất là trong những năm đầu không cân sức, điều này chi phối chủ trương và tổ chức chỉ đạo CT, xây dựng phát triển lực lượng, từng bước làm chuyển hoá tương quan lực lượng ngày càng có lợi cho ta. -Quá nửa thời gian của cuộc kháng chiến, đất nước ta bị chủ nghĩa đế quốc cô lập với thế giới, Đảng và nhân dân ta phải độc lập tác chiến, tự lực cánh sinh một cách toàn diện cả chính trị, quân sự vv Cuộc kháng chiến của nhân dân ta là đỉnh cao của phong trào giải phóng dân tộc nên sau khi khai thông biên giới đã nhận được sự giúp đỡ, ủng hộ của Liên Xô, Trung Quốc và các nước XHCN -Kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ, vừa kháng chiến vừa kiến quốc, vừa chiến đấu vừa xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, thực hiện càng đánh càng mạnh. II. Giai đoạn 1.Kết hợp kháng chiến ở miền Nam với xây dựng và bảo vệ chế độ mới trên cả nước, tiến lên phát động toàn quốc kháng chiến, đánh thắng chiến lược đánh nhanh, thắng nhanh của thực dân Pháp (9.1945-12- 1947). 1. Kháng chiến ở miền Nam, đấu tranh giữ vững chính quyền cách mạng, tích cực chuẩn bị kháng chiến toàn quốc (23.9.1945 – 19.12.1946 Đêm 22 rạng 23.9.1945, Pháp núp bóng quân Anh đánh chiếm cơ quan chính quyền CM.SG, nhân dân ta nhất tề chống giặc. Ngày 23.9, Xứ Uỷ và UBND Nam bộ họp ra chủ trương toàn dân kháng chiến. Cùng ngày Thường vụ Trung ương Đảng họp khẩn cấp, kêu gọi nhân dân cả nước chi viện Nam Bộ kháng chiến. Cuộc chiến đấu của quân, dân SG và các tỉnh phụ cận kéo dài hơn một tháng, sau đó các LLVT.CM buộc phải rút ra ngoài, chuẩn bị kháng chiến lâu dài. Ngày 25.11, Trung ương Đảng ra chỉ thị kháng chiến kiến quốc. Đây là cương lĩnh hành động của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta trước tình hình mới. Đầu tháng 11 được Anh giúp sức, Pháp chiếm được Gò Vấp, Gia định, đánh chiếm Tây Ninh, Hớn Quản, tiến đánh Mỹ Tho, Gò Công, Vĩnh Long, Cần Thơ âm mưu tiến đánh Cam-pu-chia Ngày 5.3.1946 quân Anh rút khỏi miền Nam, các LLVT ta rút về lập căn cứ kháng chiến. Quân và dân Nam bộ làm thất bại kế hoạch “lấy lại Nam kỳ trong 18 ngày” của Lơ-cléc. Cuối 9.1945 quân dân Nam Trung bộ chuẩn bị đánh giặc, Uỷ ban quân chính Nam Trung bộ được thành lập để chỉ đạo kháng chiến Pháp được quân Anh giúp sức tiến đánh Buôn Ma Thuột và các tỉnh Cực Nam Trung bộ. Sau 4 tháng bị chặn đánh, quân Pháp tiêu hao nhiều lực lượng đã chiếm được một số thị xã, ta vẫn làm chủ vùng nông thôn Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình Thuận Trước hành động xam lược của thực dân Pháp, quân, dân Miền Nam cuối năm 1945 đến đầu 1946 đã làm thất bại âm mưu đánh nhanh, thắng nhanh của Pháp, bảo vệ chính quyền CM tạo điều kiện cho cả nước có thêm thời gian chuẩn bị bước vào cuộc chiến dài ngày. Ở Miền Bắc, Đảng chủ trương củng cố chính quyền, các đoàn thể quần chúng, xây dựng LLVT. Tháng 12.1945 Chính Phủ thành lập Uỷ Ban kháng chiến nam bộ. 1.1946 thành lập quân uỷ hội, giúp Trung ương lãnh đạo quân sự. Chủ tịc Hồ Chí Minh đề ra các nhiệm vụ cấp bách như tăng gia sản xuất giải quyết nạn đói, học chữ quốc ngữ, công tác y tế, ban hành chế độ ngày làm việc 8h, bỏ hoặc giảm thuế, tịch thu ruộng đất của đế quốc và Việt gian chia cho dân cày. 4.9.1945 Chính phủ lập quỹ độc lập, 11.9 phát động tuần lễ vàng đã quyên góp được 20 triệu, 370kg vàng, 31.1.1946 Chính phủ ra sắc lệnh phát hành tiền Việt Nam. Việc xây dựng bộ máy Nhà nước dân chủ nhân dân và công tác cán bộ được coi trọng. 20.9 ra sắc lệnh thành lập uỷ ban dự thảo hiến pháp. Ngày 6.1.1946 cả nước bầu cử quốc hội Tháng 9.1945 20 vạn quân Tưởng giải giáp quân Nhật, kéo theo bọn việt gian như Việt Nam cách mạng đồng minh hội, VN quốc dân đảng Với quân Tưởng ta thực hiện ngoại giao thân thiện, nhưng phải vạch mặt bọn phản động. Ta nhân nhượng với Tưởng trên nguyên tắc giữ vững chính quyền, bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng. Sau ngày 2.9.1945 giải phóng quân VN đổi thành Vệ quốc đoàn. Ngày 11.11.1945 Đảng Cộng sản Đông Dương tuyên bố “tự giải tán”, thực chất là rút vào hoạt động bí mật. Ngày1.1.1946, Chính phủ Liên Hiệp lâm thời ra mắt quốc dân tại Hà Nội Ngày 28.2.1946, Trung Quốc và Pháp ký hiệp ước Trùng Khánh, theo đó Pháp thay quân Tưởng tiếp quản Miền Bắc. Để chuẩn bị cho cuộc chiến đấu mới, Đảng ta chủ trương hoà hoãn với Pháp,. Ngày 5.3 hạm đội Pháp vào vùng biển Hải Phòng. Ngày 6.3, hiệp định sơ bộ được ký kết, nội dung buộc Pháp phải công nhận VN là nước tự do, đuổi nhanh quân Tưởng về nước, tranh thủ thời gian khôi phục và phát triển cơ sở kháng chiến ở Nam bộ, xây dựng lực lượng mọi mặt ở Miền Bắc chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài. Ngày 9.3 Thường vụ TƯ ra chỉ thị “hoà để tiến” Để trì hoãn chiến tranh, ta chủ trương đàm phán với Pháp, nhưng hội nghị Đà Lạt và hội nghị Phông-ten-nơ-blô không có kết quả. Để có thêm thời gian chuẩn bị kháng chiến, ngày 14.9.1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký với Pháp tạm ước Tranh thủ thời gian cả hai miền tích cực chuẩn bị kháng chiến, các địa phương xây dựng kế hoạch tác chiến, các đội công tác lên Việt Bắc chuẩn bị khu căn cứ. Ngày 20.11 Pháp nổ súng ở Hải Phòng và Lạng Sơn, 12.1946 Pháp khiêu khích ở Hà Nội. Với âm mưu xâm lược, Pháp đã xoá bỏ mọi hiệp định. Ta đã chủ động nổ súng đánh địch 2. Toàn quốc kháng chiến, đánh bại chiến lược đánh nhanh, thắng nhanh của thực dân Pháp (19.12.1946-12.1947) Ngày 18 và 19. Thường vụ TƯ Đảng họp hội nghị mở rộng ở làng Vạn phúc, quyết định phát động cả nước kháng chiến và đề ra những vấn đề cơ bản về đường lối kháng chiến. Ngày 20.12 Hồ Chủ Tịch ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Đường lối chung về kháng chiến là: toàn dân toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh. Đảng sớm đề ra đường lối đúng đắn và lãnh đạo nhân dân thực hiện đường lối. Bộ tổng chỉ huy chủ trương mở đợt TC vào các vị trí quân Pháp ở bắc vĩ tuyến 16 20h ngày 19.12 nhiều tỉnh, thành đồng loạt nổ súng. Cả Hà Nội đứng lên kháng chiến. Từ 19.12.1946-18.2.1947(60ngày), quân dân Hà Nội đã giam chân địch, bảo vệ cơ quan đầu não của Đảng, Chính phủ di chuyển về căn cứ an toàn và bảo vệ đồng bào rời Thủ đô, sơ tán. Quân và dân các thành phố, thị xã và các địa phương kịp thời vây đánh địch, đánh bại kế hoạch Pháp định đánh úp cơ quan đầu não của ta, tạo điều kiện thời gian cho cả nước chuyển vào kháng chiến lâu dài. Đầu tháng 3.1947 các cơ quan lãnh đạo kháng chiến lần lượt di chuyển lên Việt Bắc Ngày 7.10.1947 Pháp mở cuộc tiến công Việt Bắc nhằm tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến, tiêu diệt chủ lực ta, địch khoá chặt biên giới, ngăn chặn ta liên lạc với quốc tế. Mở đầu chúng nhảy dù xuống Bắc Cạn, Chợ Mới; đồng thời tiến quân theo hai hướng, đường số 4 và sông Lô, sông Gâm. Lực lượng địch khoảng 12 nghìn tên gồm: 5eBB, 2d Dù, 2dPB, 2dCB, 3cCG(80 xe), 2 phi đội máy bay (40 chiếc), 1 thuỷ đội (40 ca nô, tàu đổ bộ), lính thuỷ đánh bộ 15.10 Thường vụ TƯ ra chỉ thị “phá tan cuộc TC mùa đông của giặc Pháp. Quân ta sau 75 ngày đêm CĐ anh dũng, diệt 6 ngàn tên địch, 16 máy bay, nhiều ca nô, xe quân sự. Ta đã phá tan chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh của địch. Cuộc kháng chiến phát triển lên một bước mới. III. Giai đoạn 2: Đẩy mạnh kháng chiến toàn dân, toàn diện, phát triển CT du kích, từng bước lên vận động chiến, đánh bại một bước âm mưu kéo dài mở rộng CT và chính sách “dùng người Việt đánh người Việt, lấy CT nuôi CT của thực dân Pháp (1948-thu đông 1950) 1. Phát triển chiến tranh du kích. Bước vào 1948, Pháp chuyển sang đánh lâu dài “lấy CT nuôi CT, dùng người Việt đánh người Việt, trọng tâm giữ vững, củng cố vùng chiếm đóng, thực hành CT tổng lực, đánh phá kinh tế, chính trị, lực lượng dự trữ của ta. Chúng lôi kéo Bảo Đại, thành lập “xứ tự trị Nùng”, Thái, Mường, phát triển nguỵ quân. Đầu năm 1948 các tổ chức kháng chiến ở thôn, xã gặp khó khăn. Ngày 15.1.1948 TƯ họp hội nghị mở rộng, đề ra nhiệm vụ và phương châm chiến lược mới “du kích chiến là chính, vận động chiến là phụ”. Ta phát động thi đua kháng chiến, kiến quốc, tập trung vào sản xuất và luyện quân lập công, ta thực hiện giảm tô, động viên văn hoá phục vụ kháng chiến, xoá mù chữ. Để xây dựng lại phong trào,Đảng chủ trương đưa cán bộ, bộ đội vào sau lưng địch, bám dân xây dựng cơ sở đấu tranh với địch. Từ Liên khu 5 trở ra 1/3 bộ đội được phân tán hoạt động vũ trang tuyên truyền sau lưng địch. Các đại đội vừa hoạt động du kích vừa tiến lên đánh đồn, chống càn. Cuối 1948 phong trào phát triển rầm rộ, nhiều nơi lập chính quyền CM Cùng với việc đánh du kích là chính, bộ đội ta từng bước đẩy mạnh vận động chiến. Từ hình thức kỳ tập, mật tập ta bắt đầu đánh đồn bằng cường tập (công kiên) như: Tô Vũ (3.1948), Yên Bình Xã (6.1948), phủ thông (7.1948). Trên chiến trường Bắc Bộ ta mở một số chiến dịch tiến công quy mô nhỏ: Nghĩa Lộ (3.1948), đường số 3 (7.1948), Đông Bắc (10.1948). 5.1949, Rơ-ve, tổng tham mưu trưởng quân đội Pháp sang Đông Dương đề ra chủ trương mới, đề cao nguỵ quyền, thành lập chính phủ bù nhìn TƯ, tăng cường quân số (12.1949) tổng quân số toàn Đông Dương là 210 ngàn, mở các cuộc hành quân lớn đánh chiếm vùng tự do Để đẩy mạnh kkháng chiến ta thực hiện phương châm tác chiến “du kích chiến là căn bản, vận động chiến là phụ trợ. Nhưng cần đẩy mạnh vận động chiến khi đủ điều kiện thì nâng vận động chiến lên địa vị quan trọng”. Trọng tâm là xây dựng bộ đội chủ lực, xây dựng 3 thứ quân. Tháng 4.1949 Hồ Chủ tịch ra sắc lệnh thành lập bộ đội địa phương và phát triển dân quân. Ta chủ trương thành lập trung, sư đoàn bộ đội chủ lực. Đầu năm 1950 ta có 2 đại đoàn và 14 trung đoàn chủ lực, các tiểu đoàn có bộ đội thông tin và công binh. Việc huấn luyện kỹ, chiến thuật, sinh hoạt chính trị được đẩy mạnh. Bộ đội chủ lực có 230 ngàn, tỉnh có tiểu đoàn, huyện có đại đội. 2. Đẩy mạnh vận động chiến, chiến dịch tiến công biên giới. Song song với phát triển CT du kích, các chiến trường đẩy mạnh vận động chiến: chiến dịch Cao-Bắc-Lạng (tháng 3 đến tháng 4.1949), tiến công tuyến phòng thủ sông Thao (tháng 5 đến tháng 7.1949), chiến dịch Lê Lợi ở Hoà Bình “9.11.1949) Theo đề nghị của Trung Quốc ta đưa một bộ phận lực lượng tham gia chiến dịch “Thập Vạn Đại Sơn” giải phóng Ung, Khâm, Liêm làm tan rã 2 quân đoàn Quốc dân đảng, giải phóng hàng vạn dân. Đảng và Chính phủ ta rất quan tâm công tác ngoại giao. Chủ tịch Hồ Chí Minh đi thăm Liên Xô, hội đàm với Xta-lin. Tháng 1.1950, Trung Quốc, Liên Xô, Triều Tiên, Mông Cổ và các nước XHCN Đông Âu công nhận và đặt quan hệ ngoai giao với ta. Tháng 2.1950 Mỹ, Anh và nhiều nước phương Tây công nhận nguỵ quyền. Từ 1950 Mỹ trực tiếp can thiệp vào Đông Dương, Tháng 6.1950 ban Thường vụ T.Ư quyết định mở chiến dịch biên giới, mở đường giao thông với các nước XHCN. 7.1950 bộ chỉ huy và Đảng uỷ Mặt trận được thành lập. Lực lượng ta gồm f308, e209, e174, LLVT liên khu Việt Bắc cùng hai tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn Sáng sớm 16.9, e174 và e209 nổ súng đánh cụm cứ điểm Đông Khê, đến 18.9 ta tiêu diệt cứ điểm, diệt 300 tên thu toàn bộ quân trang, quân dụng. Đêm 30.9 binh đoàn Lơ Pa-giơ lên giải vây và đón binh đoàn Sác-tông từ Cao Bằng về. Từ ngày1 đến 5.10 binh đoàn Lơ Pa-giơ bị đánh nhiều trận, tổn thất lớn phải chạy về Cốc Xá. Binh đoàn Sác-tông hoảng sợ bỏ xe pháo chạy về Cốc Xá. Ta chủ trương tiêu diệt không cho chúng hợp binh. Đến ngày 7.10 cả hai binh đoàn bị diệt, ta diệt và bắt 2 600 tên trong đó có 2 bộ tham mưu, số còn lại rút chạy ta truy kích diệt địch. Hệ thống phòng thủ đường số 4 bị đập tan Các chiến trường trên toàn quốc tích cực tiến công phối hợp chiến dịch Biên Giới. Qua 29 ngày đêm chiến đấu ta diệt và bắt sống 8300 địch, thu hơn 3 000 tấn vũ khí, giải phóng khu vực Biên giới từ Cao Bằng đến Đình Lập, với 35 vạn dân, đánh dấu bước thất bại chiến lược của địch. Với ta mở ra quyền chủ động về chiến lược trên chiến trường chính. Chiến khu Việt Bắc được củng cố và mở rộng, khai thông đường liên lạc với quốc tế. Thắng lợi Biên Giới đánh dấu bước nhảy vọt của cuộc kháng chiến, tạo cục diện mới trên chiến trường, làm cơ sở để quân và dân ta tiếp tục tiến lên giành thắng lợi lớn hơn nữa IV. Giai đoạn 3: Giữ vững và phát huy quyền chủ động chiến lược, phát triển tiến công và phản công, đánh thắng nỗ lực chiến tranh cao nhất của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, giải phóng hoàn toàn miền Bắc (1951-7.1954) 1.Giữ vững quyền chủ động, phát huy thế tiến công chiến lược (1951-1953) Trước tình hình mới của thế giới và trong nước. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II diễn ra từ ngày 11- 19.2.1951. Đại hội xác định nhiệm vụ “đẩy mạnh kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn và xây dựng Đảng Lao động Việt Nam”, Đại hội đề ra chính sách, biện pháp xây dựng LLVT và các đoàn thể quần chúng, thực hiện chính sách ruộng đất, chính sách kinh tế, văn hoá, văn nghệ, Thành lập mặt trận thống nhất Việt-Lào-Miên. Quyết định Đảng hoạt động công khai lấy tên là Đảng Lao động VN. 3.3.1951 thống nhất Việt Minh và Liên Việt thành Mặt trận Liên Việt Ngày 23.12.1950 Mỹ ký hiệp định viện trợ quân sự cho Pháp và bù nhìn với ý đồ chuẩn bị mọi mặt hất cẳng Pháp. Tướng Đờ Lát đờ tát-xi-nhi được cử sang Đông Dương làm tổng chỉ huy kiêm cao uỷ, đã vạch ra kế hoạch phản công quyết liệt, hòng đè bẹp lực lượng ta kết thúc chiến tranh. Tổng quân số của Pháp là 338 ngàn tên, chúng xây dựng 1300 lô cốt ở Bắc bộ, đồng thời phát triển nguỵ quân, nguỵ quyền Năm 1951 ta có thêm 3 đại đoàn BB và đại đoàn công-pháo. Ta mở 3 chiến dịch: CD Trần Hưng Đạo (Vĩnh Phúc-Bắc Ninh 25.12.1950-1.1951), CD Hoàng Hoa Thám (đường18, từ 20.3- 7.4.1951), CD Quang Trung (Hà-nam-ninh 28.5-20-6.1951) Trong các chiến dịch trên, ta sử dụng khoảng 2 đại đoàn, đánh theo lối “đánh điểm, diệt viện”, kết hợp CT du kích địa phương. Ta tiêu diệt được nhiều địch, gây ảnh hưởng chính trị lớn trong vùng tạm chiếm.Tuy vậy cuối chiến dịch sức chiến đấu giảm sút. Nhìn chung các chiến dịch chưa làm thay đổi cục diện chiến trường Bắc bộ. Với lực lượng 20 dBB được hoả lực chi viện. Pháp mở cuộc hành quân Lô-tuýt đánh ra Hoà Bình. Tổng quân uỷ quyết định mở CD Hoà Bình, ta có 3 đại đoàn (308,312,304), vây tiêu diệt một bộ phận địch ở Hoà Bình. Ta dùng đại đoàn 320, 316 phối hợp địa phương đánh phá bình định của địch ở Bắc bộ từ 14.11.1951-3.2.1952, cả 2 mặt trận tiêu diệt 22 000 tên. Làm phá sản kế hoach chiến tranh của địch. Đi đôi đẩy mạnh tác chiến, ta luôn chăm lo phát triển lực lượng, tập trung vào tăng gia, sản xuất, thực hành tiết kiệm, ta cũng đã sản xuất được 3551 tấn vũ khí và thuốc men (1953) Sắc lệnh thuế được ban hành, ngân hàng quốc gia VN được thành lập. Từ 1951 trở đi ta đã cân bằng được thu, chi. Từ 1949 đến 1951 ta đã cấp ruộng đất cho dân cày nghèo, văn hoá, giáo dục, y tế cũng thu được nhiều thành tựu. Việc xây dựng LLVT được chú ý, nhất là chất lượng, đã xây dựng được 3 thứ quân, bộ đội chủ lực làm trọng tâm,đến năm 1952 ta có 6 đại đoàn, 2 eBB, 1 đại đoàn công-pháo. Từ 14.10-10.12.1952 ta mở chiến dịch Tây Bắc, bộ đội ta vượt sông Đà đánh vào Mộc Châu, Sơn La, tiêu diệt nhiều cứ điểm, giải phóng Tuần Giáo, , Điện Biên Phủ. Tháng 4.1953 ta phối hợp với quân giải phóng Lào mở chiến dịch Thượng Lào, đã giải phóng toàn bộ tỉnh Sầm nưa, một phần Xiêng Khoảng và Phong- xa-li với trên 300 000 dân. Kế hoạch Đờ Lát đờ Tát-xi-nhi hoàn toàn thất bại. 2. Cuộc tiến công chiến lược Đông xuân 1953-1954 và chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ. Mùa hè 1953, cục diện chiến trường có những biến đổi quan trọng. LLVT ta lớn mạnh và giữ thế chủ động trên chiến trường. Cuộc kháng chiến của ta ngày càng được các nước XHCN ủng hộ Lực lượng quân Pháp có khoảng 450 000 tên (120 nghìn lính Âu-Phi), thiếu lực lượng cơ động, nước pháp có nhiều khó khăn về KT, nội bộ chia rẽ. Ngày 7.5.1950, tướng Hăng-ri Na-va được cử sang Đông Dương làm tổng chỉ huy, có nhiệm vụ phát triển lực lượng lên 7 fBB=27 binh đoàn gấp 3 lần quân số hiện có, với kế hoạch Na-va chia làm hai bước: -Giữ vững thế PN ở bắc vĩ tuyến 18, bình định miền Nam, miền Trung Đông Dương. -Từ mùa thu 1954 tiến ra Bắc gây sức ép với ta, hy vọng “chuyển bại thành thắng” trong 18 tháng. Mỹ tăng viện trợ cho Pháp lên 1 264 triệu USD chiếm 73% chi phí CT ở Đông Dương Về phía ta, tháng 9.1953 Bộ Chính trị họp, xác định kế hoạch Đông Xuân 1953-1954: diệt địch ở Lai Châu, giải phóng Tây Bắc, phối hợp quân dân Lào giải phóng Phong-xa-lỳ, đánh địch ở Trung, Hạ Lào và Đông Bắc Cam-pu-chia, mở rộng vùng giải phóng sau lưng SG, địa bàn chiến lược Tây Nguyên. Phá bình định của địch. Ngày 21,22,23.11.1953 địch nhảy dù 6 d xuống ĐBP, đầu tháng 12, binh đoàn 2 và 3 d độc lập đứng chân ở biên giới Việt-Lào. Ngày 6.12.1953 Bộ Chính Trị quyết định mở CD – ĐBP Ngày 21.12.1953, e101/f325 bắt đầu đánh địch ở trung Lào giaỉ phóng Bô-lô-ven, phối hợp quân Ít-xa-rắc (CPC) giải phóng phần lớn Công Pông Chàm; Ngày 26.1.1954 ta giải phóng Bắc Tây Nguyên, buộc địch phải điều lực lượng thành lập tập đoàn cứ điểm An Khê và Plây Cu. Đại đoàn 308 tiến sang Thượng Lào, giải phóng Phong-xa-lỳ, địch phải tăng cho Luông Pha- băng 5 d, Mường Sài 3d Quân và dân ta đánh mạnh địch cả phía trước và sau lưng địch, cả trung du, đồng bằng Bắc bộ, Trung và Nam bộ. Công tác chuẩn bị cho CD – ĐBP được chuẩn bị ráo riết từ 12.1953. Đến tháng 3.1954, lưc lượng địch ở ĐBP có 16d và 7cBB, 2cdù. 1cXT, 1 phi đội không quân (14chiếc) 40 khẩu pháo gồm 2dP/105ly, 1cP 155ly và 2cối /120ly,, 1dCB, 1cxe vận tải. Tổng cộng 11 800 tên, bố trí trong 49 cứ điểm, chia thành 3 phân khu. Lực lượng ta gồm: các sư đoàn 308, 312, 316, 304(-e66) = 66eBB, fCông-Pháo 351 gồm 24k/105, 20k/75, 16kcối/120ly, 1eCB, 1dCX12k 37, 2d12,7ly Phương châm CD lúc đầu là “đánh nhanh, thắng nhanh), để chắc thắng ta thay đổi phương châm “đánh chắc, tiến chắc” Chiến dịc diễn ra qua 3 giai đoạn: Đợt một, (từ 13.3-17.3): ta diệt phân khu bắc và một trung tâm đề kháng của phân khu trung tâm. Tiêu diệt 2dBB, làm tan rã 1dBB khác. Đơt 2, (30.3-9.4) đã chiếm một số cứ điểm phía tây, uy hiếp sân bay, đánh bại các đợt phản kích của địch nhưng chưa đạt mục đích đề ra. Đơt ba, (từ 1.5-7.5.1954) ta đã tiêu diệt toàn bộ lực lượng địch còn lại.17h30.7.5.1954, tướng Đờ Cát- xtơ-ri và toàn bộ tham mưu tập đoàn cứ điểm bị bắt sống. Chiến thắng ĐBP đã đánh bại kế hoạch Na-va, đánh bại âm mưu xâm lược của Pháp, tạo thuận lợi cho đấu tranh ngoại giao. Ngày 8.5 hội nghị Giơ-ne-vơ khai mạc, 20.7 hiệp định được ký kết. Chấm dứt CT-XL Đông Dương Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta từ 23.9.1945 đến 20.7.1954 Trong 9 năm Pháp được Mỹ giúp đỡ, tiêu phí gần 3 nghìn tỷ phơ-răng (tương đương 7 tỷ USD) 20 lần thay đổi Chính Phủ, 7 lần đổi Cao Uỷ, 8 lần đổi