Ion cancil rất khó hấp thụvì nó có hoá trịhai và các hợp chất của nó rất khó hoà tan. Ion cancil được hấp thu tích cực qua niêm mạc ruột đặc biệt là tá tràng. Bình thường lượng ion cancil được hấp thu chỉ bằng 1/50 lượng ion Natri. Khoảng 4/5 lượng ion calci ăn vào được thải theo phân, số còn lại bài xuất theo con đường nước tiểu. Cơ chế bài xuất ion cancil qua đường nước tiểu giống như ion Natri.
17 trang |
Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 6347 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài giảng Chuyển hóa và điều hòa chuyển hóa calxi và photpho, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHUYỂN HOÁ VÀ ĐIỀU HOÀ CHUYỂN HOÁ
CALCI VÀ PHOTPHO
I. Hấp thu và bài xuất calci và phosphat
Nguồn calci chủ yếu từ sữa mẹ và các sản phẩm từ sữa, từ các thành phần
thức ăn, các premic khoáng…
1. Hấp thu calci
Ion cancil rất khó hấp thụ vì nó có hoá trị hai và các hợp chất của nó rất khó
hoà tan. Ion cancil được hấp thu tích cực qua niêm mạc ruột đặc biệt là tá tràng.
Bình thường lượng ion cancil được hấp thu chỉ bằng 1/50 lượng ion Natri.
Khoảng 4/5 lượng ion calci ăn vào được thải theo phân, số còn lại bài xuất theo
con đường nước tiểu. Cơ chế bài xuất ion cancil qua đường nước tiểu giống
như ion Natri.
Tất cả các ion calci đều được tái hấp thu trong ống lượn gần và nhánh lên
của quai Hanle ở ống lượn xa và ống góp. Ion calci được hấp thu nhiều hay ít
tuỳ thuộc vào tuỳ thuộc vào nồng độ ion calci trong huyết tương.
Khi nồng độ ion cancil huyết tương thấp thì qua trình tái hấp thu tăng và ion
calci được tái hấp thu hầu như hoàn toàn và không được đào thải qua nước tiểu.
Ngược lại nếu nồng độ calci chỉ hơi tăng cao trên mức bình thường thì
cũng làm tăng đào thải ion cancil qua nước tiểu. Một trong những yếu tố điều
hoà quá trình tái hấp thu ion calci ở ông thận là parathormone (PTH) của tuyến
cận giáp.
2. Hấp thu và bài xuất phosphat
Nguồn cung cấpcalci cũng đồng thờilà nguồn cung cấp phosphat. Ngoài ra còn
có trong thịt…., khác với calci, phosphat được hấp thu dễ dàng qua niêm mạc ruột,
trừ khi có qua nhiều calci trong thức ăn do tạo ra các hợp chất phosphat calci không
hoà tan nên khó được hấp thu và sẽ được bài tiết qua thận.
Bài xuất phosphat: trừ lượng phosphat bài xuất theo đường phân dưới
dạng kết hợp với calci, hầu như phosphat được bài xuất qua nước tểu. Ngưỡng
phosphat ở thận là 1mM/l. Khi lượng phosphat cao hơn mức này ion PO4--- sẽ
được đào thải qua nước tiểu, lưọng PO4--- được đào thải tỷ lệ thuận với nồng độ
PO4--- trong huyết tương. Thận điều hoà nồng độ PO4---của dịch ngoại bào bằng
cách thay đổi mức bài xuất PO4--- ra nước tiểu. Do đó PTH đóng vai trò quan
trọng trong điều hoà nồng độ PO4--- của huyết tương.
3. Phân bố calci và phosphat trong cơ thể
Khoảng 99% calci ở xương và răng, 1% ở dịch ngoại bào. 70% phosphat
ở xương và răng, 29%ế bào và 1% ở dịch ngoại bào.
a. Dạng calci và phosphat ở dịch ngoại bào:
- Dạng cancil: nồng độ cancil trong huyết tương là 9,4% (2,4mM/l).Có
ba dạng cancil trong huyết tương:
+ Dạng gắn với protein (41%), dạng này không khuyếch tán được qua
mao mạch.
+ Dạng gắn với citrate phosphat (9%), dạng này có thể khuyếch tán qua
mao mạch.
+ Dạng ion (50%), dạng này có thể khuyếch tán qua mao mạch
- Dạng phosphat: tổng lượng phosphat vô cơ ở huyết tương là 4mg% và
thường có hai dạng; HPO42- là 1,05mM/l, và dạng H2PO4 1- là 0,26 nM/l.
Khi ượng phosphat toàn phần tăng, cả hai lượng này đều tăng.Khiph máu
acid thì lượng HPO4-- giảm. Khi máu kiềm thì lượng H2PO41- giảm và lượng
HPO4-- tăng. Vì khó xác định chính xác riêng nồng độ hai ion này trong huyết
tương nên lượng phosphat toàn phần được biểu thị bằng thuật ngữ (miligam
phosphat trong 100ml máu và đó chính là lượng phosphat vô cơ toàn phần bao
gồm cả hai loại ion HPO4- và HPO4-- là 4mg%).
b. Dạng calci và phosphat ở xương
- Thành phần của xương: xương gồm một khuôn hữu cơ dai và được
làm bền vững thêm nhờ muối cancil lắng đọng trên khuôn hữu cơ này. Khuôn
hữu cơ chiếm khoảng 30% trọng lượng và 70% là muối. Ở xương mới hình
thành tỷ lệ khuôn hữu cơ cao hơn do đó dai hơn.
+ Khuôn hữu cơ: 90-95% là sợi collagen và phần còn lại là chất nền. Sợi
collagen tạo sức căng. Chất nền là sulphat chondroitin và acid hyaluric.
+ Muối: các tinh thể muối được lắng đọng trong khuôn hữu cơchủ yếu là
muối của calci và phosphat, đó là hydroxyapatit. Tỷ lệ calci/phosphat thay đổi
theo điều kiện dinh dưỡng, thông thường vào khoảng 1,3-2,0. Ngoài muối calci
và phosphat còn có các loại muốicủa Mg++, Na+, K+, HCO3- nhưng người ta
chưa biết rõ hợp chất này.
- Các loại tế bào xương: có 3 loại tế bào xương
+ Osteoblast: thường nằm ở bề mặt xương, loại men này tiết nhiều men
phosphat kiềm (hoạt tính men nàyđược coi là chỉ số tạo xương). Chức năng này
của tế bào là tạo sợi collagen và khởi phát quá trình lắng đọng các tinh thể
muối phosphat calci trên khuôn hữu cơ. Ở cơ thể đang lớn hoặc sau gãy xương
người ta thấy hoạt tính men phosphatase kiềm tăng.
+ Osteoclast: thường nằm ở giữa xương. Loại tế bào này thường tiết men
tiêu protein và làm tiêu sợi collagen, tiết acid lactic và acid citric để hoà tan muối
calci vì vậy chức năg của nó làm tiêu xương do đó giải phóng calci vào máu.
+ Osteocyte: được tạo thành từ osteoblast. Loại tế bào này chiếm tỷ lệ
nhiều nhất trong xương đang phát triển và đóng vai trò quan trọng trong sự trao
đổi calci giữa xương và dịch ngoại bào. Khoảng 1% lượng calci và phosphat có
khả năng trao đổi giữa xương và dịch ngoại bào và chỉ loại này gọi là calci trao
đổi, 99% lượng calci còn lại không có khả năng trao đổi và nó chỉ được gải
phóng vào máu khi các tế bào osteoclast hoạt động như trong thời kỳ cần tu sửa
hoặc trong tình trạng bệnh lý.
- Khả năng trao đổi của ion Ca++: nếu tiêm dung dịch muối calci hoà
tan vào tĩnh mạch thì nồng độ calci tăng cao ngay, sau vài phút trở lại bình
thường. Ngược lại nếu một lượng lớn calci lấy ra khỏi máu thì lượng calci sẽ
trở lại bình thường sau vài phút đến vài giờ. Sự ổn định nồng độ calci tăng như
vậy là nhờ cơ thể chứa một lượng calci trao đổi, loại này cân bằng với lượng
calci trong máu. Loại calci trao đổi này nằm trong gan, đường tiêu hoá chủ yếu
nằm trong xương trung bình chiếm từ 0,4- 1% lượng calci có trong xương .
Phần lớn loại này nằm dưới dạng muối dễ huy động khi cần thiết như CaHPO4.
Loại calci trao đổi này đóng vai trò như hệ đệm cung cấp nhanh calci khi cần
giữ nồng độ Ca++ trong máu hằng định.
4. Vai trò calci và phosphat trong cơ thể
a. Vai trò của calci:
- Duy trì tính thấm và tạo điện thế hoạt động: bình thường nồng độ ion
Ca++ trong tế bào rất thấp và thấp hơn so với ngoài tế bàokhoảng 10.000 lần.
Có sự chênh lệch này là do tác dụng của bơm calci giống như bơm Natri, bơm
cancil có mặt ở hầu hết màng tế bào. Bơm Ca2+ có tác dụng đẩy ion Ca++ từ
trong bào tương ra ngoài tế bào và đẩy Ca2+ từ bào tương vào các bào quan
trong tế bào như là bơm ion Ca++ vào mạng nội cơ của các tế bào cơ hoặc các
ty lạp thể của tất cả các tế bào.
Trên màng tế bào có những kênh cho cả Na+ và cả Ca++ đi qua, bình
thường kênh này chỉ chỉ tính thấm rất yếu với cả hai ion nhương khi kênh mở
dòng Na+, Ca++ đều chảy vào trong tế bào. Đặc điểm của loại kênh này là thời
gian hoạt hoá rất chậm, thường xảy ra chậm hơn kênh Na+ từ 10-20 lần, vì vậy
người ta thường gọi kênh này là kênh chậm và kênh Na+ là kênh nhanh. Nhưng
kênh Ca++ thường có ở cơ tim và cơ trơn.
Ở một số cơ trơn, kênh Na+ rất khó hoạt động nên việc tạo ra điện thế
hoạt động hầu như do kênh Ca++ đảm nhận. Do vậy nếu rối loạn nồng độ ion
Ca++ sẽ dẫn đến rối loạn chức năng co cơ.
Mặt khác, nồng độ bình thường của của ion Ca++ trong dịch ngoại bào có
tác dụng duy trì tính thấm của ion Na+ ở mức bình thường. Khi có sự thiếu hụt
ion Ca++, chỉ cần có sự thay đổi nhẹ diện thế của màng tế bào cũng đủ hoạt hoá
kênh Na+ và làm cho sợi cơ co và sợi thần kinh trở nên hưng phấn. Cơ chế tác
dụng của ion Ca++ được giải thích như sau: khi ion Ca++ gắn vào mặt ngoài của
phân tử protein vận tải Na+, điện tích dương của ion Ca++ làm thay đổi trạng
thái điện tích của phân tử protein vận tải và do đó làm tăng điện thế đủ để mở
kênh vận chuyển.
- Duy trì tính hưng phấn của sợi cơ và sợi thần kinh: Khi thiếu ion
Ca++ tính hưng phấn của sợi cơ và sợi thần kinh tăng. Nồng độ ion Ca++ thấp
dưới mức bình thường khoảng 50% đã có thể gây co cơ và dẫn đến cái chết do
cơ thanh quản là cơ rất nhạy cảm với tình trạng thiếu ion Ca++ Ngược lại nếu
thừa ion Ca++ sẽ làm giảm tính hưng phấn của sợi thần kinh.
- Giải phóng chất truyền đạt thần kinh: khi xung động kích thích
truyền đén cúc tận cùng, kênh Ca++ mở và ion Ca++ được vận chuyển từ ngoài
vào cúc tận cùng. nồng độ ion Ca++ trong cúc tận cùng tăng và có tcá dụng đẩy
các bọc chứa các chất truyền đạt thần kinh về phía màng trước synap. Các bọc
này hoà màng với màng trước synap và giải phóng chất truyền đạt thần kinh
vào khe synap.
- Tham gia vào cơ chế tác dụng của hormon: Ion Ca++ là một trong
những yếu tố được gọi là chất truyền tin thứ hai. Một số hormon khi tới tế bào
đích sẽ gắn với các receptor của màng tế bào. Sự tương tác giữa các hormon và
các receptor sẽ làm thay đổi cấu trúc không gian của các receptor (người ta nói
các receptor đã được hoạt hoá) khi đó kênh Ca++ sẽ mở và Ca++ được vận
chuyển vào trong tế bào. Tại bào tương, ion Ca++ gắn với một protein
làcalmoduli. Calmodulin có t bốn vị trí riêng biệt đẻ gắn với ion calci, cấu trúc
phân tử cuaprotein này thay đổi và sau đó gây nhiều tác dụng khác nhau tại tế
bào đích tương tự như tác dụng của AMP vòng.
- Tham gia vào cơ chế co cơ: tế bào cơ được cấu tạo bở hai loại cơ là sợi
actin và myosin.
Sợi myosin gồm 6 chuỗi polypeptid. Còn sợi actin gồm 3 loại protein là
actin, tropomyosin, troponin. Trên các sợi actin có các vị trí hoạt động. Bình
thường trong trạng thái giãn cơ, các vị trí này bị ức chế bởi phức hợp troponin-
tropomyosin. Khi có mặt ion Ca++ tác dụng ức chế của phức hợp không còn
nữa và giải phóng những điểm hoạt động trên sợi actin là cho các sợi actin
trượt sâu vào sợi myosin. Đó là bản chất của hiện tượng co cơ.
- Calci và các hợp chất của calci: là thành phần cấu tạo chính của xương
và răng.
- Tham gia vào quá trình đông máu: ion Ca++ tham gia hầu hết các giai
đoạn qua trình đông máu như hoạt hoá yếu tố IX, X, II và vận chuyển fibrin
thành fibrin trùng hợp.
b. Vai trò của phó phat
- Là thành phần cấu trúc của màng tế bào (dưới dạng phospho lipid).
- Là thành phần cấu tạo xương và răng.
- Tham gia điều hoà ph máu: Hệ dệm phosphat vô cơ HPO4-/ H2PO4- có
nồng độ chỉ khoảng 0,66nM/l trong huyết tương. Với Ph huyết tương là 7,4 thì
tỷ lệ HPO4-/ H2PO4- là 4/1. Như vậy 80% phosphat vô cơ trong huyết tương
nằm dướ dạng HPO4- còn 20% dưới dạng H2PO4- . Hệ thống này điều hoà PH
huyết tương bằng cách đào thải qua nước tiểu, qua đó ion H+ sẽ được đào thải
ra ngoài khi nồng độ phosphat cao.
- Hệ đệm phosphat vôcơ trong hồng cầu: hệ đệm HPO4-/ H2PO4- có nồng
độ khoảng 2mM/l hồng cầu.
5. Điều hoà nồng độ Calci và phosphat
a. Vitamin D: đóng vai trò quan trọng trong quá trìnhhấp thu ion Ca++ ở ruột
và xương, tuy nhiên tự nó vitamin D không phải là một chất hoạt hoá mà phải
trải qua một chuỗi phản ứng ở gan và thận để tạo ra sản phẩm cuối cùng là
1,25- dihydroxy-cholecalciferol.
- Sự hình thành dạng hoạt hoá của của vitamin D: nhiều hợp chất khác
nhau có nguồn gốc khác nhau từ steron (có trong gan, dầu cá) đều thuộc nhóm
vitaminD, nhưng hợp chất quan trọng nhất là vtaminD3 (cholecalciferon). Chất
này tạo ra dưới da dưới tác dụng của tia cực tím. Dạng hoạt hoá cả vita min
hình thành qua hai giai đoạn ở gan và thận.
+ Tại gan: cholecalciferon được chuyển thành 25-hydroxy-
cholecalciferon. Chính chất 25- hydroxy-cholecalciferon có tác dụng feedback
để điều hoà nồng độ vitamin D3. thu nhập nồng độ vitamin D3 có thể tăng nhiều
lần nhưng nồng độ 25- hydroxy-cholecalciferon chỉ thay đổi so với bình
thường vài phần trăm.. Ví dụ lượng vitamin D đưa vào gia súc tăng 1000 lần
thì lượng 25- hydroxy-cholecalciferon chỉ tăng 3 lần. Tác dụng feedback này
ngăn cản hình thành vitamin D3 quá nhiều do đó điều chỉnh được nồng độ 25-
hydroxy-cholecalciferon . 25- hydroxy-cholecalciferon chỉ tồn tại trong thời
gian ngắn trong khi vitamin D có thể được lưu trữ trong gan vài tháng.
+ Tại thận: 1,25- hydroxy-cholecalciferon được tạo thành từ 25-
hydroxy-cholecalciferon ở ống lượn gần dưới tác dụng của parathormon (PTH)
không có PTH thì hầu như không có 1,25- hydroxy-cholecalciferon.
Tác dụng của 1,25- hydroxy-cholecalciferon: đây là dạng có hoạt tính
mạnh nhất và có tác dụng ở xương và ruột.
+ Ở xương: tăng cường vận chuyển ion Ca++ qua màng xương vào mô
xương. Tăng hiện tượng calci hoá.
+ Ở ruột: tăng tạo protein vận tải ion Ca++ tại riềm bàn chải củatế bào
biểu mô niêm mạc ruột do đó tăng vận chuyển ion Ca++ vào bào tương rồi
khuyếch tán qua màng đáy vào máu. Mức hấp thụ ion tỷ lệ thuận với lượng
protein vận tải. tạo thành men Ca++- ATPase tại riềm bàn chải cảu tế bào biểu
mô niêm mạc ruột. Tạo thành men phosphatase kiềm ở tế bào biểu mô niêm
mạc ruột.
+ Điều hoà nồng độ 1,25- hydroxy-cholecalciferon: Nồng độ 1,25-
hydroxy-cholecalciferon chịu ảnh hưởng của nòng độ ion Ca++ trong
huyết tương. Bản thân ion Ca++ có tác dụng ức chế nhẹ phản ứng
chuyển 25- hydroxy-cholecalciferon thành 1,25- hydroxy-
cholecalciferon. Mặt khác nồng độ ion Ca++ điều hoà sự tạo thành 1,25-
hydroxy-cholecalciferon thông qua tác dụng của PTH. Nồng đọ ion Ca++
huyết tưong tăng ức chế tuyến cận giáp bài tiết PTH mà PTH lại có tác
dụng hoạt hoá phản ứng chuyển 25- hydroxy-cholecalciferon thành 1,25-
hydroxy-cholecalciferon , do đó PTH làm giảm nồng độ 1,25- hydroxy-
cholecalciferon.
b. Parathormon (PTH)
- Nguồn gốc và bản chất hoá học: PTH được bài tiết từ tế bào chính của
tuyến cận giáp dưới dạng tiền hormon là preprohormon rồi chuyển thành
prehormon và cuối cùng là dạng hkạt động của hormon. Bản chất hoá học của
PTH là polypeptid có 84 acid amin và có trọng lượng phân tử là 9500.
- Tác dụng: PTH có tác dụng làm tăng nồng độ ion Ca++ huyết tương
bằng cách tác dụng lên xương, thận và ruột.
+ Tác dụng trên xương: Hoạt hoá té bào osteoclasst mới. Tác dụng này
thường chậm và kéo dài.
+ Tác dụng trên thận: tăng tái hấp thu ion Ca++ ở nhánh trên quai helen,
ống lượn xa và ống góp. Giảm tái hấp thu ion PO4--- ở ống thận và chủ yếu là
ống lượn gần do đó làm tăng bài tiết ion PO4--- qua nước tiểu.
+ Tác dụng trên ruột: do PTH có tác dụng hoạt hoá chuyển 25- hydroxy-
cholecalciferon thành 1,25- hydroxy-cholecalciferon nên nó có tác dụng tăng
hấp thu ion Ca++ ở ruột.
+ Điều hoà bài tiết: lượng PTH được bài tiết nhiều hay ít là do nồng độ
ion Ca++ trong huyết tương quyết định. Nếu nồng độ Ca++ giảm sẽ kích thích
tuyến cận giáp bài tiết nhiều PTH và ngược lại, nồng độ ion Ca++ tăng vượt quá
10mg% thì tuyến cận giáp sẽ giảm bài tiết PTH.
c. Calcitonin
- Nguồn gốc và bản chất hoá học: Calcitonin do tế bào cạnh nang
giáp bài tiết. Bản chất hoá học là polypeptid có 32 acid amin với trọng
lượng phân tử 3400.
- Tác dụng: calci tonin có tác dụng ngược với PTh, nó làm giảm nồng độ
Ca++ bằng cách:
+ Giảm hoạt động của tế bào osteoclast. Tác dụng này đặc biệt quan
trọng ở gia súc non vì nó làm tăng qua trình lắng đọng Ca++ ở xương.
+ Giảm tạo tế bào osteoclast mới, quá trình này thường chậm và kéo dài,
do đó làm giảm quá trình huỷ xương.
+ Tăng hoạt tính của tế bào osteoclas. Tác dụng này chậm hơn.
+ Tăng tạo sụn và tăng lắng đọng các ion ở xương.
+ Giảm tái hấp thu ion Ca++ ở ống thận.
Calcitonin quan trọng đối với gia súc non vì qua trình tu sửa xương xảy ra
nhanh. Hằng ngày lượng ion Ca++ giải phóng khoảng 5-10g. Do đó cần phải tu
sửa xương nên hoạt tính các tế bào huỷ xương tăng vì vậy tác dụng của
calcitonin ở chỗ làm giảm quá trình huỷ xưương.
Ở gia súc lớn calci tonin ít quan trọng trong điều hoà nồng độ Ca++ huyết
tương vì khi calci tonin làm giảm nồng độ Ca++ thì sẽ dẫn đến tăng bài tiết PTH
ở tuyến cận giáp. Nồng độ PTH tăng sẽ lập tức điều chỉnh nồng độ ion Ca++ trở
lại mức bình thường.
+ Điều hoà bài tiết: lượng calcitonin được bài tiết phụ thuộc vào nồng độ
ion Ca++ huyết tương. Nồng độ ion Ca++ huyết tương tăng sẽ làm tăng bài tiết
calcitonin. Ví dụ lượng Ca++ huyết tương tăng 10% sẽ làm tăng bài tiết
calcitonin tăng 2 lần.
d. Hormon GH
- Nguồn gốc và bản chất hoá học: Gh do tế bào ưa acid của thuỳ trước
tuyến yên bài tiết. Bản chất hoá học là một protein có 191 acid amin với trọng
lượng phân tử là 22.005.
- Tác dụng: Gh mặc dù không tác dụng trực tiếp lên quá trình điều
hoà nồng độ ion Ca++ và phosphat nhưng vì nó có tác dụng tăng tổng hợp
khuôn hữu cơ của xương, làm phát triển sụn liên hợp, làm tăng chiều dài
của xương nên gián tiếp ảnh hưởng đến chuyển hoá calci và phosphat. Rối
loạn bì tiết Gh gây ra phát triển qua mức về chiều dài của xương (bệnh
khổng lồ) hoặc chiều dày của xương (bệnh to đầu ngón) hoặc không phát
triển chiều dài của xương (lùn)..
e. Hormon T3 – T4
- Nguồn gốc và bản chất hoá học: do các tế bào ở nang tuyến giáp bài tiết.
Hai hormon này được tổng hợp từ tyrosin và iod.
- Tác dụng: Giống như GH của tuyến yên T3 – T4 của tuyến giáp cũng
không ảnh hưởng trực tiếp đến nồng độ ion Ca++ trong huyết tương, tuy nhiên
thông qua tác dụng tăng biệt hoá tế bào, tăng chuyển hoá mô sụn thành mô
xương nên cũng ảnh hưởng đến chuyển hoá calci và phosphat.
f. Hormon estrogen
- Nguồn gốc và bản chất hoá học: estrogen là hormone sinh dục nữ do lớp
áo trong của nang trứng và hoàng thể bài tiết. Ngoài ra nhau thai, tuyến vỏ
thượng thận cũng bài tiết estrogen nhưng nồng độ chủ yếu làdo buồng trứng
tiết ra. Estrogen là một dạng steroid có 18 C.
Tác dụng:
+ Kích thích sinh tổng hợp protid của xương.
+ Kích thích hoạt động của tế bào osteoblast.
+Kích thích sự phát triển cũăơng cả về chiều dài và độ dày.
+ Kích thích sự phát triển sụn liên hợp và sự cốt hoá sụn liên hợp.
h. Hormon testosteron
- Nguồn gốc và bản chất hoá học: Testosteron do tế bào kẽ laydig của tinh
hoàn bài tiết ra ngoài ra vỏ thượng thận cũng bài tiết nhưng với một lượng nhỏ
không đáng kể. Testosteron có bản chất là một steroid có 19 C.
Tác dụng:
+ Kích thích sinh tổng hợp khung protid của xương.
+ Kích thích hoạt động của tế bào osteoblast.
+Kích thích sự phát triển xương cả về chiều dài và độ dày.
+ Kích thích sự phát triển sụn liên hợp và sự cốt hoá sụn liên hợp.
i. Hormon cortisol
- Nguồn gốc và bản chất hoá học: Cortisol là hormon do tuyến vỏ thượng
thận bài tiết ra. Bản chất hoá học cũng là một steroid.
Tác dụng: Cortisol có tác dụng tăng thoái hoá protein, vì vậy nếu dùng
cortisol liều cao và kéo dài sẽdẫn đến thoái hoá khuôn hữu cơ của xương và
ảnh hưởng tới lắng đọng calci ở xương dẫn đến tình trạng loãng xương.
6. Rối loạn chuyển hoá calci và phosphat
a. Bệnh nhược năng tuyến cận giáp:
- Nguyên nhân: do tuyến cận giáp không bài tiết đủ lượng hormon hoặc
tuyến cận giáp bị cắt bỏ.
- Các dấu hiệu lâm sàng xét nghiêm: do lượng hormon bài tiết không đủ
nên klhả năng trao đổi ion Ca++ giảm. Tế bào osteoclast hầu như không hoạt
động dẫn tới giải phóng ion Ca++ từ xương giảm và do đó nồng độ ion Ca++
trong huyết tương giảm.
- Xét nghiệm máu và nước tiểu thấy nồng độ PTH giảm, nồng độ ion Ca++
trong huyết tương giảm, nồng độ ion Ca++ trong nước tiểu cũng giảm, nồng đọ
ion PO4--- trong nước tiểu giảm và nồng độ ion PO4--- trong huyết tương tăng.
- Nếu đột nhiên mức Ca++ trong huyết tương giảm xuống chỉ còn 6-7mg5
và tình trạng này kéo dài khoảng 2-3 ngày sẽ dẫn đén các cơn co cơ, mẫn cảm
nhất là ở thanh quản. Co cơ thanh quản sẽ là tắc nghẽn thông khí và dẫn đến cái
chết. Chính vì vậy người ta nói tuyến cận giáp là tuyến có tính chất sinh mạng.
Trường hợp nhược năng tuyến cận giáp ở mức độ nhẹ, các cơn co cơ
không xuất hiện.
- Điều trị nhược năng tuyến cận giáp bằng PTH thường ít hiệu quả vì tác
dụng chậm và có xu hướng sinh kháng thể làm trung hoà tác dụng của hormon
nên trong thực tế thường ít dùng. Hầu hết các cơ thể bị nhược năng tuyến cận
giáp đều điều trị bằng vitamin d liều khoảng 100.000 đơn vị/ ngày kết hợp với
1-2 g calci sẽ có khả năng duy trì nồng độ ion Ca++ ở mức bình thường. Trong
trường hợp bệnh nặng dể giải quyết các cơn co