Bài giảng Côn trùng rừng

Côn trùng rừng (Forest Entomology) là môn học cung cấp cho sinh viên những kiến thức cơ bản về lớp côn trùng (Insecta), về những loại côn trùng có hại cho sản xuất lâm nghiệp; những côn trùng có ích cần bảo vệ và phát triển; những biện pháp quản lý côn trùng rừng theo các nhóm mục tiêu nhằm hạn chế những mặt tác hại, bảo vệ được đa dạng sinh vật trong hệ sinh thái và khai thác sử dụng các nguồn lợi do chúng mang lại.

pdf142 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 1915 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài giảng Côn trùng rừng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG Phần A. ĐẠI CƯƠNG Chương I: KHÁI NIỆM VỀ CÔN TRÙNG HỌC 1. Định nghĩa môn Côn trùng rừng Côn trùng rừng (Forest Entomology) là môn học cung cấp cho sinh viên những kiến thức cơ bản về lớp côn trùng (Insecta), về những loại côn trùng có hại cho sản xuất lâm nghiệp; những côn trùng có ích cần bảo vệ và phát triển; những biện pháp quản lý côn trùng rừng theo các nhóm mục tiêu nhằm hạn chế những mặt tác hại, bảo vệ được đa dạng sinh vật trong hệ sinh thái và khai thác sử dụng các nguồn lợi do chúng mang lại. 2. Vị trí phân loại và đặc điểm của lớp côn trùng Côn trùng là động vật không xương sống. Lớp côn trùng có tên khoa học là Insecta hay Hexapoda, thuộc ngành Tiết túc – Arthropoda. Côn trùng có những đặc điểm chung sau đây:  Cơ thể chia làm 3 phần rõ rệt là đầu, ngực và bụng.  Đầu có một đôi râu đầu, miệng và một đôi mắt kép và 2-3 mắt đơn (một số loài không có mắt đơn).  Ngực có 3 đốt, mỗi đốt có một đôi chân ngực và pha trưởng thành có thể có 2 đôi cánh.  Lỗ sinh dục và lỗ hậu môn nằm ở cuối bụng.  Da làm chức năng của bộ xương ngoài.  Hô hấp bằng hệ thống khí quản.  Chúng lớn lên bằng cách lột xác. Trong quá trình sinh trưởng phát triển có biến thái bên trong và bên ngoài. 3. Nguồn gốc tiến hóa của lớp côn trùng Về nguồn gốc của lớp côn trùng có nhiều ý kiến khác nhau. Handlirsch cho rằng côn trùng cổ xưa tiến hóa từ lớp tam diệp (Trilobita). Các học giả Hancea, Carpenter, Crampton cho rằng côn trùng tiến hóa từ lớp giáp xác (Crustacea). Các học giả Brauer, 2 Packard, Tyllygard và Imms lại cho rằng côn trùng tiến hóa từ lớp đa túc (Myriapoda). Như vậy, côn trùng tiến hóa từ một lớp nào đó trong ngành tiết túc (Arthropoda), có thể là động vật sống trên cạn (Myriapoda), có thể sống dưới nước (Trilobita, Crustacea), tổ tiên của côn trùng đều có miệng nhai, kiểu miệng nhai của côn trùng là nguyên thủy nhất, từ đó mới biến đổi thành các kiểu miệng khác. Tương tự như vậy, bộ máy tiêu hóa thức ăn rắn là nguyên thủy nhất, cánh mới xuất hiện ở lớp côn trùng và không phải chi phụ của đốt cơ thể ở phần ngực biến đổi thành. Côn trùng có số loài và số cá thể từng loài nhiều, phân bố rộng vì chúng có những ưu thế hơn các động vật khác: (1) Cơ thể côn trùng được bao bọc bởi một lớp da có cấu tạo đặc biệt, giúp chúng có thể thích nghi với những điều kiện khắc nghiệt của ngoại cảnh; (2) Chúng có cánh nên có thể bay để tìm thức ăn, tìm đôi giao phối, trốn tránh kẻ thù, lựa chọn nơi đẻ trứng và tìm nơi sinh sống tốt nhất, có thể di cư và mở rộng vùng phân bố dễ dàng. Do có cánh nên côn trùng đã tiến bộ vượt xa tổ tiên của chúng, làm cho chúng chiếm ưu thế trong cạnh tranh sinh tồn và hình thành các loài mới, khiến cho số loài nhiều, chiếm ưu thế trong sinh quần. (3) Cơ thể côn trùng nhỏ bé, khiến cho chúng có thể ẩn náu ở mọi nơi, với một lượng thức ăn ít ỏi cũng đủ để hoàn thành một thế hệ và sinh ra các thế hệ sau. Những nghiên cứu hóa thạch cho thấy côn trùng xuất hiện trên mặt đất cách đây 300 triệu năm, trải qua thời kì băng hà, những động vật có kích thước lớn như khủng long bị tuyệt chủng, còn côn trùng vẫn tồn tại và phát triển. (4) Côn trùng có sức sinh sản lớn và vòng đời ngắn (có loài vòng đời chỉ 5-7 ngày, như rệp muội thuộc họ Aphididae) nên sức tăng mật độ cao. (5) Côn trùng có sức sống và khả năng thích nghi cao với những biến đổi của những điều kiện ngoại cảnh, khiến chúng vượt xa các nhóm loài khác trong giới động vật về tính đa dạng. 4. Vai trò của côn trùng đối với tự nhiên và con người  Với tự nhiên  Côn trùng chiếm vị trí quan trọng số một trong đa dạng sinh học và cân bằng của mỗi hệ sinh thái. Côn trùng là lớp động vật nhiều loài nhất. Đến nay đã biết khoảng trên 1,5 triệu loài côn trùng (con số này so với thực tế vẫn còn rất thấp), 3 chiếm đến ¾ số loài đã được ghi nhận của 60 lớp thuộc giới động vật. Số lượng cá thể mỗi loài cũng rất lớn. Ví dụ, một tổ kiến ước tính có 50 vạn con, một tổ ong lớn khoảng 8 vạn con.  Côn trùng hỗ trợ sinh sản cho nhiều loài thực vật. Côn trùng thụ phấn cho khoảng 85% số loài thực vật hiển hoa khỏa tử (thực vật có hoa và bầu nhụy để lộ ra ngoài). Vì vậy người ta cho rằng sự phát sinh của lớp côn trùng trên mặt đất đã làm xuất hiện sau đó những thực vật loại này. Côn trùng là nguyên nhân tạo ra đa dạng sắc màu và hương thơm của các loài hoa trên trái đất (thông qua lai tạo và chọn lọc tự nhiên).  Côn trùng là mắt xích quan trọng trong dòng năng lượng và chu trình tuần hoàn vật chất trong tự nhiên. Chúng ăn hầu hết các chất hữu cơ (nguồn gốc thực vật, động vật, phân, xác chết và tàn dư động thực vật…) nên được coi là đội quân vệ sinh thiên nhiên ở mọi nơi, tạo độ màu mỡ cho đất, tăng tính bền vững của hệ sinh thái.  Với con người  Ảnh hưởng tiêu cực  Một số loài côn trùng ăn thực vật gây hại cho cây trồng nông nghiệp, ảnh hưởng tới năng suất, phẩn chất nông sản, gây thiệt hại cho người nông dân. Những loại này gọi là sâu hại cây trồng. Sâu hại thường làm giảm 5-10% năng suất, sản lượng cây trồng. Thiệt hại ước tính là 25 tỷ USD mỗi năm. Khi phát sinh với với số lượng lớn, sâu hại có thể gây ra những thiệt hại nghiêm trọng, do vậy việc phòng chống chúng là cần thiết, trong đó có biện pháp hóa học. Nhưng việc làm này bên cạnh sự tốn kém là vấn đề gây ô nhiễm môi trường sống, để lại dư lượng chất độc trong nông sản và làm mất cân bằng sinh học tự nhiên. Ở nước ta đã xảy ra nhiều dịch sâu hại trong 50 năm qua. Từ năm 1961-1970, dịch bệnh virus lúa vàng lụi do bọ rầy xanh đuôi đen (Nephotettix spp.) là môi giới truyền bệnh xảy ra ở khắp các tỉnh miền Bắc, gây thiệt hại hang chục vạn hécta. Thời kỳ 1971-1975, dịch sâu năn (Pachydiplopsis oryzae) xảy ra khắp các tỉnh đồng bằng sông Hồng. Những năm 1977-1979, rầy nâu (Nilaparvata lugens) và rầy lưng trắng (Sogata furcifera) phát sinh mạnh ở các tỉnh đồng bằng song Cửu Long trên diện tích 200 ngàn hécta. 4 Những năm 1979-1981, sâu năn (Pachydiplopsis oryzae) gây hại đến 11 ngàn hécta ở các tỉnh miền Trung (Bình Trị Thiên và Phú Khánh). Những năm 1986-1987, bọ xít đen (Scotinophara lurida) gây hại hàng ngàn hécta lúa ở các tỉnh Bắc Trung bộ (Thanh Hóa, Nghệ Tĩnh). Chỉ trong vụ đông xuân 1986, nông dân các tỉnh này bắt bằng dụng cụ thô sơ được 200 tấn bọ xít. Dịch sâu cuốn lá nhỏ hại lúa (Cnaphalocrocis medinalis) xảy ra trên phạm vi cả nước, riêng năm 2001 phát sinh gây hại 885 ngàn ha ở các tỉnh đồng bằng Bắc bộ và miền núi phía Bắc. Năm 2001, hơn 120 ngàn ha ngô và mía ở các tỉnh Đông Nam bộ bị cào cào phát sinh gây thành dịch hại nghiêm trọng. Gần đây nhất (2006) là nạn dịch rầy nâu gây ra bệnh vàng lùn và vàng xoắn lá lúa trên diện rộng ở các tỉnh Nam bộ, gây ra những tổn thất nặng nề. Trên các cây trồng khác cũng xảy ra các dịch sâu, khiến con người phải luôn luôn phòng chống.  Nhiều loài côn trùng gây hại cho tài nguyên rừng và các loại lâm sản. Các trận dịch sâu ăn lá, sâu đục thân cành hại cây rừng thường gây tổn thất tới hàng triệu đô la mỗi năm. Ở Trung Quốc: Cách đây gần 500 năm ở Trung Quốc đã xảy ra những trận dịch sâu hại rừng. Năm 1530 dịch sâu róm thông (Dendrolimus punctatus) xuất hiện ở Triết Giang và kéo dài trong 9 năm liền; ở tỉnh Giang Tô năm xuất hiện năm 1599 và kéo dài trong 17 năm. Hiện nay, theo ước tính mỗi năm có khoảng 3 triệu ha rừng thông bị nhiễm dịch SRT và làm mất đi lượng tăng trưởng khoảng 5 triệu m3 gỗ (Peng, 1989). Loài sâu này cũng chính là loài có khả năng lan rộng và phá hoại mạnh nhất ở 13 tỉnh miền Nam Trung Quốc (Ye, 1990). Tại Mỹ: Chỉ tính riêng miền Tây Bắc nước Mỹ, số liệu thống kê cho thấy từ năm 1893 đến năm 1975 đã xảy ra nhiều trận dịch sâu hại rừng với những quy mô khác nhau. Các trận dịch điển hình của một số loài sâu hại chủ yếu đã làm tổn thất một lượng gỗ là 46,4 tỷ fbm và diện tích rừng bị tàn phá nặng là: 87,94 triệu mẫu Anh (1 mẫu Anh = 0,4 ha). Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các trận dịch sâu róm thông đuôi ngựa (Dendrolimus punctatus) trên diện rộng tại các tỉnh phía Bắc (Bắc Giang, Quảng Ninh, Lạng Sơn, Vĩnh Phú, Thanh Hóa, Nghệ An…). Trong 5 thời gian gần đây tình hình dịch côn trùng hại rừng có diễn biến khá phức tạp và không kém phần nghiêm trọng (chẳng hạn sâu róm thông ở Bắc Trung bộ, ong ăn lá thông ở Tây nguyên và dịch sâu róm hại cây rừng ngập mặn ở miền Tây Nam bộ...). Chỉ tính riêng SRT, trong những năm xảy ra dịch diện tích rừng bị hại nặng thường lên tới hàng vạn hécta. Tác hại của các trận dịch sâu hại rừng:  Đối với nhóm sâu ăn lá, nếu bị hại ở mức độ trung bình (20-50%) hoặc mức độ nghiêm trọng (>50%) thì sẽ làm giảm tốc độ sinh trưởng và ảnh hưởng đến tính chất gỗ như làm ngắn chiều dài sợi, có thể làm cây yếu đi và dễ bị hại bởi các tác nhân khác (Elliott et al, 1998). Một vài loài cây hạt trần thường xanh dễ dàng bị hủy diệt nếu bị làm trụi lá ngay trong thời kỳ hình thành chồi (Speight, Wylie, 2001).  Ở Trung Quốc, khi rừng thông bị SRT (D. punctatus) gây trụi lá nghiêm trọng đã ảnh hưởng lớn đến lượng tăng trưởng và sản lượng nhựa hoặc chết cây hàng loạt; sau khi bị trụi lá 100%, khoảng 25% số cây bị chết, tăng trưởng thể tích của những cây còn sống sót bị giảm 31%. Những cây bị hại nghiêm trọng thường phải mất 3 năm mới hồi phục. Đặc biệt, hiện tượng thối rễ ở loài thông P. elliottii ở miền Nam Trung Quốc có liên quan đến hiện tượng trụi lá do D. punctatus gây ra. Năm 1988, ở huyện Đức Khánh (Quảng Đông) rừng thông bị hại 40.000ha, lượng nhựa giảm 6.510 tấn trị giá 7,81 triệu nhân dân tệ (0,935 triệu USD). Một năm SRT phá hoại thì 3 năm không có nhựa, gỗ cành giảm sản lượng nghiêm trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống người dân. Lông độc trên thân sâu non và trên kén sâu khi tiếp xúc với con người làm cho da sưng tấy, viêm da và viêm khớp, nghiêm trọng có thể làm mất khả năng lao động. Trâu bò ăn phải kén sâu có thể bị chết.  Ở Tasmania, rừng Bạch đàn (E. regnans) bị tấn công bởi bọ cánh cứng ăn lá Chrysophtharta bimaculata làm suy giảm 45,6% tăng trưởng về chiều cao và 52,1% tăng trưởng về tiết diện ngang trong thời gian 2 năm so với rừng được bảo vệ không bị sâu hại tấn công (Elliott và Cs., 1993).  Rừng trồng Bạch đàn E. grandis ở vùng duyên hải miền bắc New South Wales (Anh) bị hại bởi sâu Chrysophtharta cloelia từ 1972 - 1974, ước tính khoảng 6 60-70% lượng tăng trưởng chiều cao bị mất, đồng thời hơn một nửa số cây bị chết trong năm tiếp đó (Carne và Taylor, 1978).  Rừng Tếch non ở Kerala, Ấn độ bị sâu Hyblaea puera gây hại đã làm suy giảm 44% tăng trưởng về thể tích. Tăng trưởng 3,7m³/ha/năm, so với đối chứng là 6,7 m³. Theo dự đoán thì lượng tăng trưởng của rừng trồng được bảo vệ trong 26 năm sẽ tương đương với rừng trồng không được bảo vệ trong 60 năm (Nair, 1985, 1996).  Ở Malawi, ước tính thiệt hại cây đứng trong năm 1990 khoảng hơn 3 triệu đôla (Odera, 1991). Murphy (1996) ước tính ở miền Nam và Đông Châu Phi, tính đến năm 1990 giá trị thiệt hại về loài cây Bách do rệp Cinara cupressi gây ra trị giá khoảng 27,5 triệu bảng Anh, thiệt hại về lượng tăng trưởng hàng năm và lượng cây chết vào khoảng 9,1 triệu bảng.  Ở Papua New Ghine, Eucalyptus deglupta bị sâu đục vỏ Agrilus opulentus gây thiệt hại ước tính là 2,5 triệu đôla trong chu kỳ 10 năm (Mercer, 1990).  Ở Philippin, rừng trồng Eucalyptus deglupta cũng bị gây hại đến 63% do loài sâu đục vỏ A. sexsignatus.  Ở Xuđăng, sau thời kỳ khô hạn 1979-1984, sản lượng nhựa (gum) do cây Acacia senegal và A. seyal bị thiệt hại đáng kể do sự phá hoại của loài bọ nằm trong chi Agrilus (Jamal, 1994). Ngoài những tác hại trực tiếp, dịch sâu hại rừng còn làm ảnh hưởng đến khả năng phòng hộ của rừng, làm gia tăng dịch bệnh hại rừng và cháy rừng; làm suy thoái cảnh quan và tăng nguy cơ ô nhiễm môi trường.  Đê điều, nhà cửa, đồ gỗ, sách thư viện, nông sản sau thu hoạch bị mối và sâu mọt gây hại. Thiệt hại do chúng gây ra rất lớn; chúng có thể là nguyên nhân gây vỡ đê, làm sập nhà cửa và những thảm họa khác.  Nhiều loài côn trùng ký sinh và gây hại trên người và động vật nuôi (chấy, rận, bọ chét, ve, bét, rệp, ruồi vàng, muỗi…). Chúng không chỉ hút máu mà còn là môi giới lây truyền nhiều bệnh nguy hiểm.  Tác dụng tích cực Số loài côn trùng gây hại hay gây phiền toái cho con người không nhiều, chúng chỉ chiếm 0,1%, còn lại là vô hại hoặc có lợi cho con người. 7  Cho thực phẩm có chất lượng cao (thịt, mật…)  Thuốc chữa bệnh (Bọ ngựa, tằm, sâu chít, đông trùng hạ thảo, ong)  Cho nguyên liệu, vật liệu chế biến (Tằm, cánh kiến đỏ…)  Là vũ khí sinh học chống các loài gây hại (côn trùng thiên địch)  Giúp thụ phấn, tăng năng suất cây trồng, tái sinh rừng  Làm sạch môi trường sống và tăng độ phì đất… 5. Một số mốc lịch sử nghiên cứu về côn trùng  Trên thế giới Ba ngàn năm trước công nguyên, ở Trung Quốc đã bắt đầu nuôi tằm. Gần 400 năm trước công nguyên, Aristote (người Hy Lạp) đã viết về 60 loài côn trùng trong tác phẩm của mình. Vào thề kỉ 18 đã có nhiều học giả và công trình nghiên cứu về côn trùng học. Năm 1735, Carl Linne (1707-1778) xuất bản cuốn sách nổi tiếng “Systema naturae” đề cập đến 3 lĩnh vực quan trọng của tự nhiên là khoáng vật, thực vật và động vật. Ông là người đầu tiên phân loại động vật, trong đó có côn trùng một cách hiện đại. Lần xuất bản thứ 10 của sách “Hệ thống tự nhiên” này ông đã đưa vào cách gọi tên khoa học các loài sinh vật. Vào năm 1793, Sprengel (1750-1816) xuất bản tác phẩm nổi tiếng mô tả mối quan hệ giữa cấu tạo của hoa và quá trình thụ phấn của côn trùng. Trong cuốn sách này lần đầu tiên vai trò của côn trùng trong việc thụ phấn cho hoa đã được giải thích. Trong các công trình của mình, Lamarck (1744- 1829) đã có những đóng góp đáng kể cho môn côn trùng học, đặc biệt trên lĩnh vực phân loại. Cuối thế kỉ 18, Pallas (Viện sĩ người Nga) đã nghiên cứu và viết về thành phần loài côn trùng. Vào thế kỉ 19, cùng với sự phát triển của các ngành khoa học khác, côn trùng học đã trở thành một môn khoa học. Có rất nhiều người chuyên sâu về côn trùng học và hàng loạt các “Hội côn trùng” được thành lập ở các nước, như ở Pháp (năm 1832), Anh (1833), Nga (1859)… Các hội côn trùng giữ vai trò chỉ đạo phát triển côn trùng học ở mỗi nước. Từ thế kỉ 20 các lĩnh vực côn trùng học thực nghiệm ra đời, trong đó có côn trùng nông nghiệp, côn trùng lâm nghiệp.  Ở Việt Nam Vào năm 1905 đoàn nghiên cứu người Pháp công bố 1020 loài côn trùng thu thập được ở Đông Dương, trong đó có Việt Nam. 8 Từ đầu thế kỉ 20 đến 1945 có nhiều kết quả nghiên cứu được công bố có liên quan đến côn trùng học ở Việt Nam của các tác giả Dupasquier (Côn trùng hại chè), Fleutiaux (Mối, xén tóc và côn trùng hại mía, đậu đỗ), Joannis (Lepidopteres heteroceres du Tonkin), Trần Thế Tương (Les Chrysomelinae du Sud de la Chine et du Nord Tonkin), Sanvaza (Faune entomogique de l’Indonchine), Paulian R. (Scarabaeidae), Lemee A. (Lepidoptera). Sau năm 1945: Năm 1953 thành lập “Phòng côn trùng” thuộc Viện Trồng trọt. Năm 1961 thành lập cục Bảo vệ Thực vật. Năm 1966 thành lập Hội Côn trùng học Việt Nam. Câu hỏi ôn tập chương 1 1. Định nghĩa về Côn trùng rừng? Việc nghiên cứu côn trùng rừng có những thuận lợi và khó khăn gì? 2. Vị trí phân loại và những đặc điểm chính của lớp côn trùng? 3. Nguồn gốc tiến hóa của lớp côn trùng và những gì là ưu thế của côn trùng so với tổ tiên của chúng và so với các nhóm khác trong giớ động vật? 4. Vai trò của côn trùng đối với tự nhiên và đối với con người như thế nào? Cho những dẫn chứng về tác hại và ích lợi của côn trùng rừng? 5. Từ nhận thức về vai trò của côn trùng, hãy cho biết quan điểm về việc tiêu diệt “tận gốc” những loài côn trùng gây hại? 6. Nêu một số mốc lịch sử chính của việc nghiên cứu côn trùng trên thế giới và trong nước. 9 Chương 2 HÌNH THÁI HỌC CÔN TRÙNG 1. Định nghĩa Hình thái học côn trùng nghiên cứu cấu tạo bên ngoài côn trùng. Mọi cấu tạo của cơ thể côn trùng đều có chức năng nhất định, là kết quả của sự biến đổi rất phức tạp và lâu dài qua chọn lọc tự nhiên để thích ứng với hoàn cảnh sống và với đặc tính sinh vật học của mỗi loài. Đồng thời, cấu tạo của các bộ phận trong cơ thể có tương quan với nhau. Nghiên cứu hình thái cho ta biết được nguyên nhân của từng cấu tạo và quan hệ giữa cấu tạo và phương thức sống. Qua nghiên cứu hình thái có thể nhận biết những đặc điểm chung của từng nhóm loài và đặc điểm riêng của mỗi loài giúp cho công tác phân loại. Đó là cơ sở quan trọng để nhận biết các bộ, họ, giống và loài côn trùng. Vì lẽ đó, khi tìm hiểu về một loài côn trùng nào đó, bao giờ cũng bắt đầu từ việc nghiên cứu các đặc điểm hình thái học. Như vậy, hình thái côn trùng cũng là cơ sở cho hoạt động quản lí côn trùng. 2. Cấu tạo khái quát cơ thể côn trùng Cơ thể côn trùng được bao bọc bên ngoài bằng một lớp da tương đối cứng. Lớp da này giúp cho côn trùng có hình thù nhất định và làm chỗ bám cho các hệ cơ, nên người ta gọi da côn trùng là “bộ xương ngoài” để phân biệt với các động vật có xương bên trong. Cơ thể côn trùng được các vòng hẹp bằng chất màng phân cắt thành các vòng rộng hơn, tạo nên các đốt cơ thể. Những màng hẹp bằng chất màng đó gọi là màng giữa giữa đốt. Nhờ cơ thể được chia đốt như vậy nên có thể cử động được dễ dàng. Cơ thể côn trùng do 18-20 đốt ở thời kỳ phát dục phôi thai tạo nên. Mỗi đốt ở thời kỳ phôi thai (còn gọi là đốt nguyên thủy) có 2 mấu lồi ở hai bên gọi là mầm chi phụ. Chúng tập hợp thành 3 phần là đầu, ngực và bụng. Các đốt ở phần đầu kết lại với nhau rất khít, có thể thấy được vết tích chia đốt ở thời kỳ phôi thai, còn ở thời kỳ sau phôi thai chỉ nhận biết qua các chi phụ là 2 râu đầu, 2 hàm trên, 2 hàm dưới, 2 nửa môi dưới. Vì vậy, có người cho rằng đầu là do 4 đốt phôi thai tạo nên (Holmgren, Hanstrom, Snodgrass), do 5 đốt (Schwanvitch), hay do 6 đốt (Heymons, Viallanes). Phần ngực của tất cả các loài đều có 3 đốt. Chúng gắn kết rất chặt với nhau làm điểm tựa cho cơ quan vận động là cánh (1- 2 đôi) và chân (3 đôi). Phần bụng do 11 đốt tạo nên (ở giai đoạn trưởng thành thường chỉ 10 thấy 6-10 đốt). Cuối bụng của côn trùng trưởng thành có bộ phận sinh dục bên ngoài, ở một số loài có lông đuôi, còn các chi phụ khác không còn nữa. 3. Cấu tạo chi tiết cơ thể côn trùng a. Phần đầu và các phần phụ của đầu  Phần đầu Cấu tạo cơ bản của đầu  Đầu côn trùng được bao bọc bằng một vỏ cứng, có 4 đôi chi phụ là một đôi râu đầu và 3 đôi chi phụ miệng, có một đôi mắt kép và phần lớn có 3 mắt đơn. Râu đầu, mắt kép, mắt đơn là cơ quan cảm giác. Miệng là cơ quan thu nhận thức ăn. Vì vậy đầu là cơ trung tâm cảm giác và thu nhận thức ăn.  Trên bề mặt vỏ đầu có các ngấn. Ngấn là là đường lõm xuống của da tạo nên, phần lõm vào trong đó được gọi là sống nổi trong. Các ngấn phân chia vỏ đầu thành các khu và các mảnh, như khu trán – chân môi, khu cạnh- đỉnh đầu, khu ót, khu sau ót, khu dưới má, và đặc biệt môi trên và lưỡi cũng là một mảnh của vỏ đầu tạo thành. Trên đỉnh đầu ở giai đoạn ấu trùng thấy rất rõ ngấn lột xác hình chữ Y ngược. Mỗi khi ấu trùng lột xác thì ngấn này tách ra để cơ thể côn trùng tách khỏi lớp da cũ. Ở giai đoạn trưởng thành không nhìn thấy ngấn này. Căn cứ vào vị trí của miệng trên đầu, chia ra 3 kiểu đầu:  Đầu miệng trước: có miệng hướng về phía trước đầu, trục dọc của đầu song song với trục dọc cơ thể. Kiểu đầu này thuận lợi cho những loài lao về phía trước tấn công con mồi (như bọ chân chạy Carabidae, bọ hổ trùng Cicindellidae) và đục khoét thực vật (như bọ đầu dài Curculionidae).  Đầu miệng dưới: có miệng ở phía dưới đầu, trục dọc của đầu gần thẳng góc với trục dọc cơ thể. Gặp phổ biến ở các loài ăn thực vật, theo kiểu vừa bò vừa gặm ăn (như châu chấu, dế mèn, dế dũi thuộc bộ cánh thẳng Orthoptera).
Tài liệu liên quan