Dự báo là một khoa học học hết sức rộng lớn. Trong tài chính doanh nghiệp, dự báo là quá trình xem xét quá khứ, nhìn nhận hiện tại và dự đoán tình hình tài chính của doanh nghiệp ở tương lai đặt trong viễn cảnh nhất định. Dự báo đưa ra các chỉ báo quan trọng giúp cho các nhà quản lý doanh nghiệp tiếp tục hoạch định và đề ra giải pháp tài chính, giúp cho các nhà quản lý chủ động hơn đối phó với những biến động xảy ra nhằm thực hiện mục tiêu của doanh nghiệp.
Việc dự báo tài chính tập trung vào dự báo Bảng cân đối kế toán, Bảng báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh và dự báo nhu cầu vốn bằng tiền. Bởi lẽ, các tài liệu này thể hiện mục tiêu tài chính của doanh nghiệp cần đạt tới trong tương lai. Dự báo tài chính được bắt đầu bằng dự báo doanh thu. Sở dĩ như vậy, vì doanh thu liên quan trực tiếp và gián tiếp đến hầu hết các biến số tài chính khác.
12 trang |
Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 7797 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài giảng Dự báo các báo cáo tài chính doanh nghiệp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG IX
DỰ BÁO CÁC BÁO CÁO TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
I. Dự báo trong quản lý tài chính của doanh nghiệp
Dự báo là một khoa học học hết sức rộng lớn. Trong tài chính doanh nghiệp, dự báo là quá trình xem xét quá khứ, nhìn nhận hiện tại và dự đoán tình hình tài chính của doanh nghiệp ở tương lai đặt trong viễn cảnh nhất định. Dự báo đưa ra các chỉ báo quan trọng giúp cho các nhà quản lý doanh nghiệp tiếp tục hoạch định và đề ra giải pháp tài chính, giúp cho các nhà quản lý chủ động hơn đối phó với những biến động xảy ra nhằm thực hiện mục tiêu của doanh nghiệp.
Việc dự báo tài chính tập trung vào dự báo Bảng cân đối kế toán, Bảng báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh và dự báo nhu cầu vốn bằng tiền. Bởi lẽ, các tài liệu này thể hiện mục tiêu tài chính của doanh nghiệp cần đạt tới trong tương lai. Dự báo tài chính được bắt đầu bằng dự báo doanh thu. Sở dĩ như vậy, vì doanh thu liên quan trực tiếp và gián tiếp đến hầu hết các biến số tài chính khác.
Khi xem xét dự báo cũng cần thấy rằng khó có thể hy vọng đạt được việc dự báo hoàn toàn chính xác. Vấn đề quan trọng đặt ra là cần cố gắng đạt được dự báo một cách tốt nhất trong điều kiện có thể được. Cũng cần tránh tình trạng tầm thường hóa việc dự báo, thực hiện dự báo một cách máy móc. Trong việc thực hiện dự báo đòi hỏi phải có tầm nhìn chiến lược, sự phân tích và phán đoán một cách sắc xảo trên những cơ sở chắc chắn và tuân theo những quy luật kinh tế để đưa ra kịch bản với các tình huống khác nhau có thể xảy ra và các biện pháp ứng phó. Điều này sẽ làm cho việc dự báo trở nên linh hoạt hơn, sát thực hơn và chủ động hơn.
II. Dự báo doanh thu
1. Tầm quan trọng của dự báo doanh thu
Dự báo doanh thu là vấn đề cực kỳ quan trọng, bởi lẽ doanh thu là điểm khởi đầu và chi phối hầu hết các vấn đề tài chính và các hoạt động khác của doanh nghiệp. Chính vì vậy, việc dự báo doanh thu một cách đúng đắn có tầm quan trọng rất lớn. Nếu dự báo doanh thu quá sai lệch sẽ dẫn tới những hậu quả nghiêm trọng. Nếu thị trường mở rộng hơn nhiều so với dự báo thì công ty không có khả năng đáp ứng kịp thời nhu cầu hàng hóa dịch vụ cho khách hàng. Khi đó, khách hàng sẽ mua hàng hóa của đối thủ cạnh tranh, điều đó dẫn tới thị phần của doanh nghiệp bị thu hẹp và không dễ dàng gì doanh nghiệp có thể khôi phục thị phần đã mất. Ngược lại, nếu việc dự báo doanh thu quá lạc quan, doanh nghiệp có thể mở rộng quy mô kinh doanh quá mức, từ đó đầu tư quá nhiều vào nhà xưởng, máy móc thiết bị và hàng tồn kho. Điều tất yếu sẽ dẫn đến vòng quay vốn thấp, chi phí khấu hao và chi phí hàng tồn kho sẽ lớn (hàng tồn kho ứ đọng). Tất cả những điều đó cũng làm cho nợ của công ty tăng lên do phải tài trợ cho việc mở rộng quy mô quá mức và đưa đến doanh nghiệp phải trả khoản lãi tiền vay khá lớn.
2. Những yếu tố cần xem xét trong việc dự báo doanh thu
Dự báo doanh thu là vấn đề phức tạp. Người ta có thể sử dụng nhiều kỹ thuật tính toán để dự báo doanh thu. Tuy nhiên, vấn đề phức tạp không phải ở chỗ kỹ thuật tính toán, đặc biệt trong điều kiện hiện nay với sự trợ giúp của máy vi tính. Sự phức tạp là do doanh thu chịu sự tác động của hàng loạt các yếu tố. Đây là vấn đề hoàn toàn không đơn giản đòi hỏi sự phối hợp giữa các bộ phận, các phòng ban trong doanh nghiệp. Các yếu tố đó là:
+ Triển vọng của nền kinh tế: Mức độ hoạt động của nền kinh tế sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của doanh nghiệp. Đây là yếu tố ở tầm vĩ mô, nó tác động mạnh mẽ đến các yếu tố đầu vào và yếu tố đầu ra của doanh nghiệp.
+ Thị phần và khả năng cạnh tranh: Cần phân tích đánh giá thị phần hiện tại và dự kiến thị phần trong tương lai của doanh nghiệp đó cần phải tính đến khả năng của các đối thủ cạnh tranh ở hiện tại cũng như các đối thủ tiềm năng trong tương lai, đồng thời phải tính đến năng lực sản xuất, mạng lưới phân phối của doanh nghiệp. Một yếu tố quan trọng cũng cần phải được tính đến là khả năng tạo ra sản phẩm mới của doanh nghiệp trong quá trình cạnh tranh.
+ Chính sách giá cả: Doanh nghiệp cần phải cân nhắc chiến lược giá trong tương lai để đạt được các mục tiêu kinh doanh đề ra. Đây là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến doanh thu trong tương lai của doanh nghiệp. Đối với những doanh nghiệp xuất khẩu thì còn phải tính đến tác động của tỷ giá hối đoái, chính sách liên quan đến xuất khẩu của chính phủ….
+ Chính sách Marketing và chính sách tín dụng thương mại với khách hàng: Cần cân nhắc khả năng xúc tiến thương mại, quảng cáo và mở rộng mạng lưới phân phối cũng như các yếu tố của chính sách tín dụng thương mại với khách hàng như việc chiết khấu thương mại, chiết khấu thanh toán và các điều kiện tín dụng khác đối với khách hàng…Các yếu tố này có ảnh hưởng không nhỏ đến doanh thu của doanh nghiệp trong tương lai.
+ Yếu tố lạm phát: Cần phải xem xét tác động của lạm phát đến giá cả đặc biệt là giá cả của yếu tố đầu ra cũng như sức mua của dân chúng trong việc duy trì và mở rộng thị phần.
3. Cách thức dự báo doanh thu
Việc dự báo doanh thu cần bắt đầu từ việc xem xét đánh giá tình hình thực hiện doanh thu của doanh nghiệp trong thời kỳ trước đó, thông thường việc xem xét doanh thu trong khoảng từ 5 - 10 năm trước đó. Cần phải phân tích đánh giá mức độ tăng giảm doanh thu và nguyên nhân dẫn đến sự tăng giảm doanh thu từ đó xác định tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của doanh thu.
Để dự báo doanh thu cho một năm nào đó trong tương lai cần xem xét các yếu tố ảnh hưởng đến doanh thu như đã nêu trên. Có thể xem xét một ví dụ sau:
Công ty X sản xuất café, có số liệu về doanh thu 5 năm gần đây như sau:
Đơn vị tính: Triệu đồng
Năm
Doanh thu
N1
2.058
N2
2.534
N3
2.472
N4
2.850
N5
3.000
N6 (Năm dự báo)
Công ty dự tính mức tăng trưởng doanh thu trong năm tới là 10%. Yêu cầu tính doanh thu năm dự báo.
III. Dự báo báo cáo kết quả kinh doanh và bảng cân đối kế toán theo phương pháp tỷ lệ phần trăm trên doanh thu
Bảng báo cáo kết quả kinh doanh dự kiến và bảng cân đối tài sản dự kiến được xem như mục tiêu tài chính mà hoạt động tài chính và các hoạt động khác của doanh nghiệp hướng tới nhằm đạt được tình hình tài chính như dự kiến. Phương pháp dự báo Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh và bảng cân đối tài sản thường được áp dụng là phương pháp dự báo theo tỷ lệ doanh thu. Dưới đây là nội dung chủ yếu của việc dự báo này.
1. Dự báo Báo cáo kết quả kinh doanh
Mục tiêu chủ yếu của dự báo Báo cáo kết quả kinh doanh là xác định lợi nhuận sau thuế mà công ty có khả năng đạt được, trên cơ sở đó dự báo cổ tức mỗi cổ phần và lợi nhuận giữ lại tái đầu tư. Việc thực hiện dự báo có thể thực hiện theo các bước sau đây:
Bước 1: Dự báo doanh thu. Nội dung bước này như đã nêu ở phần trên.
Bước 2: Dự kiến sơ bộ kết quả kinh doanh.
Xác định các hệ số tài chính liên quan đến kết quả kinh doanh và phân phối lợi nhuận của công ty như tỷ lệ các chi phí trên doanh thu, lãi suất tiền vay, hệ số trả cổ tức.
Bước 3: Đánh giá việc dự báo, điều chỉnh và xác định kết quả dự báo cuối cùng.
Thí dụ: tiếp tục xem xét công ty X ở trên:
- Dự kiến tốc độ gia tăng các khoản chi phí cùng với tốc độ tăng trưởng doanh thu.
- Lợi tức cổ phần năm trước là 1,15 USD/cổ phần. Theo kế hoạch cổ tức năm N6 là 1,25 USD/cổ phần. Tổng số cổ phần đang lưu hành của công ty là 50 triệu cổ phần.
Đơn vị tính: triệu USD
STT
Chỉ tiêu
Năm báo cáo (N5)
Tỷ lệ dự báo (%)
Năm dự báo
Dự kiến lần I
Các điều chỉnh
Dự kiến lần II
Dự kiến lần cuối
1
Doanh thu
3.000
110
3.300
0
3.300
3.300
2
Tổng chi phí được khấu trừ
2.616
110
2.877,6
0
2.877,6
2.877,6
3
Chi phí khấu hao
100
110
110
0
110
110
4
Tổng chi phí sản xuất kinh doanh
2.716
2.987,6
0
2.987,6
2.987,6
5
EBIT
284
312,4
0
312,4
312,4
6
Lãi vay (I)
80
88
5
93
93
7
Lợi nhuận trước thuế (EBT)
204
224,4
0
219,4
219,4
8
Thuế thu nhập (25%)
51
56,1
54,85
54,85
9
Lợi nhuận sau thuế trước cổ tức ưu đãi
153
168,3
164,55
164,55
10
Cổ tức ưu đãi
4
4
4
4
11
Lợi nhuận sau thuế dành cho cổ đông phổ thông
151
164,3
160,55
160,55
12
Cổ tức cho cổ đông phổ thông
62,5
62,5
3
65,5
65,5
13
Lợi nhuận để lại
88,5
101,8
-7
94,8
94,8
2. Dự báo bảng cân đối kế toán
Bước 1: Dự báo sơ bộ ban đầu
Phương pháp dự báo Bảng cân đối kế toán theo tỷ lệ phần trăm trên doanh thu dựa trên cơ sở nguyên lý mối liên hệ giữa doanh thu và tài sản: Để tăng doanh thu đòi hỏi phải gia tăng tài sản tương ứng tạo ra nền tảng cho việc tăng doanh thu. Tăng tài sản tất yếu phải tăng nguồn vốn để tài trợ cho số tài sản tăng thêm. Tuy nhiên, cần phải thấy rõ khi doanh nghiệp chưa khai thác tối đa công suất năng lực sản xuất hiện có thì tài sản cố định sẽ không nhất thiết phải thay đổi tương ứng với doanh thu. Khi có sự biến động về doanh thu thì thông thường lập tức kéo theo sự biến động vốn bằng tiền, các khoản phải thu và hàng tồn kho.
Khi doanh thu tăng lên thì doanh nghiệp sẽ phải mua thêm nhiều nguyên vật liệu và những khoản mua số lượng lớn này sẽ dẫn đến làm tăng các khoản phải trả nhà cung cấp. Tương tự như vậy, mức độ hoạt động kinh doanh càng lớn thì nhìn chung càng đòi hỏi tăng thêm nhân công, trong khi đó doanh thu càng cao thì thuế thu nhập phải nộp càng lớn. Vì vậy, các khoản lương phải trả, các khoản thuế phải nộp cũng sẽ càng tăng thêm. Nhìn chung, các khoản nợ phải trả sẽ tăng cùng với tỷ lệ tăng của doanh thu.
Lợi nhuận để lại sẽ tăng nhưng không cùng với tỷ lệ tăng như doanh thu: Mỗi mức mới của lợi nhuận để lại sẽ được trở thành mức cũ cộng với mức tăng thêm của lợi nhuận để lại, và mức mới lợi nhuận để lại đó phải được tính toán thông qua báo cáo kết quả kinh doanh. Các giấy tờ có khả năng thanh toán, các trái phiếu dài hạn, cổ phiếu ưu đãi, cô phiếu thường sẽ không tự động tăng theo doanh thu, dự báo các mức độ của những tài khoản sẽ phụ thuộc vào các quyết định tài chính được thực hiện sau đó.
Tóm lại, khi tăng doanh thu cao hơn thì đòi hỏi phải có được bởi một lượng tài sản lớn hơn. Khi tài sản tăng thêm thì trước hết được tài trợ bằng các khoản nợ phải trả có tính chất chu kỳ và từ lợi nhuận để lại để tái đầu tư. Nếu vẫn chưa đủ thì số vốn thiếu hụt sẽ được tài trợ bằng nguồn vốn bên ngoài bằng cách vay vốn hoặc phát hành thêm cổ phiếu.
Bảng sau đây vừa bao gồm bảng cân đối kế toán thực tế năm báo cáo và dự báo cho năm tới. Bảng cân đối kế toán dự báo năm sau cũng được lập tương tự như bảng dự báo kết quả kinh doanh. Trước tiên, là những khoản dự báo là tăng cùng với tốc độ tăng doanh thu sẽ được nhân với tỷ lệ 110% để ra số liệu năm dự báo. Như vậy, tiền mặt sẽ được dự báo là tăng 10% và bằng 11 triệu USD, nợ phải thu dự báo sẽ là 375x110% = 412 triệu USD. Trong ví dụ này, tất cả tài sản tăng lên cùng với tốc độ tăng của doanh thu. Cụ thể là tổng tài sản lưu động năm dự báo (N6) sẽ là: 11 triệu + 412 triệu + 667 triệu = 1.100 triệu USD.
Tiếp đến, khoản nợ phải trả có tính chất chu kỳ được dự báo tăng lên cùng với tốc độ tăng trưởng của doanh thu. Các khoản thương phiếu, trái phiếu dài hạn và cổ phiếu ưu đãi, cổ phiếu thường là tùy thuộc vào quyết định của nhà quản trị. Đối với công ty X, các khoản này theo như dự báo ban đầu là là duy trì ở mức như năm báo cáo. Như vậy, năm dự báo (N6) khoản thương phiếu dự báo là 110 triệu USD, trái phiếu dài hạn dự báo ở mức 754 triệu USD…Số lợi nhuận giữ lại của năm dự báo N6 từ lợi nhuận sau thuế là 68 triệu. Như vậy tổng số lợi nhuận giữ lại tính đến thời điểm cuối năm dự báo bao gồm: số lợi nhuận giữ lại năm báo cáo chuyển sang và số lợi nhuận giữ lại ở năm dự báo.
Tổng lợi nhuận giữ lại năm dự báo = 766 triệu + 68 triệu = 834 triệu USD.
Bảng cân đối kế toán ngày 31/12/N6
Đơn vị tính: Triệu USD
chỉ tiêu
Năm báo cáo (Năm N5)
Tỷ lệ dự báo (%)
Dự kiến lần 1
Năm dự báo (N6)
Nhu cầu vốn tăng thêm
Dự kiến lần 2
Dự kiến lần cuối
Tiền mặt
10
110
11
11
11
Nợ phải thu
375
110
412
412
412
Hàng tồn kho
615
110
677
677
677
Tổng tài sản lưu động
1000
110
1100
1100
1100
Tổng tài sản cố định
1000
110
1100
1100
1100
Tổng tài sản
2000
2200
2200
2200
Nợ phải trả
60
110
66
66
66
Thương phiếu
110
110
28
138
140
Nợ phải trả khác
140
110
154
154
154
Tổng nợ phải trả
310
330
358
360
Trái phiếu dài hạn
754
754
28
782
784
Tổng số nợ
1064
1084
1140
1144
Cổ phiếu ưu đãi
40
40
40
40
Cổ phiếu thường
130
130
56
186
189
Lợi nhuận giữ lại
766
834
827
827
Tổng số vốn chủ sở hữu
896
961
1013
1016
Tổng số nợ và vốn chủ sở hữu
2000
2088
112
2193
2200
Tổng nhu cầu vốn cần bổ sung
112
7
0
Như vậy, tổng tài sản dự báo sơ bộ là 2.200 triệu USD. Trong đó, số tài sản mới cần phải tăng thêm 200 triệu USD để đảm bảo đạt được mức doanh thu tăng thêm như dự kiến. Tuy nhiên, nợ và vốn chủ sở hữu tính toán dự báo mới chỉ có 2.088 triệu USD. Do vây, để đảm bảo sự cân bằng, số vốn mới cần tài trợ thêm: 2.200 - 2.088 = 112 triệu USD. Số vốn này sẽ được tài trợ bằng cách tăng thêm khoản vay mới hay phát hành thêm cổ phần mới…Là tùy theo sự lựa chọn và quyết định của nhà quản lý công ty.
Bước 2: Dự kiến tạo lập nguồn tài trợ bổ sung
Khi xuất hiện dấu hiệu nhu cầu vốn tăng thêm, để đi đến quyết định tài trợ, nhà quản lý tài chính cần xem xét một số yếu tố: các khoản vay ngắn hạn đến hệ số thanh toán hiện thời, tình hình các khoản nợ hiện hành. Trên cơ sở đó, nhà quản trị tài chính sau khi đã cân nhắc toàn bộ các yếu tố sẽ quyết định cách thức huy động nguồn tài trợ đáp ứng nhu cầu vốn tăng thêm.
Đối với công ty X, để đáp ứng nhu cầu vốn tăng thêm là 112 triệu USD, giả sử nhà quản lý đã phối hợp các nguồn tài trợ như sau:
Đơn vị tính: Triệu USD
Các nguồn tài trợ
Tổng số nguồn vốn mới
Tỷ lệ %
Số tiền
Lãi suất (%)
Thương phiếu
25
28
8
Trái phiếu
25
28
10
Cổ phiếu thường
50
56
-
Tổng cộng
100
112
Như vậy, dự báo: Giá trị tài trợ bằng thương phiếu: 110 + 28 = 138 triệu USD.
Trái phiếu dài hạn: 754 + 28 = 782 triệu USD
Cổ phiếu thường: 130 + 56 = 186 triệu USD
Bước 3: Điều chỉnh nguồn tài trợ
Khi sử dụng nguồn tài trợ bên ngoài để đáp ứng nhu cầu vốn cho việc tăng thêm tài sản mới thì cũng đòi hỏi phải tăng thêm chi phí. Do vậy, những chi phí này cần phải được phản ánh vào Bảng báo cáo kết quả kinh doanh và điều đó sẽ dẫn đến phải giảm bớt số lợi nhuận giữ lại theo dự báo ban đầu. Mặt khác, khi sử dụng nguồn tài trợ bên ngoài cũng đòi hỏi phải tăng thêm lãi tiền vay phải trả và tăng thêm số cổ tức dành trả cho số cổ phần mới phát hành so với dự báo ban đầu.
Chi phí cho khoản cho vay ngắn hạn mới là 8% với số vốn vay là 28 triệu sẽ làm tăng thêm chi phí lãi tiền vay phải trả cho năm dự báo là 28 triệu x 8% = 2,24 triệu USD. Với việc phát hành trái phiếu mới thì khoản lợi tức trái phiếu phải trả tăng thêm là 28 triệu x 10% = 2,8 triệu USD. Như vậy, tổng số tiền lãi phải trả tăng thêm từ việc gia tăng số vốn vay là 2,24 triệu + 2,8 triệu = 5,04 triệu USD và khoản chi phí này sẽ được thể hiện bằng việc điều chỉnh ở bảng dự báo báo cáo kết quả kinh doanh.
Với kế hoạch tài trợ huy động thêm 56 triệu USD bằng việc phát hành cổ phiếu thường mới, trong khi đó giá cổ phiếu ở cuối năm báo cáo là 23 USD/cổ phần và giả sử rằng giá phát hành 1 cổ phiếu mới cũng là 23 USD, vậy số cổ phiếu mới cần phát hành là 56/23 = 2,4 triệu cổ phần. Nếu vẫn giữ nguyên dự kiến mức trả cổ tức trong năm dự báo là 1,25 USD/cổ phần và với 2,4 triệu cổ phần phát hành mới thì số tiền tăng thêm để trả cổ tức là 2,4x1,25 = 3 triệu USD. Như vậy, tổng số tiền trả cổ tức sẽ là 63+3 = 66 triệu USD. Số tiền này cần được phản ánh điều chỉnh ở dự báo lần hai.
Ảnh hưởng của việc điều chỉnh tài trợ đến bảng báo cáo kết quả kinh doanh dẫn đến phải tiếp tục giảm số lợi nhuận để lại là 68 - 61 = 7 triệu USD. Thêm vào đó, việc giảm lợi nhuận để lại làm số dự báo về lợi nhuận để lại trong bảng cân đối dự báo cũng phải giảm đi và được thể hiện ở việc điều chỉnh trong dự báo lần hai là 766+61 = 827 triệu USD, như vậy là thấp hơn 7 triệu USD so với dự báo ban đầu. Hơn nữa, sự thiếu hụt 7 triệu USD sẽ vẫn tồn tại như là kết quả trực tiếp của ảnh hưởng từ việc điều chỉnh tài trợ - số tiền lãi phải trả và số cổ tức phải trả tăng thêm làm giảm lợi nhuận để lại là 7 triệu USD theo dự báo ban đầu. Vì thế khoản thiếu hụt đó vẫn tồn tại.
Trong dự báo lần hai, cần phải tiếp tục giải quyết việc tài trợ cho số vốn thiếu hụt nêu trên. Các nhà quản lý công ty đã quyết định 25% được tài trợ bằng khoản nợ ngắn hạn, 25% được tài trợ bằng trái phiếu, còn lại 50% được tài trợ bằng phát hành thêm cổ phiếu mới.
Như vậy, cần phải lập bảng cân đối tài sản dự báo lần 3 với việc sử dụng kết hợp tài trợ nợ và vốn chủ sở hữu cho nhu cầu vốn bổ sung 7 triệu USD.
Bước 4: Phân tích dự báo
Sau khi hoàn thành được bản dự thảo các báo cáo tài chính, cần tiến hành phân tích đánh giá các chỉ số tài chính quan trọng nhằm xem xét việc dự báo có đáp ứng được các mục tiêu tài chính đã đề ra hay không. Nếu chưa thật phù hợp thì cần phải thay đổi một số yếu tố của bản dự báo để điều chỉnh sao cho đạt được các mục tiêu đã đề ra một cách phù hợp.
Tiếp tục xem xét công ty X
Biểu: Nhu cầu vốn cần bổ sung và các hệ số tài chính chủ yếu
Chỉ tiêu
Năm N5
Dự báo năm N6
Hệ số trung bình của ngành
Điều chỉnh dự báo năm N6
Nhu cầu vốn tăng bổ sung (Tr.USD)
(64)
Hệ số tài sản lưu động
4,2
Vòng quay hàng tồn kho (vòng)
9
Kỳ thu tiền bình quân (ngày)
36
Vòng quay tài sản (vòng)
1,8
Hệ số nợ
40%
Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên doanh thu
5%
Tỷ suất sinh lời kinh tế của tài sản (ROAE)
9%
Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu (ROE)
15%
Các hệ số tài chính được tính toán lại sau khi điều chỉnh nguồn tài trợ
Người quản lý công ty X lập kế hoạch theo 3 bước nhằm cải thiện tình hình tài chính:
+ Nhà quản lý dự kiến giảm bớt một số lượng lao động và hạn chế một số hoạt động nhằm giảm chi phí (chưa kể khấu hao TSCĐ) từ 87,5% xuống 86%.
+ Xem xét kỹ hơn việc cung cấp tín dụng thương mại cho khách hàng từ đó có thể rút ngắn kỳ thu tiền từ 45 ngày xuống 42,5 ngày.
+ Các nhà quản lý cũng cần phải tăng vòng quay của hàng tồn kho từ 4,9 vòng lên 6 vòng.
Với những đề nghị đó, cần phải xem xét lại bảng dự báo về báo cáo tài chính năm N6. Trong đó cần chú ý:
Do giảm chi phí từ 87,5% xuống 86% so với doanh thu đã đưa lại tỷ suất sinh lời được cải thiện từ 3,8% lên 4,8%.
+ Việc tăng lợi nhuận sau thuế đã dẫn đến tăng lợi nhuận giữ lại. Thêm vào đó, do thắt chặt việc kiểm tra hàng tồn kho đã rút ngắn được kỳ thu tiền trung bình từ đó giảm bớt được hàng tồn kho và nợ phải thu. Đồng thời, nó cũng đưa đến giảm bớt nhu cầu vốn cần bổ sung là 64 triệu. Điều đó có nghĩa là công ty đã tạo ra thêm 64 triệu từ chính hoạt động bên trong, số này lớn hơn số tiền cần thiết chi dùng cho tài sản mới. Vì vậy yêu cầu về số vốn bằng tiền sẽ thay đổi từ 112 triệu sang - 64 triệu. Số 64 triệu dôi ra có thể sử dụng để giảm bớt nợ ngắn hạn và điều đó nó đã dẫn đến làm giảm bớt hệ số nợ dự báo từ 53,8% xuống mức 51,6%. Hệ số nợ này vẫn cao hơn so với mức trung bình của ngành.
+ Sự thay đổi của các chỉ số trên cũng ảnh hưởng đến hệ số thanh toán hiện thời. Hệ số này cũng được cải thiện từ 3,1 lên 3,6.
+ Tất cả những tác động trên cũng đã đưa đến cải thiện tỷ suất sinh lời kinh tế của tài sản với dự báo ban đầu từ 5,8% lên 7,7% và điều đó cũng dẫn đến làm tăng tỷ suất sinh lời vốn chủ sở hữu từ 12,5% lên 15,9% cao hơn so với mức trung bình của ngành.
Dự báo là quá trình diễn ra thường xuyên. Cả hai cách dự báo và kế hoạch tài chính đều đề cập đến các báo cáo tài chính. Để đạt được mục đích của kế hoạch hóa, những vấn đề tài chính cốt lõi của công ty được phát triển từ dự báo ban đầu dựa trên cơ sở tiếp tục các chủ trương chính sách của công ty ở các thời kỳ đã qua. Như vậy, việc dự báo tạo ra điểm xuất phát hoặc có thể trở thành một mớ giấy vô nghĩa. Tiếp theo, mô hình dự báo sẽ được thay thế bằng những biến số khác nhau, từ đó xem xét ảnh hưởng của nó đến kế hoạch hoạt động đã lựa chọn cũng như tình hình tài chính của công ty như thế nào. Kết quả này sẽ được xem xét điều chỉnh một cách hợp lý hơn.
IV. Dự báo vốn bằng tiền
1. Tầm quan trọng của dự báo vốn bằng tiền
- Tiền là loại tài sản c