1.1. Khái niệm
 Graphene có nguồn gốc từ graphite (than chì), nó được tách ra từ graphite.
Graphene là một mạng tinh thể lục giác hình tổ ong có kích thước nguyên tử tạo
thành từ các nguyên tử carbon 6 cạnh. Nói cách khác, nó là một dạng thù hình của
carbon với cấu trúc phẳng 2D.
 Dưới kính hiển vi điện tử, graphene có hình dáng của một màng lưới có bề
dày bằng bề dày của một nguyên tử carbon.
 Nếu xếp chồng lên nhau phải cần tới 200.000 lớp mới bằng độ dày một sợi
tóc.
 Có thể xem graphene như thành phần cơ bản tạo nên các cấu trúc khác nhau
của carbon như fullerene, carbon nanotube, graphite.
 Graphene được hình dung như là một ống nano dàn mỏng, do cùng một
nguyên liệu chính là các phân tử carbon.
 Trong phòng thí nghiệm có thể tạo ra các phiến graphene có đường kính 25
µm và dày chỉ 1nm.
1.2. Lịch sử
Loại vật liệu nano đầu tiên được khám phá từ carbon là Fullerene được tìm
ra vào năm 1985 do một nhóm nghiên cứu bao gồm Harold Kroto và Scan
O’Brien, Robert Curl, Richard Smalley.
Fullerene có dạng quả bóng chỉ gồm các nguyên tử carbon liên kết với nhau
bằng liên kết cộng hóa trị. Ban đầu người ta tìm ra mỗi hạt là một phân tử lớn
carbon cấu tạo từ 60 nguyên tử carbon C60. Sau đó người ta tìm ra phân tử như
vậy nhưng nhiều phân tử carbon hơn C70, C80.Giải Nobel về hóa học 1996 được trao cho hai nhà khoa học đã tìm ra
Fullerene là Smalley và Kroto.
Rồi từ quả bóng tròn, năm 1991 người ta tìm cách “cuộn” những phân tử
carbon này thành hình ống gọi là “nanotube”, tức ống nano carbon.
Tiến sĩ Sumio Iijima phát hiện Carbon nanotube trong muội than của điện
cực âm trong quá trình phóng điện hồ quang.
Bắt đầu thập niên 1970, các nhà khoa học đã phát triển lớp graphene trong
phòng thí nghiệm.
Từ năm 2004, các nhà nghiên cứu ở Anh dẫn đầu là Andre Gein đã tìm ra
một cách đơn giản để bóc những lớp đơn nguyên tử của các nguyên tử carbon
khỏi các khoanh graphite.
Năm 2010, Andre Gein và Konstantin nhận giải Nobel vật lý.
Hiện nay, graphene là chủ đề nghiên cứu nóng bỏng của ngành điện tử và
bán dẫn bởi nó có tính dẫn điện cao, và hơn hết như phỏng đoán thì với kích thước
càng nhỏ, hiệu quả của nó càng cao.
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                
23 trang | 
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 948 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài giảng Graphen & graphen oxit, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI 
 TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN 
 KHOA HÓA HỌC 
 ----------------------- 
Graphen & graphen oxit 
ĐỖ DANH QUANG 
Ngành Hóa Học 
Chương trình đào tạo chuẩn 
Hà Nội – 2019 
MỤC LỤC 
I. Graphene ....................................................................................................................................4 
1.1. Khái niệm ......................................................................................................... 4 
1.2. Lịch sử .............................................................................................................. 4 
1.3. Cấu trúc ............................................................................................................ 5 
1.4. Phân loại .......................................................................................................... 6 
1.4.1. Graphene đơn lớp ........................................................................................ 6 
1.4.2. Graphen kép ................................................................................................ 7 
1.4.3. Graphene mọc ghép đa lớp (MEG) ............................................................. 7 
1.5. Tính chất .......................................................................................................... 8 
 Tính chất vật lý ........................................................................................... 8 
 Graphene dễ chế tạo và dễ thay đồi hình dạng ........................................... 8 
 Graphene hoàn toàn không để cho không khí lọt qua ................................ 9 
 Graphene cứng hơn cả kìm cương .............................................................. 9 
 Độ bền của Graphene .................................................................................. 9 
 Graphene có tính dẫn điện và nhiệt tốt ..................................................... 10 
 Graphene là vật liệu mỏng nhất trong tất cả các vật liệu .......................... 10 
1.6. Các phương pháp chế tạo Graphene ............................................................ 10 
1.6.1. Phương pháp chemical exfoliation ........................................................... 10 
1.6.2. Phương pháp micromechanical cleavage .................................................. 11 
1.6.3. Phương pháp băng keo Scotch .................................................................. 11 
1.6.4. Ma sát các cột graphite lên bề mặt silicon xốp ......................................... 11 
1.6.5. Cho các phân tử hydrocacbon đi qua bề mặt iridi .................................... 12 
1.6.6. Phương pháp tổng hợp graphene trên diện tích lớn .................................. 12 
1.6.7. Kết hợp siêu âm tách lớp và ly tâm........................................................... 12 
1.6.8. Phương pháp bóc tách ............................................................................... 13 
1.6.9. Gắn kết dương cục trên nền thủy tinh ....................................................... 13 
1.6.10.Chế tạo graphene trong một lóe sáng đèn flash ....................................... 13 
1.7. Ứng dụng........................................................................................................ 14 
 Màn hình cảm ứng .................................................................................... 14 
 Dây dẫn và điện cực trong suốt: ............................................................... 15 
 Chíp máy tính ............................................................................................ 15 
 Pin 16 
 Cảm biến camera ....................................................................................... 16 
 FET graphene ............................................................................................ 16 
 Làm đế cho các mẫu nghiên cứu trong kính hiển vì điện tứ truyền qua 
(TEM) .................................................................................................................. 17 
1.8. Ưu điểm và nhược điểm của chất bán dẫn graphene .................................. 18 
1.8.1. Ưu điểm ..................................................................................................... 18 
1.8.2. Nhược điểm ............................................................................................... 18 
II. Graphene oxit ......................................................................................................................... 19 
2.1. Giới thiệu Graphen oxit ................................................................................. 19 
2.2. Tổng hợp graphen oxit .................................................................................. 20 
2.2.1. Phương pháp brodie .................................................................................. 20 
2.2.2. Phương pháp staudenmeier ....................................................................... 20 
2.2.3. Phương pháp hummers ............................................................................. 21 
2.2.4. Phương pháp tour ...................................................................................... 21 
2.3. Ứng dụng........................................................................................................ 22 
2.3.1. Màng lọc nước .......................................................................................... 22 
2.3.2. Xử lý môi trường ....................................................................................... 22 
III. Kết luận .................................................................................................................................... 23 
I. Graphene 
1.1. Khái niệm 
 Graphene có nguồn gốc từ graphite (than chì), nó được tách ra từ graphite. 
Graphene là một mạng tinh thể lục giác hình tổ ong có kích thước nguyên tử tạo 
thành từ các nguyên tử carbon 6 cạnh. Nói cách khác, nó là một dạng thù hình của 
carbon với cấu trúc phẳng 2D. 
 Dưới kính hiển vi điện tử, graphene có hình dáng của một màng lưới có bề 
dày bằng bề dày của một nguyên tử carbon. 
 Nếu xếp chồng lên nhau phải cần tới 200.000 lớp mới bằng độ dày một sợi 
tóc. 
 Có thể xem graphene như thành phần cơ bản tạo nên các cấu trúc khác nhau 
của carbon như fullerene, carbon nanotube, graphite. 
 Graphene được hình dung như là một ống nano dàn mỏng, do cùng một 
nguyên liệu chính là các phân tử carbon. 
 Trong phòng thí nghiệm có thể tạo ra các phiến graphene có đường kính 25 
µm và dày chỉ 1nm. 
1.2. Lịch sử 
 Loại vật liệu nano đầu tiên được khám phá từ carbon là Fullerene được tìm 
ra vào năm 1985 do một nhóm nghiên cứu bao gồm Harold Kroto và Scan 
O’Brien, Robert Curl, Richard Smalley. 
 Fullerene có dạng quả bóng chỉ gồm các nguyên tử carbon liên kết với nhau 
bằng liên kết cộng hóa trị. Ban đầu người ta tìm ra mỗi hạt là một phân tử lớn 
carbon cấu tạo từ 60 nguyên tử carbon C60. Sau đó người ta tìm ra phân tử như 
vậy nhưng nhiều phân tử carbon hơn C70, C80. 
 Giải Nobel về hóa học 1996 được trao cho hai nhà khoa học đã tìm ra 
Fullerene là Smalley và Kroto. 
 Rồi từ quả bóng tròn, năm 1991 người ta tìm cách “cuộn” những phân tử 
carbon này thành hình ống gọi là “nanotube”, tức ống nano carbon. 
 Tiến sĩ Sumio Iijima phát hiện Carbon nanotube trong muội than của điện 
cực âm trong quá trình phóng điện hồ quang. 
 Bắt đầu thập niên 1970, các nhà khoa học đã phát triển lớp graphene trong 
phòng thí nghiệm. 
 Từ năm 2004, các nhà nghiên cứu ở Anh dẫn đầu là Andre Gein đã tìm ra 
một cách đơn giản để bóc những lớp đơn nguyên tử của các nguyên tử carbon 
khỏi các khoanh graphite. 
 Năm 2010, Andre Gein và Konstantin nhận giải Nobel vật lý. 
 Hiện nay, graphene là chủ đề nghiên cứu nóng bỏng của ngành điện tử và 
bán dẫn bởi nó có tính dẫn điện cao, và hơn hết như phỏng đoán thì với kích thước 
càng nhỏ, hiệu quả của nó càng cao. 
1.3. Cấu trúc 
Ông Nano cacbon Hình ảnh màng Graphene qua 
kính hiển vi điện tử 
• Graphene là dạng carbon hai chiều, có cấu trúc lục giác ( giống cấu trúc tổ 
ong) với mỗi nguyên tử C hình thành 3 liên kết σ với mỗi nguyên tử C lân cận gần 
nhất từ 3 điện tử hóa trị. Những liên kết cộng hóa trị carbon – carbon gần giống 
với liên kết trong kim cương làm cho graphene có những tính chất cơ và nhiệt 
giống như của kim cương. Electron hóa trị thứ tư không tham gia liên kết cộng 
hóa trị, nó ở trạng thái 2pz định hướng vuông góc với tấm graphene và hình thành 
vùng π dẫn. Những đặc tính điện đáng chú ý của carbon nanotubes là hệ quả trực 
tiếp của cấu trúc vùng đặc biệt của graphene- một chất bán dẫn có độ rộng vùng 
cấm bằng không. Graphite rắn đã được nghiên cứu trong nhiều thập niên (Kelly 
1981), nhưng cho đến những năm gần đây mới có những thí nghiệm trên graphene. 
Điều này là do những khó khăn trong việc tách biệt và cô lập các đơn lớp graphene 
để nghiên cứu. 
• Màng graphene được tạo thành từ các nguyên tử carbon sắp xếp theo cấu 
trúc lục giác trên cùng một mặt phẳng (còn được gọi là cấu trúc tổ ong) do sự lai 
hoá sp2. Trong đó, mỗi nguyên tử C liên kết với ba nguyên tử C gần nhất bằng 
liên kết tạo bởi sự xen phủ của các vân đạo lai s-p, tương ứng với trạng thái lai 
hoá sp2 . Khoảng cách giữa các nguyên tử C gần nhất là a = 0,142 nm. Khoảng 
cách giữa hai lớp graphene là 3- 4 Ȧ. Chiều dày mỗi tấm graphene là 0.35 – 1,0 
nm. Vân đạo 2pz định hướng vuông góc với tấm graphene không tham gia vào 
quá trình lai hóa mà sẽ xen phủ bên với nhau hình thành nên liên kết π, các liên 
kết này không định xứ nên hình thành vùng π dẫn và tạo nên các tính chất điện 
khác thường của graphene. 
1.4. Phân loại 
1.4.1. Graphene đơn lớp 
 Graphene đơn lớp là một dạng tinh thể hai chiều của carbon, có độ lưu động 
của electron phi thường và có các đặc điểm lạ kỳ duy nhất khiến cho nó là vật liệu 
hứa hẹn đối với lĩnh vực điện tử và quang lượng tử cỡ nano. Nhưng chúng có 
nhược điểm, đó là không có khe vùng, làm hạn chế việc sử dụng graphene trong 
lĩnh vực điện tử. Vì không có khe vùng nên màng đơn lớp graphene không được 
xem là chất bán dẫn. Nếu có khe vùng, các nhà khoa học có thể chế tạo ra các 
transistor hiệu ứng trường bằng graphene rất hiệu quả. 
 Lá graphene này chỉ dày 1 nguyên tử. Nó mang đặc tính của chất bán dẫn 
và kim loại. Sơ đồ cấu trúc vùng năng lượng của nó có độ rộng vùng cấm bằng 0. 
Đỉnh vùng hóa trị và đáy vùng dẫn trùng nhau. 
1.4.2. Graphen kép 
 Gồm 2 lá graphene đơn xếp chồng lên nhau có chiều dày bằng kích thước 
2 lớp nguyên tử. 
 Khi xếp 2 lớp graphene chồng lên nhau sẽ xảy ra hai trường hợp: 
 Đối xứng: các nguyên tử carbon ở hai màng đối xứng nhau qua mặt 
phẳng phân cách giữa hai lớp. 
 Không đối xứng: các nguyên tử carbon ở hai màng không đối xứng 
nhau qua mặt phẳng phân cách giữa hai lớp. 
 Lớp kép này là chất bán dẫn vùng cấm thẳng, khác với đơn lớp, lớp kép có 
khe vùng năng lượng. 
1.4.3. Graphene mọc ghép đa lớp (MEG) 
 Graphene mọc ghép đa lớp (MEG) gồm các lớp graphene xếp chồng lên 
nhau (lớn hơn 2 lớp) theo kiểu sao cho mỗi lớp độc lập về mặt điện tử học. 
Cấu trúc dải của một mẫu graphene mọc ghép đa lớp (ba lớp) 
Cấu trúc vùng năng lượng của 
Graphene đơn 
Hình ảnh hiến vi quang học của 
lớp Graphene đơn 
 Người ta nuôi các lớp graphene từ một chất nền silicon carbide theo kiểu 
sao cho mỗi lớp quay đi 30 độ so với lớp bên dưới. MEG này khác với graphite ở 
chỗ mỗi lớp quay đi 60 độ so với lớp bên dưới. 
1.5. Tính chất 
 Tính chất vật lý 
 Ưa dầu – kỵ nước 
Graphene có cấu trúc đơn lớp nguyên tử, có dạng tấm bao gồm các nguyên tử 
cacbon sp² liên kết với nhau tạo thành mạng lưới tổ ong 2D. Điều này quyết định 
nên tính chất của graphene là vật liệu kỵ nước – thân dầu. 
 Tỉ trọng thấp 
Ô đơn vị (lục giác) của graphene gồm mỗi cạnh là 2 nguyên tử sẽ có diện tích 
là 0.052nm² => Tỉ trọng của graphene là 0.77mg/m². Với tỉ trọng thấp, graphene 
nếu có cấu trúc xốp 3D sẽ là một trong những vật liệu nhẹ nhất giúp chúng dễ 
dàng nổi trên bề mặt chất lỏng. 
 Diện tích bề mặt 
Diện tích bề mặt graphen khoảng 2600 m²/g, cao hơn diện tích bề mặt của 
than hoạt tính và của ống nano cacbon, nên khả năng hấp phụ của graphen rất lớn. 
 Graphene dễ chế tạo và dễ thay đồi hình dạng 
Graphene có cấu trúc mềm dẻo nhu màng chất dẻo và có thể bẻ cong, gập 
hay cuộn lại. Nó có nhiều đặc tính của ống nano, nhung graphene dễ chế tạo và 
Graphene xếp tầng trên bề mặt một chất nền 
silicone carbide được chụp với kính hiển vi 
lực nguyên tử 
dễ thay đổi hơn ống nano; vì thế có thể đuợc sử dụng nhiều hơn trong việc chế tạo 
các vật dụng cần các chất liệu tinh vi, dẻo, dễ uốn nắn. Các nhà Vật Lý đã bắt đầu 
sử dụng graphene trong phòng thí nghiệm để chế tạo chất dẫn và để thủ nghiệm 
các hiện tượng lượng tử ở nhiệt độ bình thường. 
 Graphene hoàn toàn không để cho không khí lọt qua 
Lớp màng graphene ngăn cản đuợc cả nhũng phân tủ khí nhỏ nhất, không 
cho chứng lọt qua. Phiến màng đơn ở cấp độ phân tử này có thể kết hợp với những 
cấu trúc giả vi mô tạo thành lớp vảy cỡ nguyên tử dừng làm lớp màng che phủ 
thiết bị điện tử. Chỉ với một luợng rất nhỏ, graphene cũng có một khả năng bịt kín 
chặt các lỗ thấm lọc. Các nhà khoa học đã phát triển thành công khoang cầu mỏng 
nhất thế giới có lớp màng không cho bất kỳ phân tử nhỏ nhất nào của không khí 
lọt qua, kể cả hê-li. 
 Graphene cứng hơn cả kìm cương 
Graphene có cấu trúc bền vững ngay cả ở nhiệt độ bình thường. Độ cứng 
của graphene ‘lệch khỏi biểu đồ’ so với các họ chất liệu khác. Đây là nhờ các liên 
kết cacbon- cacbon trong graphene cũng như sự vắng mặt của bất cứ khiếm khuyết 
nào trong phần căng cao độ nhất của màng graphene. 
 Độ bền của Graphene 
Kết quả cho thấy Graphene bền hơn thép 200 lần. Một sợi dây thép dài 28km sẽ 
tự đứt nếu nó được treo theo phương thẳng đứng, trong khi một sợi dây graphene 
chỉ đứt trong điều kiện tương tự ở độ dài trên l.000km. Trong giới khoa học, hiện 
có người đang tính chuyện làm một chiếc “thang máy” bằng chất liệu graphene 
nối liền trái đất với vệ tinh. 
Ảnh minh họa vết lõm của một tẩm graphene đơn nguyên tử 
chụp qua đầu mút kim cương của kính hiển vì lực nguyên tử. 
 Graphene có tính dẫn điện và nhiệt tốt 
Ở dạng tinh khiết, graphene dẫn điện nhanh hơn bất cứ chất nào khác ở 
nhiệt độ bình thường. Graphene có thể truyền tải điện năng tốt hơn đồng gấp 1 
triệu lần. Hơn nữa, các electron đi qua graphene hầu như không gặp điện trở nên 
ít sinh nhiệt. Bản thân graphene cũng là chất dẫn nhiệt, cho phép nhiệt đi qua và 
phát tán rất nhanh. 
 Graphene là vật liệu mỏng nhất trong tất cả các vật liệu 
Graphene có bề dày chỉ bằng một phần triệu của loại giấy in báo thông thường 
và bằng 1/200000 sợi tóc. Theo Geim, mắt người không thể nhìn thấy màng 
graphene và chỉ có kính hiển vi điện tử tối tân nhất mới nhận ra độ dày này. Dưới 
kính hiển vi, mảnh graphite dày gấp 100 lần nguyên tử cacbon có màu vàng, 30- 
40 lớp màu xanh lơ, 10 lớp có màu hồng và graphene thì mang màu hồng rất nhạt, 
một màng Graphene trong suốt chỉ dày một nguyên tử. 
1.6. Các phương pháp chế tạo Graphene 
Có nhiều cách để chế tạo Graphene nhung rất khó khăn và chi phí cao. Các 
nhà khoa học đang nghiên cứu để tìm ra phuơng pháp chế tạo Graphene đơn giản, 
ít tốn kém, có thể tạo ra trên diện tích lớn và có thể đua vào sản xuất hàng loạt 
trong công nghiệp. Trong tiểu luận này tôi chỉ trình bày sơ luợc một số phuơng 
pháp đuợc các nhà khoa học dừng để tạo ra Graphene từ khi nó mới đuợc khám 
phá cho đến nhũng phuơng pháp mới nhất hiện nay. 
1.6.1. Phương pháp chemical exfoliation 
Trước khi tìm ra graphene, các nhà khoa học đã nhiều lần thất bại khi cố 
tách những miếng mỏng graphene từ graphite. Ban đầu, nguời ta dừng một thủ 
thuật hóa học gọi là chemical exfoliation - tức là chèn nhiều phân tử hóa học vào 
giũa nhũng phiến graphene để tách nó ra. Tuy nhiên cái mà họ có đuợc chỉ là 
nhũng mảng nhu nhọ nồi. Từ đó không ai dùng kĩ thuật này để lấy graphene nữa. 
1.6.2. Phương pháp micromechanical cleavage 
Sau khi thất bại với phuơng pháp chemical exfoliation các nhà khoa học đã 
áp dụng một kĩ thuật trục tiếp hơn, gọi là micromechanical cleavage (cắt vi cơ), 
tách graphite thành những miếng mỏng bằng cách nạo hoặc chà graphite vào một 
mặt phẳng khác, từ đó có thể gỡ những miếng graphite với độ dày khoảng 100 
nguyên tử. Bằng cách này thì năm 1990, các nhà vật lý nguời Đức ở RWTH 
Aachen Univrsity đã lấy được những miếng graphite mỏng đến độ trong suốt. 
Khoảng 10 năm sau đó, không có một tiến bộ nào đáng kể. Mặc dầu họ có thể lấy 
được những miếng mỏng khoảng vài mươi nguyên tử, nhưng đó chỉ là những 
miếng graphite mỏng, không phải graphene. Lúc đó, không ai nghĩ graphene có 
thể hiện diện được trong thiên nhiên. 
1.6.3. Phương pháp băng keo Scotch 
Graphene được nhóm của giáo sư Geim tổng hợp từ graphite năm 2004. 
Việc khám phá ra cách chế tạo graphene là câu chuyện hy hữu trong lịch sử khoa 
học, bởi nó xuất phát từ một cuộn băng keo. Tiến sĩ Geim đặt mảnh graphite lên 
một miếng băng keo đặc biệt, dán hai đầu lại với nhau, rồi mở băng keo ra... Cứ 
làm như vậy nhiều lần cho đến khi miếng graphite trở nên thật mỏng. Qua đó, 
mảnh graphite được tách ra từng lớp một, ngày càng mỏng, sau đó người ta hòa 
chứng vào acetone. Trong hỗn hợp thu được có cả những đơn lớp cacbon chỉ dày 
1 nguyên tử. Một miếng graphite dày 1 nguyên tử thì không thể nhìn thấy được, 
nhưng tiến sĩ Geim thấy được rằng 1 miếng graphite tạo ra 1 cầu vồng nhiều sắc 
màu rực rỡ. Đen nay, quan sát bằng kính hiển vi, qua màu sắc, các nhà nghiên cứu 
có thể biết được độ dày của miếng graphite. 
1.6.4. Ma sát các cột graphite lên bề mặt silicon xốp 
Nhóm các nhà nghiên cứu dẫn đầu là Rodney Ruoff, giáo sư về kỹ thuật nano 
hiện ở Đại học Northwestern, báo cáo rằng ông có thể ma sát các cột graphite nhỏ 
bé lên bề mặt silicon xốp, khiến chúng trải dài như một chồng bài. Ồng đề nghị 
kỹ thuật này có thể sản sinh ra graphene đơn lớp, nhưng ông không thể xác định 
bề dày các lớp. Philip Kim, một giáo sư vật lý ở Columbia, cũng đạt được kết quả 
tương tự khi làm “viết chì nano”, gắn 1 tinh thể graphite lên đỉnh của kính hiển vi 
lực nguyên tử và di chuyển nó theo bề mặt. Ồng cũng tìm ra cách tách graphite 
thành từng mảnh nhỏ. Nhưng các mảnh đó, mỏng khoảng 5 phần tỷ của 1 mét, 
tuy vậy, có thể bao gồm ít nhất 10 lớp nguyên tử. 
1.6.5. Cho các phân tử hydrocacbon đi qua bề mặt iridi 
Giáo sư Dario Alfc và TS Monica Pozzo, Khoa Khoa học Trái đất, Đại học 
London, là những người đang cố gắng tìm hiểu và mô tả cơ chế hình thành 
graphene trong một phương pháp sản xuất đặc biệt. Đó là cho các phân tử 
hydrocacbon đi qua bề mặt iridi (Ir) được làm nóng trong khoảng từ 30°C đến 
1000°C. Khi tiếp xúc với bề mặt này, những phân tử hydrocacbon giải phóng các 
nguyên tử H, chỉ còn những nguyên tử c bám vào bề mặt Ir và tập trung ở đó thành 
những kết cấu nano. Những kết cấu nano này phát triển thành mảng graphene 
hoàn chỉnh. Giáo sư Alfc cho biết phương pháp phát triển graphene được nhiều 
người biết đến tuy nhiên vẫn chưa giải thích được cơ chế thực hiện từ một bề mặt 
bao phủ cacbon đến một mảng graphene. 
1.6.6. Phương pháp tổng hợp graphene trên diện tích lớn 
Đó là việc liên kết từng miếng nhỏ trên 1 mặt phẳng để tạo thành 1 dải có 
dạng như 1 cuộn phim. Cái đó không gọi là tổng hợp mà chỉ là cắt tấm graphene 
ra thành từng mảnh rồi ráp chứng lại mà thôi. Cách làm là đưa chất xúc tác vào 
để diện tích lớp màng graphene có thể nở rộng. Công nghệ này đáp ứng được cả 
2 tiêu chí dẫn điện tốt và an toàn mà các phương pháp khác hiện nay chưa đảm 
bảo được. 
1.6.7. Kết hợp siêu âm tách lớp và ly tâm. 
Trong phương pháp này, graphite thương mại (đã được acid hoá bằng 
HNO3 và H2SO4) được tách lớp ở 1000°C bằng hỗn hợp khí Ar+3%IỈ3. Sản 
phẩm được phân tán trong dung dịch 1,2-dichloroethane + poly(m- 
phenylenevinylen