Khái niệm chuyển đổi cơcấu nhằm hợp nhất việc nghiên cứu các khía cạnh khác
nhau của phát triển được trình bày bằng cách sửdụng các khái niệm nhưchuyển đổi nông
nghiệp, công nghiệp hoá, quá độnhân khẩu học và thành thịhoá. Mỗi một khái niệm này
miêu tảmột hay một vài khía cạnh của toàn bộquá trình chuyển đổi. Phần 1 kết hợp sự
chuyển đổi của nhu cầu, thương mại, sản xuất và thuê nhân công thành một thểduy nhất
đểphân tích hiện tượng tăng trưởng dài hạn.
Việc phân tích của chúng ta nhấn mạnh vào tương tác giữa tăng trưởng và thay đổi
cơcấu. Các hình thái cơbản của chuyển đổi nào tác động lên cách phát triển của nền kinh
tếvà phân biệt giữa các nước phát triển và đang phát triển? Hai trong sốcác mối quan hệ
cơcấu được biết đến nhiều nhất là :
Nguyên lý của Angel vềnhu cầu lương thực giảm dần.
Giảthuyết của Lewis vềcung nhân công co dãn trong các nước đang phát
triển.
Các kết quảtìm ra đưa ra một sốmối quan hệcó tầm quan trọng khá đặc biệt :
“Các giai đoạn tiến bộvượt bậc của Balassa”, rút ra từmô hình của
Heckscher-Ohlin.
Quan sát của Kuznets vềsựkhác nhau có hệthống đối với mức độvà sựtăng
trưởng của năng suất lao động ởcác ngành.
Quá độnhân khẩu học, tập hợp các nhân tốtạo nên sựphát triển ban đầu và
sau đó là sựgiảm tăng trưởng khi thu nhập trung bình tăng lên.
Nói tóm lại, các thay đổi cơcấu liên quan tới thu nhập này ngụý rằng các quá trình tăng
trưởng của nền kinh tế đang phát triển có thểkhác biệt vềcơbản so với các nền kinh tế
tiên tiến.
28 trang |
Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 2363 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài giảng kinh tế Chuyển đổi cơ cấu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Kinh tế Phát triển Chuyển đổi cơ cấu
Niên khoá 2006-2007 Bài đọc
PHẦN I
CHUYỂN ĐỔI CƠ CẤU
Khái niệm chuyển đổi cơ cấu nhằm hợp nhất việc nghiên cứu các khía cạnh khác
nhau của phát triển được trình bày bằng cách sử dụng các khái niệm như chuyển đổi nông
nghiệp, công nghiệp hoá, quá độ nhân khẩu học và thành thị hoá. Mỗi một khái niệm này
miêu tả một hay một vài khía cạnh của toàn bộ quá trình chuyển đổi. Phần 1 kết hợp sự
chuyển đổi của nhu cầu, thương mại, sản xuất và thuê nhân công thành một thể duy nhất
để phân tích hiện tượng tăng trưởng dài hạn.
Việc phân tích của chúng ta nhấn mạnh vào tương tác giữa tăng trưởng và thay đổi
cơ cấu. Các hình thái cơ bản của chuyển đổi nào tác động lên cách phát triển của nền kinh
tế và phân biệt giữa các nước phát triển và đang phát triển? Hai trong số các mối quan hệ
cơ cấu được biết đến nhiều nhất là :
Nguyên lý của Angel về nhu cầu lương thực giảm dần.
Giả thuyết của Lewis về cung nhân công co dãn trong các nước đang phát
triển.
Các kết quả tìm ra đưa ra một số mối quan hệ có tầm quan trọng khá đặc biệt :
“Các giai đoạn tiến bộ vượt bậc của Balassa”, rút ra từ mô hình của
Heckscher-Ohlin.
Quan sát của Kuznets về sự khác nhau có hệ thống đối với mức độ và sự tăng
trưởng của năng suất lao động ở các ngành.
Quá độ nhân khẩu học, tập hợp các nhân tố tạo nên sự phát triển ban đầu và
sau đó là sự giảm tăng trưởng khi thu nhập trung bình tăng lên.
Nói tóm lại, các thay đổi cơ cấu liên quan tới thu nhập này ngụ ý rằng các quá trình tăng
trưởng của nền kinh tế đang phát triển có thể khác biệt về cơ bản so với các nền kinh tế
tiên tiến.
Chương 2 khai thác giả thuyết này đầu tiên bằng cách mở rộng các kỹ thuật tính
toán tăng trưởng. Phương pháp Solow (Solow 1957) được áp dụng cho mẫu lớn các nước
đang phát triển và đã phát triển; điều này cho thấy có một số khác biệt về bản chất giữa
hai nhóm về nguồn gốc tăng trưởng. Các nguồn gốc này đã được phân loại để một mặt
nghiên cứu mối tương tác giữa các thay đổi về thành phần của nhu cầu và thương mại,
mặt khác nghiên cứu cung của nhân tố sản xuất cũng như sự tăng trưởng năng suất.
Chương 3 sẽ mô hình hóa các yếu tố quyết định hình thái điển hình của chuyển
đổi cơ cấu. Mô hình này kết hợp các thực tế đã được mẫu hình hóa của bản chất nêu trên
và được ước lượng từ dữ liệu chéo giữa các quốc gia. Mô hình này cho phép tồn tại các
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Kinh tế Phát triển Chuyển đổi cơ cấu
Bài đọc
Hollis Chenery et al. 2 Biên dịch: Băng Tâm
khác biệt đối với những yếu tố sản xuất tác động tới sự chuyển đổi cơ cấu (như kích cỡ và
cơ sở nguồn gốc), cũng như cho phép các khác biệt đối với các chính sách phát triển
hướng nội và hướng ngoại. Nhiều mẫu hình đại diện của sự phân bố nguồn gốc được
đồng dạng hóa bằng cách tăng cho toàn bộ khoảng chuyển đổi.
Mục đích chính của các mô phỏng đối chiều giữa các quốc gia này là để cung cấp
một chuẩn mực so sánh cho các nghiên cứu đối với từng nền kinh tế riêng biệt trong phần
II. Chúng cũng đề xuất nhiều sự tổng quát hóa về tính đồng dạng của chính chuyển đổi.
Ví dụ, công nghiệp hóa (được đo bằng sự gia tăng thành phần công nghiệp trong tổng sản
phẩm quốc gia (GDP) cần phải xảy ra trừ khi có sự gia tăng đáng kể về giá trị xuất khẩu
các sản phẩm thiết yếu hoặc các dịch vụ để cân bằng lại đồng thời cả các hiệu ứng tăng
trưởng thu nhập Engel đối với nhu cầu lẫn sự thâm dụng các nhập lượng của công nghiệp.
Mặc dù hiện tượng làm chậm công nghiệp hóa (hoặc căn bệnh Dutch) đã được nhìn nhận
trong thời gian ngắn, vẫn còn tồn tại một vài ví dụ về sự tồn tại dai dẳng của nó trong các
nước đang phát triển tới hơn một thập niên. Một phân tích trong thời gian kéo dài hơn của
Chương 3 cho thấy rằng vấn đề chính của quá trình chuyển đổi không phải là phải chăng
các nước có cần công nghiệp hóa, mà là khi nào và theo cung cách nào.
Chương 4 đề cập tới vấn đề sử dụng các kết quả này để phân tích chính sách. Nó
đưa ra một thuyết điển hình tổng quát của công nghiệp hóa, dựa trên các nét đặc biệt
chính yếu nổi cộm khi mô phỏng các hình thái phân bố nguồn vốn. Một loại nền kinh tế
công nghiệp hóa hoặc nửa công nghiệp, loại trung gian giữa các nền kinh tế ít phát triển
và các nền kinh tế đã phát triển, đã xuất hiện từ các mô phỏng này. Các đặc trưng của nó
sau đó được sử dụng để nhận biết tất cả các nền kinh tế bán công nghiệp trong giai đoạn
1960-80. Cuối cùng, những khác biệt về quy mô, nguồn tài nguyên sẵn có và các chính
sách thương mại là quan trọng khi so sánh các tác động của các chính sách phát triển.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Kinh tế Phát triển Chuyển đổi cơ cấu
Niên khoá 2006-2007 Bài đọc
2. TĂNG TRƯỞNG VÀ CHUYỂN ĐỔI
HOLLIS CHENERY
Có hai quan điểm đối nghịch về con đường tăng trưởng kinh tế. Theo truyền
thống tân cổ điển, GNP tăng lên như là một kết quả của các tác động lâu dài bởi việc
hình thành vốn, mở rộng lực lượng lao động, và thay đổi công nghệ. Tất cả các nhân tố
này được cho là xảy ra trong các điều kiện của tình trạng cân bằng có cạnh tranh. Các
dịch chuyển của nhu cầu và sự chuyển động của các nguồn vốn từ khu vực này sang
khu vực khác được xem như tương đối không quan trọng, bởi vì lao động và vốn đưa
lại lợi nhuận biên tế bằng nhau trong mọi mục đích sử dụng.
Hai là, nhìn rộng hơn, sự tăng trưởng kinh tế được xem như một khía cạnh của
quá trình chuyển đổi cơ cấu sản xuất được đòi hỏi để đáp ứng các nhu cầu đang thay
đổi và tạo ra việc sử dụng công nghệ có năng suất cao hơn. Với sự tiên đoán không
hoàn hảo và các giới hạn đối với tính cơ động của yếu tố sản xuất, các thay đổi cơ cấu
có nhiều khả năng xảy ra hơn trong các điều kiện của trạng thái không cân bằng; điều
đó đôi khi đúng trong các thị trường yếu tố sản xuất. Từ đây, dịch chuyển của nhân
công và vốn từ khu vực có năng suất thấp hơn sang khu vực có năng suất cao hơn có
thể đẩy nhanh tăng trưởng. Mặc dù dạng phân tích cơ cấu này còn chưa có được một sự
trình bày mạnh mẽ như thuyết cân bằng tổng thể, nó vẫn có thể cung cấp cơ sở cho
phân tích theo kinh nghiệm.
Khi tình trạng cân bằng tổng thể không được coi là hiển nhiên, thì vấn đề là sự
phân bố lại nguồn vốn sang các ngành có năng suất cao hơn đóng góp bao nhiêu vào sự
tăng trưởng, trở nên một vấn đề kinh nghiệm. Nó có khả năng quan trọng hơn đối với
các nước đang phát triển so với các nước đã phát triển trong việc nhìn nhận tiềm năng
của việc phân bố lại nguồn vốn đối với các nước đang phát triển chỉ ra nhiều triệu
chứng đã biết hơn của tình trạng mất cân bằng trong thị trường yếu tố sản xuất, cũng
như thay đổi nhanh hơn trong cơ cấu sản xuất.
Chương này đưa ra cơ sở cho phân tích mới giữa công nghiệp hoá - hoặc, rộng
hơn, sự chuyển đổi cơ cấu của nền kinh tế - và sự gia tăng thu nhập đầu người. Các kết
quả của các nghiên cứu tân cổ điển về sự tăng trưởng cân bằng trong cả các nước đã
phát triển, đang phát triển đã được tổng hợp lại, sau đó các tác động của việc thay đổi
hình thái về nhu cầu và thương mại trong khi xúc tiến hoặc hạn chế dịch chuyển các
nguồn vốn sang các sử dụng có năng suất cao hơn được xem xét. Như chương này cho
thấy, việc xác định nguồn gốc tăng trưởng đòi hỏi tổng hợp các yếu tố cầu và cung
cũng như sử dụng các mô hình đa khu vực.
Một số khác biệt cơ sở giữa các quá trình tăng trưởng của các nền kinh tế đang
phát triển hoặc các nền kinh tế ở thời kỳ quá độ và của các nền kinh tế công nghiệp
trưởng thành nổi bật từ các nghiên cứu này. Đặc biệt, các hiện tượng mất cân bằng
được chỉ ra là có ý nghĩa hơn đối với các trường hợp trước so với các trường hợp sau.
Do vậy, mặc dù thuyết tân cổ điển là một điểm xuất phát hữu ích để nghiên cứu sự tăng
trưởng, nó cần phải được chuyển đổi đáng kể để có thể giải thích các hình thái thiết yếu
của nền kinh tế trong quá trình chuyển đổi.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Kinh tế Phát triển Chuyển đổi cơ cấu
Bài đọc
Hollis Chenery et al. 4 Biên dịch: Băng Tâm
Các nguồn gốc của tăng trưởng
Sự nghiên cứu các nguồn gốc tăng trưởng kinh tế đã có những bước phát triển
lớn kể từ công trình mở đầu của Abramovitz (1956), Solon (1957), và Denison (1962).
Mục đích chính là để ước lượng các đóng góp tương đối vào tăng trưởng một mặt của
các nhập lượng vốn và nhân công (đã được chính xác hóa đối với các thay đổi về chất
lượng) và mặt khác là của năng suất của yếu tố sản xuất tổng thể. Hiện nay, có nhiều
nghiên cứu về các nước công nghiệp bao gồm phần lới là giai đoạn sau chiến tranh, sử
dụng nhiều biến thể của lý thuyết tân cổ điển. Phương pháp luận này đã được áp dụng
cho một số lượng đang gia tăng của các nước bán công nghiệp, và vì vậy một số các
khác biệt trong quá trình tăng trưởng của hai nhóm có thể được nhận biết.
Vì việc nghiên cứu các khía cạnh của tăng trưởng trong tình trạng mất cân bằng
đòi hỏi một mô hình chi tiết hơn so với trường hợp tăng trưởng trong tình trạng cân
bằng, các nỗ lực kinh tế thuộc về nguyên tắc đã kiểm định mức độ ý nghĩa của các khía
cạnh này khi giải thích các sai khác trong tăng trưởng giữa các nước. Công việc này,
sau đây sẽ được rà soát lại, đã thiết lập sự quan trọng của việc chuyển nguồn vốn từ các
sử dụng với năng suất thấp hơn sang các sử dụng với năng suất cao hơn, ví dụ như bằng
cách mở rộng xuất khẩu hoặc bằng cách chuyển từ nông nghiệp sang công nghiệp. Các
dịch chuyển này là các nguồn gốc tăng trưởng quan trọng hơn đối với các nước đang
phát triển so với các nước đã phát triển.
Công việc có tính kinh nghiệm này đề xuất một số câu trả lời cho nhiều câu hỏi
mà cuốn sách này quan tâm:
Phương pháp luận tân cổ điển là hữu hiệu thế nào khi được áp dụng cho các
nước đang phát triển? Có tồn tại các khác biệt đáng kể giữa các nhóm của
các nước cần được xem xét?
Xuất phát điểm nào từ tình trạng cân bằng tổng thể tỏ ra quan trọng hơn cả?
Phân tích việc thay đổi thành phần của cầu và thương mại cần rõ ràng hơn
đến mức độ nào?
Phải chăng các biến thiên có hệ thống cùng thu nhập đầu người này của các
yếu tố sản xuất đang tác động lên sự tăng trưởng nên theo đuổi?
Trong khi xem xét các câu hỏi này, có thể việc đối chiếu các giả định của quan
điểm tân cổ điển và quan điểm cơ cấu về nguồn gốc tăng trưởng sẽ là hữu ích. Do các
giả định cơ sở của thuyết tân cổ điển đã được biết nhiều, chúng có thể được coi như
một điểm xuất phát để giải thích giả thuyết về phương pháp cơ cấu.
Một điểm khác biệt quan trọng nhất giữa 2 quan điểm là ở giữa các giả định có
hệ thống của chúng hơn là giữa bất cứ khác biệt nào đối với các thành phần của chúng.
Thuyết tân cổ điển giả định sự phân bố các nguồn vố là hiệu quả (tính tối ưu Pareto)
theo thời gian trên quan điểm của các nhà sản xuất lẫn người tiêu dùng. Tại bất cứ thời
điểm đã định nào, không thể tăng tổng sản lượng bằng cách dịch chuyển nhân công và
vốn từ khu vực này sang khu vực khác: Việc phân bố lại xảy ra chỉ khi nền kinh tế mở
rộng thêm. Tương phản lại, phương pháp cơ cấu không giả định sự phân bố nguồn vốn
là hoàn toàn tối ưu; hậu quả là có thể có các biến thiên hệ thống đối với mức thu hồi từ
nhân công và vốn các sử dụng khác nhau.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Kinh tế Phát triển Chuyển đổi cơ cấu
Bài đọc
Hollis Chenery et al. 5 Biên dịch: Băng Tâm
Một số giả định đóng góp vào nét đặc trưng này được trình bày trong bảng 2.1.
Việc giữ nguyên trạng thái cân bằng trên bề mặt của các dịch chuyển về nhu cầu bên
trong và thương mại bên ngoài được trợ giúp bởi các tính co giãn cao của hàng thay thế
giữa cả hàng hóa và các yếu tố, và bởi các đối ứng nhanh đối với các tín hiệu thị trường
thuyết tân cổ điển giả định rằng hệ thống kinh tế có tính mềm dẻo đủ để duy trì các giá
cân bằng, trong khi phương pháp cơ cấu qui định một số điều kiện làm việc điều chỉnh
hoàn toàn không thể thực hiện được. Một trong các nguồn gốc của trạng thái mất cân
bằng tốt nhất đã được dẫn chứng là sự lưỡng tính của thị trường nhân công - sự lưỡng
tính đã được nhấn mạnh ở nhiều nước đang phát triển bởi sự gia tăng dân số quá nhanh
để có thể được thu hút vào các ngành kinh tế có năng suất cao. Kết quả là cung co giãn
của nhân công tay nghề thấp đã tập trung vào các ngành nông nghiệp và dịch vụ.
Một nguồn gốc thứ hai của tình trạng mất cân bằng đã được nghiên cứu rộng rãi
là sự thất bại trong việc phân bố lại các nguồn vốn một cách có hiệu quả nhằm tăng
xuất khẩu hoặc thay thế nhập khẩu. Các yếu tố đóng góp vào sự thâm hụt kinh niên của
cán cân thanh toán bao gồm xu hướng mở rộng nhu cầu nhập khẩu nhanh hơn so với
tổng GNP, sự thiếu các khuyến khích để các nhà sản xuất tham gia vào các thị trường
mới, và các chính sách thiển cận nhằm ưu tiên cho nhập khẩu hàng thay thế hơn là mở
rộng xuất khẩu. Dù các yếu tố sản xuất hạn chế việc điều chỉnh cán cân thanh toán
trong quá khứ là gì thì cũng chỉ có một mối lo ngại nhỏ rằng các yếu tố này là nguồn
gốc của tình trạng mất cân bằng trong nhiều nước đang phát triển và ngăn cản sự tăng
trưởng.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Kinh tế Phát triển Chuyển đổi cơ cấu
Bài đọc
Hollis Chenery et al. 6 Biên dịch: Băng Tâm
Bảng 2-1. Các quan điểm thay thế về tăng trưởng
Phương pháp tân cổ điển Phương pháp cơ cấu
Các giả định
Thu hồi yếu tố sản xuất bằng năng suất lao
động trong mọi sử dụng.
Không có lợi thế về qui mô
Sự thấy trước hoàn hảo và tình trạng cân
bằng liên tục trong mọi thị trường.
Các thay đổi liên quan tới thu nhập của
nhu cầu bên trong.
Các thị trường bên ngoài được giới hạn
và sự trì trệ trong điều chỉnh.
Chuyển đổi cơ cấu sản xuất đưa đến tình
trạng mất cân bằng trong các thị trường
yếu tố sản xuất.
Các ý nghĩa về mặt kinh nghiệm
Tính co dãn tương đối cao trong nhu cầu và
buôn bán hàng thay thế.
Sự cần thiết đã hạn chế đối với sự phân
ngành.
Tính co dãn thấp của giá và sự chậm trễ
của điều chỉnh.
Các thị trường yếu tố sản xuất đã được
phân chia.
Sự chậm trễ trong việc thích ứng kỹ thuật
mới.
Nguồn gốc tăng trưởng
Sự tích lũy vốn.
Sự gia tăng về lượng và chất của nhân lực.
Sự gia tăng các nhập lượng trung gian.
Tăng trưởng về năng suất của yếu tố sản
xuất tổng thể trong các khu vực.
Các nguồn gốc tân cổ điển cộng thêm :
Sự phân bố lại các nguồn vốn sang các
khu vực có năng suất cao hơn.
Ưu thế về qui mô và học qua việc làm.
Giảm các cổ chai bên trong và bên ngoài.
Mặc dù mức thu nhập trong nền kinh tế theo thuyết tân cổ điển theo định nghĩa
cao hơn là nó có thể đạt được trong bất kỳ tập hợp nào của các giả định mất cân bằng,
tiềm năng tăng trường của nền kinh tế đó có thể nhỏ dần theo thời gian. Các hiện tượng
mất cân bằng như các thị trường yếu tố đã bị phân chia và sự trì trệ trong điều chỉnh nói
lên khả năng tăng trưởng có gia tốc bằng cách giảm các cổ chai vào bố trí lại nguồn vốn
vào các khu vực có năng suất cao hơn. Tiềm năng này có khả năng lớn hơn ở các nước
đang phát triển - những nước đang phụ thuộc vào các cơn sốc làm mất căn bằng lớn
hơn và có tình trạng mất cân bằng về thị trường lớn hơn - so với các nước đã phát triển.
Thêm vào đó, các nước đang phát triển có thể lợi dụng ưu thế của kỹ thuật có năng suất
cao hơn đang hiện hữu từ các nước tiên tiến. Hai yếu tố sản xuất này đưa ra lời giải
thích hợp lý cho việc tăng tốc của tăng trưởng đã được ghi nhận trong nhiều nước đang
công nghiệp hóa.
Tóm lại, phương pháp cơ cấu tập trung vào những khác biệt giữa các khu vực
của nền kinh tế. Các khác biệt này có thể ngăn cản các điều tiết sự cân bằng trong việc
phân bổ nguồn vốn đã được hiểu theo thuyết tân cổ điển. Tình trạng mất cân bằng
thường hay được thể hiện bởi những khác biệt về mức sinh lợi của nhân công và vốn
trong các mục đích khác nhau hơn là bởi những thiếu hụt về dư thừa, những điều thể
hiện sự thất bại hoàn toàn của bản thân các thị trường trong việc tạo cân bằng.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Kinh tế Phát triển Chuyển đổi cơ cấu
Bài đọc
Hollis Chenery et al. 7 Biên dịch: Băng Tâm
Ngược lại, thuyết tân cổ điển cho rằng tình trạng cân đối luôn được duy trì, tình
trạng này giới hạn nguồn gốc tăng trưởng đối với yếu tố sản xuất từ phía cung.
Tăng trưởng trong tình trạng cân bằng
Các giả định của tình trạng cân bằng có cạnh tranh nằm trong thuyết tân cổ điển
là một điểm xuất phát thuận tiện để phân tích tăng trưởng vì chúng cho phép bất cứ
nhóm nhập lượng nào cũng được kết hợp lại dựa trên các năng suất biên tế của chúng.1
Đối với các nghiên cứu kinh tế, tất cả các nhập lượng cơ bản đều có thể được phân loại
như là vốn hoặc nhân công. Mỗi nhập lượng sau đó có thể được sát nhập lại trên cơ sở
tỉ phần của nó đối với tổng sản phẩm. Sự khác nhau giữa tăng trưởng tổng sản lượng và
tăng trưởng trung bình gia quyền của vốn và nhân công được dùng như thước đo sự gia
tăng năng suất của yếu tố sản xuất tổng thể cho toàn ngành kinh tế. Quy trình này đủ
tổng quát để cho phép các so sách giữa những nghiên cứu sử dụng các phương pháp
luận khác nhau, chừng nào chúng còn duy trì các giả định của tình trạng cân bằng có
cạnh tranh.
Sự phân tích được lập ra để đo sự quan trọng của ba nguồn gốc tăng trưởng này
cho đến nay đã được thực hiện đối với 39 nền kinh tế trong nhiều giai đoạn. Chúng chỉ
ra rằng tăng trưởng của vốn, nhân công và năng suất là những điều quan trọng có thể so
sánh được đối với một mẫu nguyên vẹn, nhưng khác nhau một cách có ý nghĩa với cơ
cấu của nền kinh tế vũng như hiệu quả của các chính sách trong nền kinh tế đó.
Phương pháp luận
Phương pháp luận thông thường được sử dụng để ước lượng nguồn gốc tăng
trưởng trong khuôn khổ tân cổ điển đã được tiến hóa từ hình thức cơ sở của Solow
(1957). Hàm sản xuất tổng thể được giả định có dạng tổng quát như sau:
(2-1) Q = F (K, L,t)
ở đó, Q là tổng sản lượng của nền kinh tế, K và L là các tổng nhập lượng vốn và nhân
công, và t là thời gian. Một giả định đơn giản nhất về tác động của thời gian (và là một
giả định được tạo ra trong đa số các nghiên cứu đã được đưa vào bảng 2-2 sau đây) là
sự tiến bộ kỹ thuật là trung tính trong quan điểm (Hicksian) cho rằng nó làm tăng sản
lượng có thể đạt được từ một kết hợp đã biết của vốn và nhân công mà không hề làm
ảnh hưởng tới các sản phẩm biên tế tương đối của chúng. Với giả định này, hàm sản
xuất có thể được viết như sau:
(2-1a) Qt = At F (Kt, Lt)
Ba nguồn gốc của tăng trưởng sản lượng sau đó có thể được rút ra bằng cách lấy
đạo hàm phương trình này theo thời gian và chia cho Q:
Q
Q
K
Q
L
Q
=
A
A
+ A
F
K
+ A
F
K
+
+
+
+
,
1 Phần này cũng cung cấp cơ sở cho các nghiên cứu về quốc gia trong Chương 10 và đã được viết với sự
tham vấn của Micko Nishimizu
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Kinh tế Phát triển Chuyển đổi cơ cấu
Bài đọc
Hollis Chenery et al. 8 Biên dịch: Băng Tâm
ở đây các dấu chấm chỉ các đạo hàm theo thời gian.
Việc thay βK = (∂ Q/ ∂ K) (K/Q) và βL = (∂ Q/ ∂ L) (L/Q) cho ta phương trình tăng
trưởng cơ bản của thuyết tân cổ điển: 2
(2-2) GV = GA + βK GK + βL GL
ở đó GV , GK , và GL là các tỉ lệ tăng trưởng của tổng sản lượng (giá trị đã gia tăng),
vốn và nhân công.
Tăng trưởng năng suất của tổng yếu tố sản xuất, GA được xác định như hiệu số
giữa Gv và tổng theo gia quyền của tăng trưởng nhập lượng, βK GK + βL GL. Mỗi một
hệ số sản lượng, βi, được xác định như độ co dãn của sản lượng theo nhập lượng i, vì
vậy nó chỉ ra tác động lên tăng trưởng sản lượng đối với mỗi một % tăng lên của tăng
trưởng nhập lượng đó. Hình thức này có thể được mở rộng cho bất kỳ số nhập lượng
nào.
Trong các điều kiện của trạng thái cân bằng có cạnh tranh, mỗi một yếu tố sản
xuất đều nhận được sản phẩm biên tế của nó, để tiền lương thực tế, w/p, bằng ∂ Q/∂ L.
Giả định này đưa tới một kết qủa quan trọng là trong tình trạng cân bằng, hệ số βL cũng
bằng tỉ ph