Ở Việt Nam, lượng giá nguy cơ nói chung và lượng giá nguy cơ SKMT nói riêng
là một lĩnh vực khá mới mẻ. Hiện còn thiếu các cán bộ được đào tạo về lĩnh vực này cũng
như thiếu các thông tin và số liệu về phơi nhiễm. Ngoài công tác đào tạo nhân lực và dành
kinh phí phù hợp cho lượng giá và quản lý nguy cơ SKMT, Việt Nam cần phải mở rộng
hơn nữa mạng lưới các trạm quan trắc môi trường không khí, đất và nước cũng như tăng
cường giám sát sức khỏe, bệnh tật của các khu dân cư sống gần những khu vực đặt các
trạm quan trắc này để có thể thiết lập mối quan hệ giữa việc tiếp xúc các yếu tố nguy cơ
từ môi trường và sức khỏe cộng đồng. Ngoài ra, việc đầu tư và sử dụng hiệu quả các phòng
thí nghiệm phân tích mẫu môi trường là rất cần thiết nhằm cung cấp bằng chứng cho quá
trình lượng giá nguy cơ SKMT ở Việt Nam.
62 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2654 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài giảng Môi trường và sức khỏe cộng đồng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA MÔI TRƯỜNG VÀ TÀI NGUYÊN
BỘ MÔN QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG
TÀI LIỆU MÔN HỌC
Tháng 9/2012
GVPTMH: ThS. HOÀNG THỊ MỸ HƯƠNG
2
BÀI 1 - NHẬP MÔN SỨC KHOẺ MÔI TRƯỜNG
MỤC TIÊU
Sau khi học xong bài này, sinh viên có khả năng:
1. Trình bày được các thành phần chính của môi trường
2. Nêu được các khía cạnh lịch sử của sức khoẻ môi trường
3. Trình bày được mối quan hệ giữa sức khoẻ và môi trường, các chính sách về sức
khoẻ môi trường và quản lý môi trường
4. Giải thích được những vấn đề sức khoẻ môi trường mang tính cấp bách ở địa
phương và trên thế giới.
NỘI DUNG
Sức khoẻ môi trường là nền tảng của Y tế công cộng, cung cấp rất nhiều lý luận cơ bản nền
tảng cho một xã hội hiện đại. Quá trình cải thiện tình trạng vệ sinh, chất lượng nước uống,
vệ sinh và an toàn thực phẩm, kiểm soát bệnh tật và cải thiện điều kiện nhà ở là nhiệm vụ
trung tâm của quá trình thực hiện việc nâng cao chất lượng cuộc sống và tiếp tục những
kinh nghiệm quý báu của cả thế kỷ qua. Tuy nhiên, hiện nay cuộc sống của người dân
trong thời kỳ đổi mới có nhiều thay đổi: việc đô thị hoá, tăng dân số, thay đổi lối sống,
nạn phá rừng, tăng sử dụng hoá chất bảo vệ thực vật trong nông nghiệp, sử dụng các hoóc
môn tăng trưởng trong chăn nuôi, sự phát triển công nghiệp và không kiểm soát được
những chất thải công nghiệp v.v… làm cho môi trường ngày càng bị suy thoái.
Trong những năm qua, thảm hoạ thiên nhiên đã gây nên nhiều thiệt hại lớn như lũ quét ở
Lai Châu, Sơn La, úng lụt ở Đồng bằng Sông Cửu Long, hạn hán ở nhiều nơi như Tây
Nguyên. Tại một số tỉnh phía nam hiện nay, những trường hợp bị nhiễm độc hoá chất,
ngộ độc các hoá chất bảo vệ thực vật và ngộ độc thực phẩm vẫn xẩy ra thường xuyên.
Có nhiều chỉ thị và nghị quyết bàn về phương hướng phát triển bền vững, nghĩa là bảo đảm
cho môi trường và môi sinh trong sạch, giảm thiểu ô nhiễm nhằm nâng cao sức khoẻ con
người như Luật Bảo vệ môi trường Việt Nam, Nghị định hướng dẫn thi hành luật, v.v…
Bên cạnh đó còn phải kể đến môi trường xã hội, môi trường làm việc cũng có nhiều ảnh
hưởng đến sức khoẻ con người. Do vậy, việc nghiên cứu, xử lý, phòng chống ô nhiễm môi
trường và cải thiện môi trường xã hội là một việc hết sức cần thiết. Muốn làm được điều đó
mọi người, mọi tổ chức trong xã hội mà trước hết là học sinh, sinh viên - những người làm
chủ tương lai đất nước phải cùng nhau tham gia giải quyết thì mới đạt được kết quả.
Đó là những vấn đề môi trường ảnh hưởng đến đời sống xã hội, đến kinh tế đất nước.
Còn môi trường ảnh hưởng đến sức khoẻ con người cụ thể như thế nào? Thế nào gọi là
sức khoẻ môi trường? Chúng tôi sẽ trình bày những khái niệm này ở phần sau.
3
1. CÁC THÀNH PHẦN CƠ BẢN CỦA MÔI TRƯỜNG
1.1. Môi trường là gì?
Theo Luật Bảo vệ môi trường Việt Nam (2005), môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và
vật chất nhân tạo bao quanh con người, có ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại,
phát triển của con người và sinh vật.
1.2. Các thành phần của môi trường
Cũng theo Luật Bảo vệ môi trường Việt Nam (2005), thành phần môi trường
là yếu tố vật chất tạo thành môi trường như đất, nước, không khí, âm thanh, ánh
sáng, sinh vật, hệ sinh thái và các hình thái vật chất khác. Tóm lại, các thành phần
của môi trường bao gồm môi trường vật lý, môi trường sinh học và môi trường xã
hội.
1.2.1. Môi trường vật lý bao gồm các yếu tố vật lý như: khí hậu, tiếng ồn, ánh sáng, bức xạ,
gánh nặng lao động. Bên cạnh các yếu tố vật lý còn có những yếu tố hoá học như bụi,
hoá chất, thuốc men, chất kích thích da, thực phẩm, v.v...
1.2.2. Môi trường sinh học như động vật, thực vật, ký sinh trùng, vi khuẩn, vi rút, các yếu
tố di truyền, v.v...
1.2.3. Môi trường xã hội như stress, mối quan hệ giữa con người với con người, môi trường
làm việc, trả lương, làm ca, v.v...
2. CÁC KHÍA CẠNH LỊCH SỬ CỦA SỨC KHOẺ MÔI TRƯỜNG
2.1. Khái niệm về sức khoẻ môi trường
Sức khoẻ môi trường là gì? Theo quan điểm của nhiều người sức khoẻ môi
trường chính là sức khoẻ của môi trường. Đây là các ý niệm về đời sống hoang dã,
về rừng, sông, biển, v.v... . và theo họ thì sức khoẻ môi trường đồng nghĩa với việc
bảo vệ môi trường. Những người khác thì cho rằng sức khoẻ môi trường là các vấn
đề về sức khoẻ của con người có liên quan đến điều kiện sống, sự nghèo nàn, lạc
hậu, không đủ nước sạch, lũ lụt, sự phá hoại của côn trùng và súc vật có hại - tất cả
các thách thức đó chúng ta đã trải qua, đã chống trả trong suốt quá trình hình thành
và phát triển của con người và cuộc sống, nhất là những năm gần đây và chúng ta đã
chiến thắng.
Cả hai quan điểm này đều chưa đúng, chưa chính xác, sức khoẻ môi trường không đồng
nghĩa với sức khoẻ của môi trường và bảo vệ môi trường và cũng không bó hẹp trong
việc kiểm soát các loại dịch bệnh của thế kỷ qua. Cho đến hiện nay nhiều tác giả đưa ra
khái niệm về sức khoẻ môi trường như sau:“Sức khoẻ môi trường là tạo ra và duy trì một
môi trường trong lành, bền vững để nâng cao sức khoẻ cộng đồng”.
4
2.2. Lịch sử phát triển của thực hành sức khoẻ môi trường
Mỗi sinh vật trên trái đất đều có môi trường sống của riêng mình, nếu thoát ra khỏi
môi trường tự nhiên đó hoặc sự biến đổi quá mức cho phép của môi trường mà chúng đang
sống thì chúng sẽ bị chết và bị huỷ diệt. Do đó, đảm bảo sự ổn định môi trường sống là điều
kiện cơ bản để duy trì sự sống của mọi loài sinh vật trên trái đất. Những ví dụ rất giản đơn
mà mọi người đều biết là “ngộ độc ô xít các bon (CO) ở những người đi kiểm tra các lò gạch
thủ công đốt bằng than hoặc cá chết do nước bị ô nhiễm hoá chất của nhà máy phân lân Văn
Điển”, v.v... Điều đó có nghĩa là môi trường, con người và sức khoẻ con người có mối liên
quan mật thiết với nhau và có thể cái nọ là nhân quả của cái kia. Không phải đến bây giờ
con người mới biết tới mối quan hệ này, mà từ hàng ngàn năm trước người Trung Quốc,
Ấn Độ, Ba Tư, Ai Cập cổ đại đã biết áp dụng các biện pháp thanh khiết môi trường để
ngăn ngừa và phòng chống dịch cho cộng đồng và quân đội. Các tư liệu lịch sử cho thấy từ
những năm trước công nguyên, ở thành A-ten (Hy Lạp) con người đã xây dựng hệ thống
cống ngầm để thải nước bẩn, đã biết dùng các chất thơm, diêm sinh để tẩy uế không khí
trong và ngoài nhà để phòng các bệnh truyền nhiễm.
Người La Mã còn tiến bộ hơn: khi xây dựng thành La Mã, người ta đã xây dựng
một hệ thống cống ngầm dẫn tới mọi điểm trong thành phố để thu gom nước thải, nước
mưa dẫn ra sông Tibre, đồng thời xây dựng một hệ thống cung cấp nước sạch cho dân
chúng trong thành phố. Vào thời kỳ này, độ cao của nhà ở, bề rộng các đường đi lại trong
thành đều được qui định và tiêu chuẩn hoá, những người đem bán loại thực phẩm giả mạo,
thức ăn ôi thiu đều phải chịu tội.
Theo thời gian, cùng với sự phát triển của xã hội, dân số, ô nhiễm môi trường và
phòng chống ô nhiễm môi trường càng được tăng cường và phát triển. Như chúng ta
đã biết, các nhân tố sinh học, các hoá chất tồn tại một cách tự nhiên và các nguy cơ vật lý đã
tồn tại trong suốt quá trình phát triển của lịch sử loài người. Đồng thời các chất ô nhiễm
môi trường do hoạt động của con người sinh ra cũng có quá trình phát triển từ từ và lâu dài.
Cuộc khủng hoảng môi trường lần thứ nhất xuất hiện ở Châu Âu lần đầu tiên vào
thế kỷ 19, nguyên nhân là do thực phẩm kém chất lượng, nước bị ô nhiễm ảnh hưởng đến
sức khoẻ cộng đồng. Cuộc cách mạng công nghiệp ở Anh đã làm cho nước Anh trở
thành xứ sở sương mù do ô nhiễm không khí, thời gian này vấn đề ô nhiễm công nghiệp là
một vấn đề hết sức nghiêm trọng nhưng bị chính phủ lờ đi vì còn nhiều vấn đề xã hội khác
quan trọng hơn, mặc dù năm 1848 Quốc Hội Anh đã thông qua Luật Y tế công cộng đầu
tiên trên thế giới. Trong quá trình phát triển công nghiệp, ô nhiễm kéo dài cho đến giữa
thế kỷ 20 và hàng loạt những ô nhiễm mới song song với ô nhiễm công nghiệp là ô nhiễm
hoá học, hoá chất tổng hợp, nhất là trước và sau chiến tranh thế giới lần thứ 2. Những tiến
bộ của kỹ thuật, lĩnh vực hoá học, đặc biệt là ngành công nghiệp hoá chất đã tạo ra các hoá
chất tổng hợp như cao su tổng hợp, nhựa, các dung môi, thuốc trừ sâu v.v... đã tạo ra rất
5
nhiều chất khó phân huỷ và tồn dư lâu dài trong môi trường như DDT, 666, Dioxin v.v...
gây ra ô nhiễm môi trường nặng nề, dẫn tới sự phản đối kịch liệt của cộng đồng nhiều nước
trên thế giới trong suốt thời kỳ những năm 60 và 70 của thế kỷ 20.
Làn sóng lần thứ 2 về các vấn đề môi trường xẩy ra vào những năm giữa của thế
kỷ 20 với hai phong trào lớn là môi trường và sinh thái. Phong trào môi trường là việc
bảo tồn tài nguyên thiên nhiên, nhất là những tài nguyên không tái tạo. Kết quả là động
vật trên đất liền ở nhiều vùng thiên nhiên hoang dã, các vùng đất, biển quý hiếm khác,
cảnh quan thiên nhiên được bảo tồn và tôn tạo. Về phong trào sinh thái tập trung vào các
chất có thể gây độc cho con người hoặc có khả năng gây huỷ hoại môi trường. Kết quả
của những phong trào này cùng với Hội nghị của Liên hợp quốc về môi trường và con
người đã được tổ chức vào năm 1972 đã thuyết phục được nhiều chính phủ các nước
thông qua luật lệ nhằm hạn chế ô nhiễm công nghiệp và phát thải rác, phòng chống ô
nhiễm hoá học, đảm bảo chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm, thuốc, v.v...
Làn sóng lần thứ 3 về các vấn đề sức khoẻ môi trường là từ những năm 80, 90 đến nay,
ngoài những vấn đề ô nhiễm công nghiệp, hoá chất còn có các vấn đề về dioxit cac bon,
clorofluorocacbon gây thủng tầng ozon, vấn đề cân bằng môi trường, phát triển bền
vững, môi trường toàn cầu thay đổi, khí hậu toàn cầu nóng lên, v.v... sẽ còn phải giải quyết
trong nhiều thập kỷ tới.
HỘP 1.1. CÁC VÍ DỤ VỀ NHỮNG SỰ KIỆN SỨC KHOẺ MÔI TRƯỜNG
QUAN TRỌNG
- 1798 - Thomas Malthus xây dựng lý thuyết về phân bố tài nguyên và dân số
- 1848 - Quốc hội Anh thông qua Luật Y tế Công cộng
- 1895 - Svante Arrhenius mô tả hiện tượng hiệu ứng nhà kính
- 1899 - Hiệp định quốc tế đầu tiên về cấm vũ khí hoá học
- 1956 - Anh thông qua Luật Không khí Sạch
- 1962 - Việc xuất bản cuốn sách Mùa xuân Lặng lẽ (Silent Spring) của Rachel
Carson đã thu hút được sự chú ý tới vấn đề thuốc trừ sâu và môi trường
- 1969 - Hiệp định quốc tế đầu tiên về hợp tác trong trường hợp ô nhiễm biển
(Vùng Biển phía Bắc)
- 1972 - Hội nghị của Liên Hiệp Quốc về Môi trường và Con người, Stockholm;
DDT đã bị cấm sử dụng ở Mỹ
- 1982 - Hội nghị đa phương về sự a xít hoá môi trường đã khởi đầu quá trình dẫn
tới chính thức thừa nhận vấn đề ô nhiễm xuyên biên giới và nhu cầu về sự kiểm
soát quốc tế
- 1986 - Hội nghị quốc tế đầu tiên về nâng cao sức khoẻ (health promotion) thông
6
qua Hiến chương Ottawa, trong đó định nghĩa nâng cao sức khoẻ là tạo điều
kiện cho con người kiểm soát những yếu tố quyết định tới sức khoẻ của họ.
- 1987 - Báo cáo của Uỷ ban Brundtland "Tương lai chung của chúng ta" (Our
Common Future) đã kêu gọi hướng tới "phát triển bền vững"; Nghị định thư
Montreal về hạn chế phát thải clorofluorocacbon (CFC) vào không khí để giảm
tốc độ suy giảm tầng ozon ở tâng bình lưu
- 1992 - Hội nghị thượng đỉnh trái đất (Hội nghị của Liên Hiệp Quốc về Môi
trường và Phát triển), Rio de Janeiro
- 1994 - Hội nghị quốc tế về Dân số và Phát triển, Cairo
- 1995 - Hội nghị Thượng đỉnh của Liên Hiệp Quốc về Phát triển Xã hội,
Copenhagen
- 1996 - Hội nghị của Liện Hiệp Quốc về vấn đề định cư (HABITAT II), Istanbul
- 1997 - Hiệp định khung của Liên Hiệp Quốc về Thay đổi Khí hậu, Kyoto
Nguồn: Yassi và cộng sự, 2001
3. NỘI DUNG KHOA HỌC MÔN SỨC KHOẺ MÔI TRƯỜNG
Tất cả các khía cạnh của sức khoẻ môi trường là xác định, giám sát, kiểm
soát các yếu tố vật lý, hoá học, sinh học và xã hội có ảnh hưởng đến sức khoẻ con
người.
Thực hành sức khoẻ môi trường bao gồm đánh giá, kiểm soát và phòng ngừa các yếu tố
trong môi trường ảnh hưởng tiêu cực đến sức khoẻ con người, đồng thời phát huy các yếu
tố môi trường có lợi cho sức khoẻ. Việc này bao gồm tất cả các biện pháp cần thiết để đối
mặt với các vấn đề như suy thoái môi trường, thay đổi khí hậu, các nguy cơ môi trường như
ô nhiễm đất, nước, không khí, ô nhiễm thực phẩm, tiếp xúc với hoá chất và vấn đề rác thải
hiện nay. Thực hành sức khoẻ môi trường còn tạo điều kiện, cơ hội để nâng cao sức khoẻ
bằng cách lập kế hoạch nâng cao sức khoẻ và tiến tới xây dựng một môi trường có lợi cho
sức khoẻ. Các hoạt động sức khoẻ môi trường được thực hiện ở tất cả các cấp, bao gồm:
Xây dựng, phát triển các chiến lược và tiêu chuẩn, gồm:
- An toàn dân số
- Tư vấn cộng đồng, bảo vệ sức khoẻ trong các trường hợp khẩn cấp
- Theo dõi, quan trắc và xây dựng các tiêu chuẩn như tiêu chuẩn về nhà ở v.v...
- Nâng cao phát triển sức khoẻ
Phát triển và đưa ra các khuyến cáo về sức khoẻ môi trường:
- Cung cấp thông tin cho cộng đồng về sức khoẻ môi trường
- Nghiên cứu sức khoẻ môi trường
7
- Giáo dục sức khoẻ môi trường
Cần phải có kế hoạch xây dựng luật sức khoẻ môi trường
Quản lý môi trường vật lý:
- An toàn nước, nhất là an toàn nước ở khu giải trí - An toàn thực phẩm
- Quản lý chất thải rắn
- An toàn và sức khoẻ nghề nghiệp
- Phòng chống chấn thương
- Kiểm soát tiếng ồn
- Sức khoẻ và chất phóng xạ
Quản lý nguy cơ sinh học
Kiểm soát côn trùng và các động vật có hại
- Quản lý bệnh truyền nhiễm qua vật chủ trung gian truyền bệnh
- Kiểm soát vi sinh vật
Quản lý nguy cơ hoá học:
- Xây dựng các tiêu chuẩn an toàn hoá học cho không khí, đất, nước sinh hoạt,
nước thải và thực phẩm
- Sử dụng thuốc bảo vệ thực vật an toàn
- Đánh giá và quản lý các nguy cơ sức khoẻ ở các vùng bị ô nhiễm ví dụ như
dioxin, v.v...
- Kiểm soát thuốc, chất độc, các sản phẩm y dược khác - Chất độc học
- Kiểm soát thuốc lá
Bên cạnh đó còn nhiều các yếu tố khác cần phải kiểm soát như cung cấp đủ thức ăn dinh
dưỡng, cung cấp nước sạch, điều kiện vệ sinh và xử lý rác thải nhất là ở nông thôn hiện
nay; cung cấp nhà ở và bảo đảm mật độ dân số v.v...
Ngoài ra, còn một số các yếu tố khác nhất là khả năng tiềm tàng của các
nguy cơ môi trường và suy thoái môi trường tác động lên sức khoẻ do các đặc điểm
sau:
Thường xẩy ra sau một thời gian dài tiếp xúc
Các bệnh liên quan đến môi trường thường do hoặc liên quan đến nhiều nguyên
nhân khác nhau, ví dụ như viêm phế quản mãn tính có thể là do môi trường bị ô
nhiễm, do vi khuẩn, thể lực v.v.
Thực hành sức khoẻ môi trường sử dụng kiến thức và kỹ năng của nhiều lĩnh vực khác nhau
để tập trung giải quyết các vấn đề sức khoẻ tiềm tàng.
“Loài người là trung tâm của phát triển bền vững. Họ có quyền sống một cuộc sống khoẻ
8
mạnh và hoà hợp với tự nhiên”.
(Tuyên bố Rio de Janero về Môi trường và Phát triển)
4. QUAN HỆ GIỮA SỨC KHOẺ VÀ MÔI TRƯỜNG
Khi con người đầu tiên xuất hiện trên trái đất, tuổi thọ trung bình của họ chỉ
khoảng từ 30 đến 40 tuổi. Do sống trong môi trường khắc nghiệt, tuổi thọ của họ thấp
hơn nhiều so với tuổi thọ của con người trong xã hội hiện nay. Tuy vậy, 30 - 40 năm cũng đủ
để cho họ có thể sinh con đẻ cái, tự thiết lập cho mình cuộc sống với tư cách là một loài có
khả năng cao nhất trong việc làm thay đổi môi trường theo hướng tốt lên hay xấu đi.
Để có thể sống sót, những người tiền sử phải đối mặt với những vấn đề sau đây:
Luôn phải tìm kiếm nguồn thức ăn và nước uống trong khi tránh ăn phải những thực
vật có chứa chất độc tự nhiên (ví dụ nấm độc) hoặc các loại thịt đã bị ôi
thiu, nhiễm độc.
Bệnh nhiễm trùng và các ký sinh trùng được truyền từ người này sang người
khác hoặc từ động vật sang con người thông qua thực phẩm, nước uống hoặc các
côn trùng truyền bệnh
Chấn thương do ngã, hoả hoạn hoặc động vật tấn công
Nhiệt độ quá nóng hoặc quá lạnh, mưa, tuyết, thảm hoạ thiên nhiên (như bão lụt,
hạn hán, cháy rừng v.v.) và những điều kiện khắc nghiệt khác.
Những mối nguy hiểm đối với sức khoẻ con người luôn luôn xảy ra trong môi
trường tự nhiên. Trong một số xã hội, những “mối nguy hiểm truyền thống” trên đây vẫn
là những vấn đề sức khoẻ môi trường được quan tâm nhiều. Tuy nhiên, khi con người đã
kiểm soát được những mối nguy hiểm này ở một số vùng, thì những “mối nguy hiểm
hiện đại” do sự phát triển kỹ thuật, công nghiệp tạo ra cũng đã trở thành những mối đe doạ
đầu tiên đối với sức khoẻ và sự sống của con người. Một số ví dụ về các mối nguy hiểm môi
trường hiện đại là:
Môi trường đất, nước ở nông thôn bị ô nhiễm nghiêm trọng do sử dụng hóa chất
bảo vệ thực vật không đúng chủng loại, liều lượng và không đúng cách.
Các sự cố rò rỉ các lò phản ứng hạt nhân/ nhà máy điện nguyên tử, …
Sự thay đổi khí hậu toàn cầu, hiệu ứng nhà kính, v.v...
Trong một vài thập kỷ vừa qua, tuổi thọ của con người đã tăng lên đáng kể ở hầu hết
các quốc gia. Các nhà điều tra cho rằng có 3 lý do cơ bản dẫn tới việc tăng tuổi thọ
của con người:
Những tiến bộ trong môi trường sống của con người
Những cải thiện về vấn đề dinh dưỡng
Những tiến bộ trong chẩn đoán và điều trị y học đối với các loại bệnh tật
9
Những tiến bộ trong y tế luôn đi cùng với với những cải thiện về chất lượng môi
trường, dinh dưỡng và chăm sóc y tế. Ngày nay, những người ốm yếu có cơ hội sống sót cao
hơn nhiều do hệ thống chăm sóc y tế được cải thiện. Rất nhiều người luôn sống khoẻ mạnh,
do có nguồn dinh dưỡng tốt và kiểm soát tốt các mối nguy hiểm về sức khoẻ môi trường.
Khoa học môi trường là một môn học rất cần thiết và quan trọng dựa trên hai lý do
căn bản sau đây:
Nghiên cứu những mối nguy hiểm trong môi trường và những ảnh hưởng của
chúng lên sức khoẻ
Ứng dụng những phương pháp hiệu quả để bảo vệ con người khỏi những mối
nguy hại từ môi trường.
Muốn vậy chúng ta hãy xem xét thế nào là sức khoẻ và thế nào là môi trường?
Trước hết chúng ta hãy điểm qua vài nét về hệ sinh thái:
Ra đời từ những năm 1930, thuật ngữ “hệ sinh thái” có thể được định nghĩa như là
một hệ thống gồm những mối quan hệ tương tác qua lại giữa các sinh vật sống và môi
trường tự nhiên của chúng. Đó là một thực thể đóng đã đạt được các cơ chế tự ổn định và nội
cân bằng đã tiến hoá qua hàng thế kỷ. Trong Luật Bảo vệ Môi trường Việt Nam (2005), hệ
sinh thái được định nghĩa là “hệ quần thể sinh vật trong một khu vực địa lý tự nhiên nhất
định cùng tồn tại và phát triển, có tác động qua lại với nhau”.
Trong một hệ sinh thái ổn định, một loài này không loại trừ một loài khác, nếu
không thì nguồn cung cấp thức ăn cho những loài ăn thịt sẽ không tồn tại. Các hệ sinh thái
ổn định và cân bằng sẽ có tuổi thọ cao nhất. Một hệ sinh thái sẽ không thể duy trì được một
số lượng lớn vật chất và năng lượng được tiêu thụ bởi một loài mà lại không loại trừ một
loài khác, và thậm chí còn gây nguy hiểm cho khả năng tồn tại của toàn bộ hệ sinh thái.
Tương tự như vậy, khả năng của một hệ sinh thái trong việc chứa đựng chất thải và tái
tạo đất, nước ngọt không phải là vô hạn. Tại một thời điểm nào đó, những tác động từ bên
ngoài sẽ phá vỡ cân bằng của hệ sinh thái, dẫn đến sự thay đổi nhanh chóng hoặc làm huỷ
diệt hệ sinh thái đó.
Định nghĩa sức khoẻ và môi trường
Theo định nghĩa của Tổ chức Y tế Thế giới (1946) thì sức khoẻ là “trạng thái thoải
mái về cả tinh thần, thể chất và xã hội chứ không chỉ đơn thuần là vô bệnh, tật”. Khái
niệm bệnh, tàn tật và tử vong dường như được các nhân viên y tế đề cập tới nhiều hơn so
với khái niệm lý tưởng này về sức khoẻ. Do vậy “khoa học sức khoẻ” hầu như đã trở
thành “khoa học bệnh tật”, vì nó tập trung chủ yếu vào việc điều trị các loại bệnh và chấn
thương chứ không phải là nâng cao sức khoẻ.
Tương tự như vậy, nhiều định nghĩa về môi trường trong bối cảnh sức khoẻ đã
được đề cập. Theo một định nghĩa được đưa ra năm 1995, môi trường là “tất cả những gì ở
10
bên ngoài cơ thể con người. Nó có thể được phân chia thành môi trường vật lý, sinh học, xã
hội, văn hoá... Bất kì môi trường