Bài giảng môn Kiểm toán căn bản

Sau khi nghiên cứu chương này, người học có thể: - Làm rõ các khái niệm liên quan đến các từ khóa sau : kiểm tra, kiểm soát, thanh tra, nổi kiểm, ngoại kiểm, hiệu quả, hiệu năng. - Hiểu được phương pháp và vai trò của kiểm tra kế toán trong xã hội ngày nay. - Hiểu rõ và nắm bắt được các thông tin, số liệu liên quan đến lịch sử hình thành và phát triển của kiểm toán trên thế giới và tại Việt Nam. - Nắm rõ các quan điểm khác nhau về khoa học kiểm toán trong từng thời kỳ phát triển - Nắm được bản chất và chức năng của kiểm toán. - Phân tích và hiểu rõ tầm quan trọng, vai trò của kiểm toán trong nền kinh tế thị trường hiện nay.

doc233 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3209 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài giảng môn Kiểm toán căn bản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bài giảng môn Kiểm toán căn bản Chương 1 BẢN CHẤT VÀ CHỨC NĂNG CỦA KIỂM TOÁN MỤC TIÊU CHƯƠNG : Sau khi nghiên cứu chương này, người học có thể: - Làm rõ các khái niệm liên quan đến các từ khóa sau : kiểm tra, kiểm soát, thanh tra, nổi kiểm, ngoại kiểm, hiệu quả, hiệu năng.. - Hiểu được phương pháp và vai trò của kiểm tra kế toán trong xã hội ngày nay. - Hiểu rõ và nắm bắt được các thông tin, số liệu liên quan đến lịch sử hình thành và phát triển của kiểm toán trên thế giới và tại Việt Nam. - Nắm rõ các quan điểm khác nhau về khoa học kiểm toán trong từng thời kỳ phát triển - Nắm được bản chất và chức năng của kiểm toán. - Phân tích và hiểu rõ tầm quan trọng, vai trò của kiểm toán trong nền kinh tế thị trường hiện nay. THỜI LƯỢNG MÔN HỌC: 8h ( 5LT + 1BT + 2TL) NỘI DUNG: I.LỊCH SỬ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA KIỂM TOÁN 1.Kiểm tra, kiểm soát một chức năng của quản lý 1.1Khái niệm quản lý 1.1.1. Khái niệm quản lý: Quản lý là một lĩnh vực phổ biến, phong phú và phức tạp. Một nhà quản lý giỏi phải biết vận dụng một cách tổng hợp các điều kiện xã hội về kinh tế, chính trị, văn hóa vào trong quản lý. Quản lý là quá trình định hướng và tổ chức thực hiện các hướng đã định trên cơ sở các nguồn lực sẵn có nhằm đạt được hiệu quả cao nhất. Công tác quản lý bao gồm 3 yếu tố cơ bản sau: - Chủ thể quản lý: là những chủ thể tiến hành hoạt động quản lý bằng cách đề ra các quyết định, các quy chế và các văn bản mang tính pháp lý. - Khách thể quản lý: khách thể của quản lý đó là các doanh nghiệp, các tổ chức, các cá nhân chiu sự tác động của hoạt động quản lý. - Thông tin và các tín hiệu thông báo: đây là yếu tố đóng vai trò trong việc giúp chủ thể quản lý truyền đạt quyết định và thực hiện các quyết định đó đến các khách thể quản lý. 1.1.2. Các giai đoạn của quản lý: Mức độ phức tạp của hoạt động quản lý tùy thuộc vào quy mô của từng tổ chức, từng đơn vị và trong suốt quá trình đó, kiểm tra, kiểm soát luôn luôn tồn tại trước, trong và sau mỗi hoạt động. Về cơ bản, quy trình quản lý có thể tóm tắt qua 3 giai đoạn sau : Lập kế hoạch (định hướng) Tổ chức thực hiện kế hoạch Chỉ đạo thực hiện kế hoạch Như vậy, hoạt động kiểm tra, kiểm soát không phải là một pha hay một giai đoạn của quá trình quản lý mà là một chức năng gắn với mọi pha hay giai đoạn của quá trình đó. Nó sinh ra từ nhu cầu của quản lý và là một phần thiết yếu của quá trình đó. Nó hòa vào cả ba giai đoạn của quy trình quản lý: lập kế hoạch (định hướng), tổ chức thực hiện và chỉ đạo thực hiện. Với việc đề ra các quyết định, quy chế, các văn bản pháp lý, tổ chức thực hiện, tiến hành kiểm tra, kiểm soát lại việc thực hiện nhằm mục đích đạt hiệu quả cao trong quản lý. Như vậy, muốn quản lý đạt hiệu quả thì kiểm tra, kiểm soát là một yếu tố không thể thiếu. Kiểm tra, kiểm soát giúp cho các cơ quan quản lý nắm bắt kịp thời việc triển khai thực hiện các quyết định ban hành, xem xét các quyết định đó có đảm bảo thời gian thực hiện, tính thách thức, khả thi và đo lường được với mục tiêu đề ra hay không, để từ đó chấn chỉnh bổ sung kịp thời các quy chế, các văn bản không phù hợp với tình hình mới. Ngoài ra, thông qua kiểm tra, kiểm soát nhà quản lý có thể kịp thời ngăn chặn và sửa chữa các sai sót trong việc ra quyết định. Nói cách khác, hoạt động kiểm tra, kiểm soát giúp nhà quản lý tiết kiệm chi phí, sử dụng tối đa mọi nguồn lực trong doanh nghiệp nhằm đảm bảo mang lại hiệu quả cao nhất trên cơ sở các mục tiêu đề ra. Như vậy, kiểm tra, kiểm soát được sinh ra nhằm mục đích làm cho hoạt động quản lý có hiệu quả. Nó hòa vào tất cả các giai đoạn của quá trình quản lý. Cụ thể chúng ta sẽ phân tích chức năng của kiểm tra trong từng giai đoạn của quá trình quản lý : Giai đoạn định hướng (lập kế hoạch): Ở giai đoạn này chức năng kiểm tra hướng vào việc soát xét và dự báo về các nguồn lực nhằm đạt được các mục tiêu đề ra, để từ đó xây dựng các kế hoạch phù hợp. Mục tiêu đặt ra phải phù hợp với tình hình thực tế tại đơn vị và tình hình kinh tế, xã hội. Để mục tiêu đặt ra được thành công thì mục tiêu đó phải thỏa mãn bốn yếu tổ cơ bản sau: - Tính thách thức: yếu tố này đòi hỏi doanh nghiệp phải đặt ra mục tiêu cao trong một khoảng thời gian nhất định để từ đó cố gắng thực hiện và đạt được mục tiêu đề ra. Tuy nhiên, mục tiêu đặt ra phải phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội tại thời điểm đặt ra mục tiêu . - Tính khả thi: mục tiêu đặt ra phải phù hợp với tình hình thực tế tại đơn vị, phù hợp với nguồn lực hiện có tại đơn vị. - Tính đánh giá, đo lường và có thể định lượng được: tức mục tiêu đặt ra phải có thể đo lường, định lượng được bằng các con số cụ thể. - Thời gian thực hiện: mục tiêu đặt ra phải gắn liền với một khoảng thời gian cụ thể. Thời gian thực hiện có thể nhỏ hơn 1 năm (mục tiêu ngắn hạn) hoặc lớn hơn 1 năm (mục tiêu dài hạn). Việc xác định thời gian giúp cho các doanh nghiệp tiết kiệm được chi phí và nhanh chóng hoàn tất mục tiêu đặt ra. Sau khi xây dựng và kiểm tra các chương trình, kế hoạch doanh nghiệp có thể đưa ra quyết định cuối cùng để từ đó tổ chức thực hiện. Giai đoạn tổ chức thực hiện Ở giai đoạn này, kiểm tra hướng vào việc tập trung, bố trí nguồn nhân lực thích hợp để từ đó kết hợp các nguồn lực theo phương án tối ưu xét trên điều kiện hiện tại của doanh nghiệp và điều kiện kinh tế xã hội, đồng thời thông qua đó đánh giá sự kết hợp các nguồn lực theo phương án tối ưu. Giai đoạn chỉ đạo thực hiện Ở giai đoạn này, tập trung hướng vào việc kiểm tra diễn biến và kết quả của các quá trình để từ đó điều hòa các mối quan hê, điều chỉnh các định mức và mục tiêu trên quan điểm tối ưu hóa kết quả các hoạt động. Như vậy, trong từng giai đoạn hoạt động quản lý muốn đạt được hiệu quả thì cần gắn liền với chức năng kiểm tra, kiểm soát. Tuy nhiên, mức độ phức tạp của hoạt động kiểm tra, kiểm soát phụ thuộc rất nhiều yếu tố, đặc biệt là quy mô của doanh nghiệp. Nếu bộ máy quản lý giản đơn thì hoạt động kinh doanh ở đó giản đơn. Ngược lại, nếu ở đó bộ máy quản lý phức tạp, chặt chẽ thì hoạt động quản lý ở đó có quy mô tương đối rộng lớn. Như vậy, lúc đó ở mức độ cao hoạt động kiểm tra, kiểm soát được tách ra thành một hoạt động độc lập và được thực hiện bằng hệ thống chuyên môn độc lập. Kết luận: Từ tất cả những điều phân tích ở trên chúng ta có thể rút ra kết luận: kiểm tra, kiểm soát là một chức năng của quản lý. Kiểm tra, kiểm soát có ba đặc trưng cơ bản sau: - Một là, kiểm tra gắn liền với quản lý, đồng thời gắn liền với mọi hoạt động. Ở đâu có quản lý thì ở đó có kiểm tra. - Hai là, quản lý gắn liền với cơ chế kinh tế, với điều kiện xã hội cụ thể… Khi các điều kiện tiền đề nói trên thay đổi thì hoạt động kiểm tra cũng thay đổi theo. - Ba là, kiểm tra nảy sinh và phát triển từ chính nhu cầu quản lý. Khi nhu cầu kiểm tra chưa nhiều và chưa phức tạp, kiểm tra được thực hiện đồng thời với chức năng quản lý khác trên cùng một bộ máy thống nhất. Trái lại, khi nhu cầu thay đổi tới mức độ cao kiểm tra cũng cần tách ra một hoạt động độc lập và đuộc thực hiện bằng một hệ thống chuyên môn độc lập. Hoạt động kiểm tra phải được tiến hành bởi nhũng chủ thể quản lý có năng lực, kinh nghiệm và khả năng ngoại giao tốt. Ngoài ra, những chủ thể quản lý này còn phải có khả năng thẩm định các thông tin trên báo cáo, từ đó xem xét các thông tin này có đảm bảo tính trung thực, khách quan, có phản ánh đúng tình hình kinh doanh hiện có tại đơn vị. Kết quả kiểm tra không chỉ phản ánh tính cách, năng lực của nhà quản lý mà nó còn ảnh hưởng đến uy tín của đơn vị. 1.2 Cách thức thể hiện của kiểm tra, kiểm soát trong hệ thống quản lý: Kiểm tra, kiểm soát được sinh ra từ nhu cầu quản lý, nhưng do hoạt động quản lý đa dạng và phong phú nên kiểm tra cũng được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau tùy thuộc vào cơ chế kinh tế và cấp quản lý, vào loại hình hoạt động cụ thể, vào truyền thống văn hóa và những điều kiện kinh tế xã hội khác của mỗi nơi trong từng thời kỳ lịch sử. Song trên thưc tế chức năng kiểm tra chủ yếu được phân theo hai lĩnh vực chủ yếu sau: trong các cấp quản lý và trong các loại hình hoạt động. 1.2.1Trong các cấp quản lý Trong nền kinh tế có rất nhiều mô hình quản lý khác nhau tùy thuộc vào bộ máy Nhà nước ở mỗi quốc gia nhưng chung nhất người ta thường phân thành quản lý vĩ mô và quản lý vi mô. + Cấp quản lý vĩ mô (cấp Nhà nước) Nói đến tầm vĩ mô là nói đến cơ quan Nhà nước. Nhà nước vừa là chủ sở hữu, vừa là người điều tiết mọi hoạt động cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Trong nền kinh tế, Nhà nước tham gia vào việc quản lý, phát triển kinh tế, tham gia vào phân phối lần đầu và phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân. Nhà nước có nghĩa vụ kiểm tra, kiểm soát các doanh nghiệp, các đơn vị trong nền kinh tế. Nghĩa vụ đó thông qua việc kiểm tra dưới hai hình thức: kiểm tra trực tiếp và kiểm tra gián tiếp. - Kiểm tra trực tiếp: đây là hình thức mà Nhà nước trực tiếp tiến hành kiểm tra thông qua bộ máy chuyên môn của Nhà nước. Đối tượng chịu sự kiểm tra đó là các doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước. Mục đích của việc kiểm tra này là cung cấp các thông tin lại cho Nhà nước, từ đó giúp Nhà nước điều phối nền kinh tế. Ở nước ta, Nhà nước với tư cách là chủ sở hữu trực tiếp, người giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân sẽ tiến hành kiểm tra các nguồn lực, mục tiêu, kế hoạch, định mức, chương trình, quá trình thực hiện và kết quả thực hiện của các đơn vị mình, kiểm tra tính trung thực, đúng đắn của các thông tin cũng như tính pháp lý thực hiện các nghiệp vụ, từ đó đưa ra các chính sách phát triển phù hợp. Việc kiểm tra của Nhà nước không có thời gian quy định cụ thể, có thể thực hiện thường xuyên, định kỳ hoặc đột xuất. Tính chất của kiểm tra trực tiếp đó là có ngay các kết luận, đôi khi có ngay các quyết định điều chỉnh, xử lý. Công việc kiểm tra này gọi là thanh tra. - Kiểm tra gián tiếp: đây là hình thức mà Nhà nước tiến hành kiểm tra thông qua kết quả của các chuyên gia hay một tổ chức kiểm tra độc lập mà không trực tiếp tham gia vào cuộc kiểm tra. Mục đích chính của kiểm tra gián tiếp là giúp Nhà nước thực hiện điều tiết vĩ mô nền kinh tế thông qua các chính sách pháp luật phù hợp với điều kiện thực tế. Tính chất của việc kiểm tra gián tiếp đó là việc kiểm tra thông qua một tổ chức bên ngoài doanh nghiệp hoặc các chuyên gia để từ đó điều chỉnh, xử lý sai phạm gọi là ngoại kiểm + Cấp quản lý vi mô (cấp đơn vị cơ sở) Nói đến tầm vi mô là đề cập đến các doanh nghiệp, các tổ chức, các đơn vị cơ sở đang hoạt động trong nền kinh tế. Để đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiêp trước môi trường cạnh tranh khốc liệt, đòi hỏi các doanh nghiệp trong quá trình hoạt động của mình phải tăng cường rà soát nguồn lực, xem xét lại các dự báo mục tiêu, các định mức… để từ đó kịp thời đưa ra phương hướng phát triển kinh doanh phù hợp với tình hình thực tế tại đơn vị cũng như nhu cầu của nền kinh tế. Công việc kiểm tra được thực hiện bởi những người bên trong doanh nghiệp nhằm điều chỉnh kịp thời các sai phạm trên cơ sở đảm bảo “hiệu quả hoạt động kinh doanh và hiệu năng quản lý” gọi là nội kiểm 1.2.2 Trong các loại hình hoạt động Trong nền kinh tế, cũng có nhiều loại hình hoạt động khác nhau. Song theo mục tiêu của các hoạt động, người ta thường phân thành hai loại cơ bản sau: hoạt động kinh doanh và hoạt động sự nghiệp. + Hoạt động kinh doanh Đây là hoạt động mà lợi nhuận được đặt lên hàng đầu, lấy lợi nhuận làm mục tiêu trong kinh doanh, coi lợi nhuận là thước đo chất lượng hoạt động của doanh nghiệp. Mục tiêu chủ yếu của hoạt động này đó là làm sao phải tối thiểu hóa chi phí và tối đa hóa lợi nhuận. Do đó, kiểm tra sẽ hướng vào việc xem xét tính hiệu quả trong việc sử dụng các nguồn lực để sản xuất kinh doanh như vốn, lao động, tài nguyên… + Hoạt động sự nghiệp Nếu hoạt động kinh doanh lấy lợi nhuận làm mục tiêu hàng đầu trong phương hướng kinh doanh của mình, thì ngược lại hoạt động sự nghiệp lại lấy lợi ích cộng đồng, hướng về việc phục vụ xã hội làm mục tiêu hàng đầu. Do vậy, kiểm tra hướng vào việc xem xét sự hữu hiệu của quản lý hay nói cách khác có thực hiện tốt các nhiệm vụ xã hội trên cơ sở tiết kiệm chi phí. 1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến kiểm tra, kiểm soát. Hoạt động kiểm tra, kiểm soát là một chức năng của quản lý, nó được sinh ra từ nhu cầu quản lý. Nhưng quản lý lại gắn với cơ chế chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… Chính vì thế, kiểm tra, kiểm soát cũng gắn liền với những tác động của các yếu tố trên. - Về pháp lý (legal): bất kể quốc gia nào trên thế giới cũng đều đặt ra luật pháp nhằm kiểm soát nền kinh tế nói chung và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nói riêng. Doanh nghiệp nào tồn tại trong nền kinh tế đều phải hoạt động theo khuôn khổ pháp luật của quốc gia đó. Chính vì vậy, kiểm tra, kiểm soát cũng phải dựa trên hệ thống pháp luật. Khi pháp luật thay đổi thì kiểm tra, kiểm soát cũng phải thay đổi theo. - Về xã hội (social): Khi nhận thức xã hội thấp thì hoạt động kiểm tra, kiểm soát phát triển ở mức thấp. Ngược lại, khi nhận thức xã hội phát triển hơn thì kiểm tra, kiểm soát tiến tới một mức độ khác. Nói cách khác, hoạt động kiểm tra, kiểm soát phát triển tương ứng với trình độ nhận thức của con người. - Về cơ chế kinh tế (economic mechanism): trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, kiểm tra kiểm tra do bộ máy chuyên môn của Nhà nước thực hiện vì Nhà nước vừa là chủ sở hữu vừa là người quản lý nền kinh tế. Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường bao gồm nhiều thành phần kinh tế, hoạt dộng kiểm tra, kiểm soát cũng phát triển dưới nhiều hình thức khác nhau. Ngoài ra, kiểm tra, kiểm soát còn chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố trong nền kinh tế như lối sống, văn hóa, kinh tế… Như vậy, kiểm tra, kiểm soát là một chức năng tất yếu của quản lý. Ở những khu vực khác nhau thì kiểm tra, kiểm soát khác nhau. Ở đâu xã hội càng phát triển thì ở đó sẽ kéo theo sự phát triển không ngừng của hoạt động kiểm tra, kiểm soát. 2. Kiểm tra kế toán 2.1 Khái quát chung về kiểm tra kế toán Trong tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh của con người luôn luôn tồn tại hoạt động tài chính, tài chính luôn là tổng hòa các mối quan hệ kinh tế, tổng thể các nội dung và giải pháp tài chính, tiền tệ. Tài chính không chỉ đóng vai trò khai thác nguồn lực mà còn giúp cho các doanh nghiệp quản lý và sử dụng hiệu quả các nguồn lực đó. Và một trong các công cụ đắc lực trong việc quản lý kinh tế, tài chính đó là hạch toán kế toán. Nó giúp cho các doanh nghiệp điều hành và kiểm soát các hoạt động kinh tế. Nó không chỉ cần thiết cho các hoạt động tài chính của Nhà nước mà còn là công cụ cần thiết cho hoạt động tài chính của doanh nghiệp. Nếu trước đây hoạt động kế toán chỉ ở mức độ đơn giản, chủ yếu là giữ sổ và ghi chép sổ sách kế toán thì ngày nay, cùng với sự phát triển của xã hội, ngày càng có nhiều của cải dư thừa, hoạt động kế toán ngày càng được mở rộng và phức tạp thì việc kiểm tra, kiểm soát về kế toán ngày càng được quan tâm với mức độ cao hơn. Nói cách khác, kiểm tra kế toán đã không còn thuần túy như trước, lúc này kế toán phải tiến hành tổ chức hệ thống thông tin, đo lường, xử lý và truyền đạt những thông tin có ích cho việc ra quyết định kinh tế. Để thực hiện hai chức năng cơ bản của mình: thông tin và kiểm tra, kế toán cần có một hệ thống phương pháp kế toán riêng biệt. Với một hệ thống kế toán riêng, kế toán có thể đem lại những thông tin trung thực từ đó đảm bảo quyền lợi cho những đối tượng cần quan tâm. Mặt khác, nó còn giúp cho quản trị đưa ra các quyết định đúng đắn trong việc lựa chọn các phương hướng kinh doanh cho doanh nghiệp. Chính vì lý do đó mà công tác kiểm tra kế toán ngày càng được chú trọng ở mọi khâu, mọi phần hành, mọi lĩnh vực. Kiểm tra kế toán là một hệ thống công việc được tiến hành dựa trên các phương pháp và kỹ thuật riêng biệt nhằm đảm bảo tính trung thực, hợp lý của các thông tin tài chính đồng thời ngăn và chấn chỉnh các sai lầm. Thông qua việc kiểm tra, một mặt Nhà nước có thể đưa ra phương hướng phát triển nền kinh tế trên tầm vĩ mô, một mặt doanh nghiệp có thể đưa ra được phương án kinh doanh đạt hiệu quả trong từng thời kỳ nhất định. 2.2 Vai trò của kiểm tra kế toán Ngày nay kiểm tra kế toán thường hướng tới các nhiệm vụ chủ yếu sau: - Kiểm tra việc phản ánh, ghi chép của kế toán chính xác, kịp thời đầy đủ, đúng sự thật, rõ ràng, đúng chế độ, chứng từ, sổ sách phản ánh đúng nghiệp vụ kinh tế phát sinh. - Kiểm tra tính hợp pháp, hợp lý của các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong quá trình kinh doanh. - Kiểm tra việc quản lý tài sản, vật tư, tiền vốn, phát hiện ngăn chặn các vi phạm tài chính Nhìn chung, kiểm tra kế toán có những vai trò cơ bản sau: - Thúc đẩy các cơ quan, tổ chức củng cố bộ máy tổ chức kế toán, nâng cao tinh thần trách nhiệm của kế toán trưởng. - Thúc đẩy kế toán thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của mình. - Phản ánh tình hình tài chính tại đơn vị giúp cho nhà quản lý có thể đưa ra những quyết định kịp thời. - Phục vụ kịp thời công tác kiểm tra kế toán cho các tổ chức thanh tra, cơ quan thuế và tổ chức kiểm toán. - Phản ánh được thực trạng tài chính của doanh nghiệp, từ đó giúp Nhà nước đưa ra các biện pháp điều tiết nền kinh tế phù hợp bằng cách sửa đổi, bổ sung và ban hành các văn bản. 2.3 Các phương pháp kế toán Một trong những đặc trưng cơ bản của kế toán đó là chức năng của kế toán: thông tin và kiểm tra không chỉ trên cả chu trình kế toán mà còn ngay trên từng yếu tố của chu trình đó. Nó được thể hiện cụ thể qua các yếu tố sau: + Phương pháp chứng từ - Chức năng thông tin: các chứng từ truyền đạt các thông tin về các sự kiện kinh tế phát sinh trong đơn vị, thông tin về tình hình tài chính đơn vị. - Chức năng kiểm tra: với vai trò minh chứng về các sự kiện kinh tế đã xảy ra, việc kiểm tra chứng từ sẽ giúp cho kế toán xem xét lại tính hợp lý, hợp lệ và hợp pháp của chứng từ. + Phương pháp đối ứng tài khoản - Chức năng thông tin: phương pháp này cung cấp những thông tin về sự vận động và phân loại tài sản, công nợ, vốn chủ sở hữu. - Chức năng kiểm tra: kiểm tra các quan hệ cân đối, xem xét một nghiệp vụ kinh tế phát sinh có sự cân đối giữa tổng phát sinh bên Nợ bằng tổng phát sinh bên Có. + Phương pháp tính giá - Chức năng thông tin: phương pháp này đòi hỏi kế toán phải thực hiện đo lường về sự biểu hiện và tổng hợp số tiền hoặc chi phí dựa theo những nguyên lý kế toán về tất cả tài sản cũng như nguồn hình thành tài sản đó. - Chức năng kiểm tra: đối chiếu giữa số liệu tổng hợp và các thành phần chi tiết cấu tạo nên con số tổng hợp đó. Kiểm tra chi phí, tài sản và nguồn hình thành nên tài sản. + Phương pháp tổng hợp- cân đối - Chức năng thông tin: cung cấp các thông tin tổng hợp về thình hình tài chính, kết quả kinh doanh, dòng tiền của đơn vị, có ý nghĩa thiết thực đối với người sủ dụng thông tin. - Chức năng kiểm tra: kiểm tra kết quả cân đối trong các thông tin kinh tế như: Tổng tài sản = Tổng nguồn vốn Lợi nhuận = Doanh thu – Chi phí. Như vậy, kiểm tra là thuộc tính cố hữu của kế toán. Thông qua đó các kiểm toán viên có thể kiểm tra chéo, đối chiếu số liệu giữa các phần hành. Nhưng đến những năm 30 của thế kỷ 20, đứng trước sự sụp đổ hàng loạt của các công ty tài chính, các công ty bất động sản ở Bắc Mỹ, kiểm tra kế toán đã bộc lộ những nhược điểm nhất định của mình và không đáp ứng được nhu cầu mới của nhà quản lý. Xuất phát từ yêu cầu đòi hỏi có một hoạt động đảm bảo cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác, trung thực và có khả năng kiểm tra được các hoạt động tài chính, do đó hoạt động kiểm toán đã ra đời nhằm đáp ứng đầy đủ hơn nhu cầu của xã hội. 3. Lịch sử hình thành và phát triển của kiểm toán 3.1 Lịch sử ra đời và phát triển của kiểm toán trên thế giới Trong tất cả hoạt động sản xuất kinh doanh của con người luôn luôn tồn tại hoạt động tài chính. Đây được xem là hoạt động đòi hỏi sự kiểm tra ở mức độ cao nhất, thường xuyên cao nhất. Nó gắn liền với mọi lĩnh vực (sản xuất hay dịch vụ), với mọi mục tiêu (kinh doanh hay sự nghiệp công cộng), và không phân biệt sở hữu (công cộng hay tư nhân). Việc kiểm tra hoạt động tài c