Khái niệm. Nghĩa vụ cấp dưỡng là sự biểu đạt vật chất của tình đoàn kết giữa các thành viên trong cùng một gia đình, là nghĩa vụ mà luật áp đặt đối với một thành viên gia đình, theo đó thành viên này phải giúp đỡ thành viên khác, về phương diện vật chất, trong điều kiện thành viên khác sống trong tình trạng túng quẩn và không thể tự mình giải quyết vấn đề ổn định điều kiện sống vật chất của mình.
8 trang |
Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 2344 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài giảng Nghĩa vụ cấp dưỡng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BÀI THỨ SÁU:
NGHĨA VỤ CẤP DƯỠNG
*******
MỤC I: QUYỀN YÊU CẦU CẤP DƯỠNG
Người có quyền được cấp dưỡng
Điều kiện phát sinh quyền yêu cầu
MỤC II: THỰC HIỆN NGHĨA VỤ CẤP DƯỠNG
Xác định mức cấp dưỡng
Chế độ pháp lý của nghĩa vụ cấp dưỡng
Thể thức thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng
MỤC III: CHẤM DỨT NGHĨA VỤ CẤP DƯỠNG
Khái niệm. Nghĩa vụ cấp dưỡng là sự biểu đạt vật chất của tình đoàn kết giữa các thành viên trong cùng một gia đình, là nghĩa vụ mà luật áp đặt đối với một thành viên gia đình, theo đó thành viên này phải giúp đỡ thành viên khác, về phương diện vật chất, trong điều kiện thành viên khác sống trong tình trạng túng quẩn và không thể tự mình giải quyết vấn đề ổn định điều kiện sống vật chất của mình.
Ta đã có dịp nhắc đến nghĩa vụ cấp dưỡng trong trường hợp vợ và chồng ly hôn. Thực ra, trong thời kỳ hôn nhân, vợ và chồng đã có nghĩa vụ nuôi dưỡng đối với nhau và đã thường xuyên thực hiện nghĩa vụ đó. Ta nói rằng nghĩa vụ cấp dưỡng là biến thể của của nghĩa vụ nuôi dưỡng, ghi nhận trong trường hợp quan hệ vợ chồng chấm dứt do ly hôn.
Một cách tổng quát, nghĩa vụ cấp dưỡng là một hình thức thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng và hình thức này xuất hiện khi mà các bên trong quan hệ nghĩa vụ nuôi dưỡng không còn chung sống dướïi một mái nhà hoặc có quan hệ tình cảm diễn biến theo chiều hướng xấu đến mức việc thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng không còn có thể dựa vào ý thức tự giác.
MỤC I. QUYỀN YÊU CẦU CẤP DƯỠNG
1. Người có quyền được cấp dưỡng
TOP
Ðã nói rằng người có nghĩa vụ cấp dưỡng đồng thời cũng là người có nghĩa vụ nuôi dưỡng. Bởi vậy, để xác định những người có quyền yêu cầu cấp dưỡng, chỉ cần đi tìm những người mà theo quy định của luật, có quyền được người khác nuôi dưỡng. Suy cho cùng tất cả những người có quyền yêu cầu cấp dưỡng đều là thành viên gia đình; nhưng không phải thành viên nào của gia đình cũng có quyền yêu cầu cấp dưỡng.
Vợ và chồng. Cha mẹ và con. Vợ và chồng phải có quan hệ hôn nhân hợp pháp thì mới xác lập được quan hệ nghĩa vụ cấp dưỡng: người chung sống như vợ hoặc chồng với một người khác, không có quyền yêu cầu người cùng chung sống cấp dưỡng cho mình; cũng như vậy, trong trường hợp một người chung sống với một người khác và có đăng ký kết hôn, nhưng sau đó hôn nhân bị hủy theo một quyết định của Tòa án.
Trái lại, việc xác lập nghĩa vụ cấp dưỡng giữa cha mẹ và con không lệ thuộc vào tính chất của quan hệ chung sống giữa cha và mẹ: con ngoài giá thú, con ngoại tình, thậm chí con loạn luân đều có quyền yêu cầu cha mẹ cấp dưỡng, như con từ hôn nhân hợp pháp, và ngược lại[1]. Quan hệ cha mẹ-con cũng có thể có nguồn gốc từ việc nhận con nuôi: giữa cha mẹ nuôi và con nuôi cũng có quan hệ nghĩa vụ cấp dưỡng như giữa cha mẹ và con ruột.
Ông bà nội (ngoại) và cháu.Chỉ giữa ông bà và cháu trực hệ mới có quan hệ nghĩa vụ nuôi dưỡng và do đó, mới có quan hệ nghĩa vụ cấp dưỡng. Hơn nữa, quan hệ trực hệ phải là quan hệ huyết thống: luật Việt Nam hiện hành không xây dựng khái niệm ông nuôi, cháu nuôi. Luật còn giới hạn cấp độ thân thuộc trực hệ trong việc xác định chủ thể của nghĩa vụ cấp dưỡng: ông cóc không có nghĩa vụ nuôi dưỡng chắt và ngược lại.
Anh chị em. Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa anh chị em là nét đặc trưng của luật hôn nhân và gia đình Việt Nam hiện hành[1]. Sự đoàn kết giữa anh chị em là mối quan hệ gắn liền với quan niệm về gia đình truyền thống gồm có ông, bà, cha, mẹ và con. Dẫu sao, có thể tin rằng theo sự giảm dần của tỷ lệ gia đình đông con do hiệu quả của chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình, quan hệ nghĩa vụ cấp dưỡng giữa anh chị em đến lúc nào đó sẽ chỉ còn có giá trị lý thuyết.
2. Ðiều kiện phát sinh quyền yêu cầu
TOP
Có sự túng thiếu của một bên và sự tồn tại khả năng hỗ trợ của bên kia. Nếu tất cả đều túng thiếu, thì mỗi người phải tự xoay sở. Nếu tất cả đều không túng thiếu, thì không ai có trách nhiệm cấp dưỡng cho ai. Ðể nghĩa vụ cấp dưỡîng được xác lập, cần có một bên sống trong cảnh túng thiếu và bên kia có đủ điều kiện để hỗ trợ. Sự túng thiếu của một bên, trong suy nghĩ của người làm luật, có nguồn gốc từ tình trạng không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Hẳn, thế nào là không có khả năng lao động tùy thuộc vào sự đánh giá của thẩm phán. Người thất nghiệp chưa chắc là không có khả năng lao động; người tật nguyền cũng có thể có khả năng lao động;...
Cần lưu ý rằng nếu một bên có đủ khả năng và bên kia túng thiếu, thì vấn đề xác lập nghĩa vụ cấp dưỡng có thể được đặt ra. Ngay nếu như người có khả năng là người chưa thành niên hoặc người đã thành niên mà không nhận thức được hành vi của mình, thì nghĩa vụ cấp dưỡng vẫn có thể ràng buộc người này: việc thực hiện nghĩa vụ đó được bảo đảm bằng vai trò của người giám hộ. Người làm luật chưa dự kiến trường hợp này, nhưng khả năng chịu nghĩa vụ cấp dưỡng của người chưa thành niên hoặc đã thành niên mà không nhận thức được hành vi của mình, là không thể tranh cãi.
Vấn đề là, trong nhiều trường hợp, chính người được yêu cầu cấp dưỡng cũng chỉ sống trong điều kiện vật chất khá hơn người yêu cầu một chút và cũng chưa có khả năng đáp ứng đầy đủ các nhu cầu thiết yếu của mình và của gia đình mình. Thông thường, các bên trong trường hợp này sẽ tự mình giải quyết những bất đồng: có thể người được yêu cầu sẽ cho; nhưng cũng có thể người được yêu cầu không cho và người yêu cầu tự động ra đi. Nếu có kiện cáo, thì Tòa án chỉ hòa giai; nếu hòa giải không được, thì bác đơn yêu cầu cấp dưỡng, bởi khả năng thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng hầu như không có.
Ly hôn. Bản thân sự kiện ly hôn đủ để chuyển nghĩa vụ nuôi dưỡng giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con, thành nghĩa vụ cấp dưỡng. Bởi vậy, con được cấp dưỡng sau khi ly hôn không chỉ là con đã thành niên nhưng không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình mà cả con chưa thành niên (Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Ðiều 56). Tuy nhiên, trong mối quan hệ cha mẹ và con, nghĩa vụ cấp dưỡng do ly hôn chỉ mang tính một chiều: cha hoặc mẹ không trực tiếp nuôi con, thì phải cấp dưỡng. Không bao giờ có chuyện chỉ vì lý do ly hôn giữa cha và mẹ mà con phải có nghĩa vụ cấp dưỡng cho cha hoặc mẹ không chung sống với mình.
Có sự vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng. Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Ðiều 50 khoản 2, trong trường hợp người có nghĩa vụ nuôi dưỡng trốn tránh nghĩa vụ, thì người này có thể bị buộc phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Trong chừng mực đó, nghĩa vụ cấp dưỡng được ghi nhận như một biện pháp chế tài đối với người vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng. Có thể ghi nhận từ câu chữ của điều luật giả định ngầm theo đó, các đương sự trong điều luật, trên nguyên tắc, phải là những người cùng chung sống dưới một mái nhà. Cá biệt vợ và chồng, cha mẹ và con có thể sống riêng mà vẫn ràng buộc lẫn nhau bởi nghĩa vụ nuôi dưỡng.
Nghĩa vụ cấp dưỡng: hình thức lựa chọn để thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng. Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Ðiều 58 và 59, anh chị em có nghĩa vụ cấp dưỡng đối với nhau trong trường hợp không sống chung. Ta nói rằng nghĩa vụ cấp dưỡng trong trường hợp này được lựa chọn như hình thức thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng: thay vì đón người được nuôi dưỡng về nhà của mình để chung sống người có nghĩa vụ nuôi dưỡng giao cho người được nuôi dưỡng một số tiền và để người này sống riêng ở nơi khác. Giải pháp tương tự cũng được xây dựng cho trường hợp giữa các đương sự có quan hệ ông bà-cháu hoặc cha mẹ-con (Ðiều 59 khoản 1 và 57).
Cần lưu ý rằng đón người có quyền được nuôi dưỡng về sống chung trong nhà chưa phải là điều kiện đủ để không phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Người tiếp nhận còn phải thực sự nuôi dưỡîng người được tiếp nhận, nghĩa là phải bảo đảm theo khả năng của mình, việc đáp ứng những nhu cầu thiết yếu của người sau này. Nếu chỉ đón về nhà mà không nuôi, thì người tiếp nhận có thể bị buộc phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng theo yêu cầu của người được tiếp nhận.
Trường hợp người cần được cấp dưỡng có lỗi. Trong khung cảnh của luật thực định, chỉ cần người có quyền yêu cầu cấp dưỡng lâm vào cảnh túng thiếu và người có nghĩa vụ cấp dưỡng có đủ điều kiện để hỗ trợ, thì nghĩa vụ cấp dưỡng có cơ sở để được xác lập. Thực ra, có trường hợp tình trạng túng thiếu của một bên và tình trạng đủ khả năng của bên kia đã từng xảy ra trước đó nhưng lại có chủ thể được đảo lộn: người hiện có khả năng đã từng lâm vào cảnh túng thiếu và người hiện túng thiếu lại đã từng có khả năng. Giả sử thêm rằng người hiện có khả năng đã từng yêu cầu người hiện túng thiếu cấp dưỡng cho mình và người sau này đã từ chối. Liệu nay người hiện có khả năng có quyền từ chối cấp dưỡng cho người hiện túng thiếu như một biện pháp trả đũa chính đáng ? Có vẻ như từ câu chữ của luật viết, ta chỉ có thể trả lời phủ định đối với câu hỏi trên: khi một người túng thiếu có yêu cầu, thì người có đủ khả năng phải đáp ứng, dù có thể trước đó, người túng thiếu đã từng có đủ khả năng và đã từ chối cấp dưỡng cho người đủ khả năng lúc người sau này đang túng thiếu.
MỤC II. THỰC HIỆN NGHĨA VỤ CẤP DƯỠNG
1. Xác định mức cấp dưỡng
TOP
Xác định theo thỏa thuận. Mức cấp dưỡng do người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó[1] thỏa thuận căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng (Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Ðiều 53 khoản 1). Các quy định vừa nêu chỉ mang tính hướng dẫn: các bên có thể tự do thỏa thuận về việc người được cấp dưỡng được bảo đảm nhiều hơn hoặc ít hơn so với nhu cầu thiết yếu của mình.
Sự thỏa thuận có thể mặc nhiên: người có nghĩa vụ cấp dưỡng giao cho người có quyền yêu cầu cấp dưỡng một số tiền hoặc hiện vật và người sau này chấp nhận. Tuy nhiên, sự thỏa thuận mặc nhiên chỉ có thể được ghi nhận trong trường hợp người có quyền yêu cầu cấp dưỡng và người có nghĩa vụ cấp dưỡng không cùng chung sống dưới một mái nhà và giữa họ chỉ có quan hệ ông bà-cháu hoặc quan hệ anh chị em. Thực vậy, nếu các đương sự sống chung với nhau, thì làm thế nào phân biệt được ý chí cấp dưỡng và ý chí nuôi dưỡng thể hiện trong việc một người giao cho người kia một số tiền hoặc một số hiện vật ? Còn nếu giữa các đương sự có quan hệ vợ chồng hoặc quan hệ cha mẹ-con, thì việc các đương sự ở riêng đồng thời việc giao nhận các tài sản để phục vụ sinh hoạt vẫn là dấu hiệu của nghĩa vụ nuôi dưỡng chứ không phải của nghĩa vụ cấp dưỡng.
Xác định bằng con đường tư pháp. Trong trường hợp giữa các bên không có sự thỏa thuận cần thiết về mức cấp dưỡng, thì một trong các bên hoặc cả hai bên có thể yêu cầu Tòa án giải quyết. Tất nhiên, Tòa án cũng sẽ căn cứ vào nhu cầu của người có quyền được cấp dưỡng và khả năng đáp ứng của người có nghĩa vụ cấp dưỡng để xác định mức cấp dưỡng khả thi.
Trong điều kiện luật không có quy định riêng, các tranh chấp về mức cấp dưỡng được giải quyết theo luật chung về tố tụng dân sự, nghĩa là có thể được kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm, có thể được xét lại theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Song, liệu có nên quy định rằng bản án sơ thẩm phải được thi hành ngay dù có kháng cáo ? Sự chờ đợi có thể khiến cho tình trạng sống khó khăn của người yêu cầu cấp dưỡng trở nên nghiêm trọng hơn.
Thay đổi mức cấp dưỡng. Mức cấp dưỡng được thỏa thuận hoặc được ấn định bằng con đường tư pháp không nhất thiết được cố định trong suốt thời gian cấp dưỡng: Khi có lý do chính đáng, mức cấp dưỡng có thể thay đổi (Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Ðiều 53 khoản 2). Việc thay đổi mức cấp dưỡng do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được, thì yêu cầu Tòa án giải quyết. Luật không nói rõ liệu có cần một thời gian tối thiểu để mức cấp dưỡng có thể thay đổi, nhất là bằng con đường tư pháp. Thực tiễn, về phần mình, thừa nhận rằng Tòa án có thể bác đơn yêu cầu thay đổi mức cấp dưỡng trong trường hợp đơn được nộp chỉ sau một thời gian quá ngắn kể từ ngày mức đó được ấn định, quá ngắn để nói rằng điều kiện sống của người này hay người kia đã có những thay đổi quan trọng đủ để đặt cơ sở cho việc xét lại tính hợp lý của mức cấp dưỡng[1].
2. Chế độ pháp lý của nghĩa vụ cấp dưỡng
TOP
Tính hỗ tương. Tình đoàn kết gia đình, do bản chất, có tính hỗ tương. Bởi vậy, quan hệ nghĩa vụ cấp dưỡng cũng mang tính hỗ tương giữa các chủ thể: một người, trong những hoàn cảnh nhất định, có thể trở thành người cần được cấp dưỡng và, trong những hoàn cảnh nhất định khác, trở thành người có khả năng cấp dưỡng.
Không thể được chuyển nhượng và không thể bị kê biên. Quyền được cấp dưỡng là quyền gắn với nhân thân của người được cấp dưỡng, do đó, không thể được chuyển nhượng và không thể bị kê biên (Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Ðiều 50 khoản 1). Luật nói thêm rằng quyền này cũng không thể được thay thế bằng một quyền khác. Không thể được chuyển nhượng, quyền được cấp dưỡng không thể là đối tượng của một vụ bù trừ nghĩa vụ (BLDS Ðiều 387 khoản 3).
3. Thể thức thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng
TOP
Thực hiện không đương nhiên. Việc một người lâm vào cảnh túng thiếu và người khác có đủ điều kiện để cấp dưỡng không đương nhiên làm phát sinh nghĩa vụ cấp dưỡng: cho đến khi nào có người lên tiếng yêu cầu và người có đủ điều kiện chấp nhận, thì người có đủ điều kiện chỉ bị ràng buộc bởi nghĩa vụ nuôi dưỡng và nghĩa vụ này không bao giờ được cụ thể hóa bằng con số. Nói rõ hơn, nghĩa vụ cấp dưỡng chỉ được thực hiện một khi người có quyền yêu cầu cấp dưỡng lên tiếng yêu cầu. Có hai khả năng:
- Khả năng thứ nhất: người được yêu cầu chấp nhận yêu cầu cấp dưỡng. Khi đó, các bên còn phải tiếp tục thương lượng để đi đến thỏa thuận về việc xác định mức cấp dưỡng và thể thức thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.
- Khả năng thứ hai. Người được yêu cầu không chấp nhận yêu cầu cấp dưỡng. Khi đó, người yêu cầu phải kiện trước Tòa án để buộc người được yêu cầu thực hiện nghĩa vụ đó.
Tuy nhiên, như đã nói, quan hệ cấp dưỡng có thể được hình thành từ thỏa thuận mặc nhiên, trong trường hợp các bên không cùng chung sống dưới một mái nhà. Bởi vậy có thể hình dung một trường hợp xác lập nghĩa vụ cấp dưỡng như sau: người có nghĩa vụ chủ động gợi ý và người có quyền yêu cầu cấp dưỡng, có thể mong muốn được cấp dưỡng nhưng không chính thức yêu cầu bằng lời nói hoặc bằng văn bản, chấp nhận bằng sự im lặng. Nghĩa vụ cũng có thể được xác lập và thực hiện cùng một lúc: người có nghĩa vụ tự động giao cho người có quyền yêu cầu một số tiền hoặc một số hiện vật. Trong luật của một số nước, nghĩa vụ cấp dưỡng còn có thể bao gồm cả nghĩa vụ trả chi phí mai táng trong trường hợp người được cấp dưỡng chết. Giải pháp này cũng được chấp nhận trong tục lệ Việt Nam.
Người có quyền lên tiếng. Theo Luật hôn nhân và gia đình Ðiều 55 khoản 1, người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền tự mình yêu cầu Tòa án hoặc đề nghị Viện kiểm sát yêu cầu Tòa án buộc người không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ đó. Câu chữ của luật có thể khiến người phân tích luật cảm thấy lúng túng: với câu chữ đó, thì các phân tích ở phần trên không đúng, bởi vì chỉ cần một người túng thiếu và người kia có khả năng, thì nghĩa vụ cấp dưỡng phát sinh mà không cần người túng thiếu phải lên tiếng yêu cầu cũng như không cần người có khả năng lên tiếng gợi ý; nếu không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, thì người có khả năng có thể bị Tòa án buộc thực hiện nghĩa vụ đó, theo yêu cầu của người được cấp dưỡng hoặc người được giám hộ của người sau này. Thực ra, nghĩa vụ cấp dưỡng nói trong điều luật chỉ có thể là nghĩa vụ cấp dưỡng xác lập theo thỏa thuận. Một khi nghĩa vụ được xác lập bằng con đường tư pháp, nghĩa là đã có bản án có hiệu lực pháp luật, thì việc người có nghĩa vụ không chịu thi hành án có thể dẫn đến việc tiến hành các biện pháp chế tài khác (bắt buộc thực hiện nghĩa vụ bằng cách kê biên và bán tài sản; xử lý hành chính hoặc hình sự).
Luật cũng dự kiến vai trò chủ động của Viện kiểm sát, Ủy ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ trong trường hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng được xác lập theo thỏa thuận không tự giác thực hiện nghĩa vụ. Và cũng như trong mọi trường hợp kiện cáo liên quan đến hôn nhân và gia đình, luật luôn dự kiến về vai trò can thiệp dự phòng của các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác (Ðiều 55 khoản 4).
Do luật sử dụng thuật ngữ nghĩa vụ cấp dưỡng, khó có thể nghĩ rằng Viện kiểm sát, Ủy ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ và các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có thể can thiệp trong trường hợp chỉ có vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng. Có thể đây không phải là giải pháp phù hợp với ý chí của người làm luật; nhưng có thể có giải pháp nào khác ?
Trật tự quan hệ cấp dưỡng. Khi một người túng thiếu có yêu cầu và một người khác có khả năng, thì quan hệ cấp dưỡng hình thành. Tuy nhiên, một khi có nhiều người có khả năng, thì người túng thiếu không thể cùng một lúc yêu cầu tất cả những người có khả năng đồng loạt cấp dưỡng cho mình. Có những người được luật ưu tiên lựa chọn để thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, người khác chỉ được gọi một khi người được gọi ưu tiên đã thực hiện nghĩa vụ trong phạm vi khả năng của mình, nhưng vẫn không đủ đáp ứng nhu cầu của người túng thiếu. Tổng hợp các Ðiều từ 57 đến 60 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 ta có các quy tắc sau:
- Người có vợ, chồng trước hết phải yêu cầu vợ, chồng cấp dưỡng. Cha hoặc mẹ chỉ được yêu cầu con cấp dưỡng sau khi yêu cầu đối với vợ, chồng không được đáp ứng đầy đủ, dù đã tiến hành đầy đủ các biện pháp bảo đảm cần thiết, do luật quy định. Tất nhiên, nếu cả cha và mẹ đều túng thiếu, thì họ sẽ không yêu cầu nhau mà chỉ yêu cầu con.
- Ông bà chỉ yêu cầu cháu cấp dưỡng một khi đã yêu cầu con cấp dưỡng mà không được đáp ứng đầy đủï; ngược lại cháu chỉ có quyền yêu cầu ông bà cấp dưỡng một khi không còn cha mẹ hoặc anh chị em hoặc còn nhưng những người này không có khả năng cấp dưỡng.
- Anh chị em chỉ yêu cầu nhau trong trường hợp không thể yêu cầu cha mẹ cấp dưỡng.
Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ chồng, giữa cha mẹ và con sau khi ly hôn, một khi được quyết định, phải được thực hiện ưu tiên .
Không có khó khăn để áp dụng các giải pháp trên trong trường hợp người có nghĩa vụ ở hàng trên thực sự không có khả năng thực hiện đúng và đầy đủ nghĩa vụ cấp dưỡng. Nhưng, liệu người có quyền có thể yêu cầu người có nghĩa vụ ở hàng kế tiếp cả trong trường hợp người có nghĩa vụ ở hàng trên có khả năng nhưng lại không tự giác thực hiện nghĩa vụ ?
Trường hợp người được nhận làm con nuôi. Nhắïc lại rằng trong khung cảnh của luật thực định, con nuôi có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của con ruột trong quan hệ với cha mẹ nuôi đồng thời vẫn bảo tồn các quan hệ giữa mình và gia đình cha mẹ ruột. Bởi vậy, con nuôi đã thành niên có nghĩa vụ cấp dưỡng cho cả cha mẹ nuôi và cha mẹ ruột, nếu không chung sống với họ. Vấn đề đặt ra: liệu con chưa thành niên hoặc đã thành niên mà không có khả năng lao động và túng thiếu có thể yêu cầu cấp dưỡng cùng một lúc đối với cả cha mẹ nuôi và cha mẹ ruột ? Luật viết không có câu trả lời chính thức. Tuy nhiên, ta sẽ thấy rằng theo luật hiện hành, cha mẹ ruột không còn có nghĩa vụ cấp dưỡng một khi con được người khác nhận nuôi. Ðiều đó cho phép nghĩ rằng chính người nuôi mới là người phải có nghĩa vụ cấp dưỡng đối với con nuôi. Nhưng luật không nói gì trong trường hợp người nuôi không còn khả năng cấp dưỡng: khi đó con nuôi có hay không quyền yêu cầu cha mẹ ruột cấp dưỡng ?
Ðiều 52. Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Ðiều 52, trong trường hợp nhiều người cùng có nghĩa vụ cấp dưỡng cho một người hoặc nhiều người, thì những người này thoả thuận với nhau về phương thứ