Chương 2: Qúa trình nghiên cứu thống kê
2.1/ XÁC ĐỊNH MỤC ĐÍCH, ĐỐI TƯỢNG VÀ NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Công việc này phải dựa trên ba căn cứ để xác định là:
- Tình hình thực tiễn.
- Khả năng về tài chính, nhân lực, thời gian.
- Yêu cầu cung cấp thông tin của các cấp quản lý.
34 trang |
Chia sẻ: thanhtuan.68 | Lượt xem: 1263 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài giảng Nguyên lý thống kê kinh tế - Chương 2: Qúa trình nghiên cứu thống kê, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương 2:
Qúa trình nghiên
cứu thống kê
NGUYÊN LÝ THỐNG KÊ
Chương 2: Qúa trình nghiên cứu thống kê
2.1/ XÁC ĐỊNH MỤC ĐÍCH, ĐỐI TƯỢNG VÀ
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Công việc này phải dựa trên ba căn cứ để
xác định là:
- Tình hình thực tiễn.
- Khả năng về tài chính, nhân lực, thời
gian.
- Yêu cầu cung cấp thông tin của các cấp
quản lý.
Chương 2: Qúa trình nghiên cứu thống kê
2.2/ XÂY DỰNG HỆ THỐNG CHỈ TIÊU
TRONG THỐNG KÊ
2.2.1/ Khái niệm hệ thống chỉ tiêu
Hiện tượng thống kê nghiên cứu thường được xác định
bằng những khái niệm cơ bản, trong đó phản ảnh
những đặc điểm chủ yếu nhất của hiện tượng.
Các khái niệm này khi biểu hiện trên từng đơn vị chính là
các tiêu thức thống kê.
2.2.1/ Khái niệm hệ thống chỉ tiêu
Từ các thông tin theo các tiêu thức đơn giản, sau khi tổng hợp
ta có ngay các chỉ tiêu thống kê và ta có thể mô tả trực tiếp
hiện tượng nghiên cứu. Ví dụ: Từ tiêu thức giới tính có thể
mô tả trực tiếp tổng số dân, số nam giới, số nữ giới.
Đối với các tiêu thức trừu tượng và tổng hợp thì phải qua các
bước cụ thể hóa dần dần ta mới có thể lấy được thông tin và
tổng hợp thành chỉ tiêu. Tức là phải dùng nhiều khái niệm
cụ thể để hiểu khái niệm trừu tượng và tổng hợp. Ví dụ:
Trình độ thành thạo của người lao động, hiệu quả kinh tế
của doanh nghiệp, sự hấp dẫn của tài nguyên du lịch là
những khái niệm rất trừu tượng và tổng hợp, để nghiên cứu
được bằng số ta phải cụ thể hóa dần thành những khái niệm
đơn giản, cụ thể.
2.2.1/ Khái niệm hệ thống chỉ tiêu
Hệ thống chỉ tiêu thống kê là một tập hợp nhiều chỉ
tiêu có mối liên hệ lẫn nhau và bổ sung cho nhau,
nhằm phản ảnh các mặt, các tính chất quan trọng nhất,
các mối liên hệ cơ bản giữa các mặt của tổng thể và
mối liên hệ cơ bản của tổng thể với các hiện tượng liên
quan từ đó nêu lên bản chất của hiện tượng nghiên cứu.
Hệ thống chỉ tiêu có thể xây dựng cho từng đơn vị sản
xuất kinh doanh, từng ngành hay toàn bộ nền kinh tế
quốc dân.
2.2/ XÂY DỰNG HỆ THỐNG CHỈ TIÊU TRONG THỐNG
KÊ
2.2.2/ Những nguyên tắc xây dựng hệ thống chỉ
tiêu
Để phản ảnh đầy đủ và chính xác chúng cần
phải có một hệ thống chỉ tiêu thống kê được
xây dựng theo các nguyên tắc sau:
- Hệ thống chỉ tiêu thống kê phải phục vụ
cho mục đích nghiên cứu: Mục đích nghiên cứu
quyết định nhu cầu thông tin về những mặt nào
đó của đối tượng.
2.2.2/ Những nguyên tắc xây dựng hệ thống chỉ tiêu
- Phù hợp với đặc điểm và tính chất đối tượng
nghiên cứu: Hợp lý, không thừa, không thiếu, không
trùng lặp, đủ phản ảnh những yêu cầu nghiên cứu, phù
hợp với khả năng thu thập thông tin. Hiện tượng
nghiên cứu càng phức tạp thì số lượng chỉ tiêu trong hệ
thống càng nhiều hơn so với hiện tượng đơn giản và
ngược lại. Hiện tượng thuộc dạng ý thức thường dùng
nhiều chỉ tiêu để biểu hiện hơn là hiện tượng thuộc
dạng vật chất.
- Phải bảo đảm tiết kiệm nhân lực và chi phí cho
việc nghiên cứu hiện tượng, nằm trong khả năng nhân
lực cho phép.
2.2.3/ Những yêu cầu của việc xây dựng hệ
thống chỉ tiêu
- Một hệ thống chỉ tiêu phải có khả năng nêu được
mối liên hệ giữa các bộ phận cũng như giữa các mặt
của đối tượng nghiên cứu và giữa đối tượng nghiên
cứu với hiện tượng liên quan, trong khuôn khổ của việc
đáp ứng mục đích nghiên cứu.
- Trong hệ thống chỉ tiêu phải có các chỉ tiêu mang
tính chất bộ phận của thống kê và các chỉ tiêu phản ảnh
các nhân tố để phản ảnh một cách đầy đủ tổng thể
nghiên cứu.
- Phải đảm bảo sự thống nhất về nội dung, phương
pháp và phạm vi tính toán của các chỉ tiêu cùng loại.
2.2/ XÂY DỰNG HỆ THỐNG CHỈ TIÊU TRONG THỐNG
KÊ
2.3/ ĐIỀU TRA THỐNG KÊ
2.3.1/ Khái niệm, ý nghĩa và nhiệm vụ của điều
tra thống kê
Sau khi đã xác định được hệ thống chỉ tiêu thống
kê, cần phải tổ chức thu thập thông tin (số liệu) trên
từng đơn vị tổng thể để từ đó tổng hợp, tính toán trị số
của những chỉ tiêu đó, tức là phải tiến hành điều tra
thống kê.
Điều tra thống kê là tổ chức một cách khoa học và
theo một kế hoạch thống nhất để thu thập, ghi chép tài
liệu ban đầu về các hiện tượng và quá trình kinh tế xã
hội để phục vụ cho những mục đích nhất định.
Nhiệm vụ của điều tra thống kê là thu thập các tài
liệu ban đầu cần thiết dùng làm tài liệu căn cứ cho việc
tổng hợp và phân tích thống kê
2.3.1/ Khái niệm, ý nghĩa và nhiệm vụ của điều tra thống kê
Tài liệu thu thập được trong điều tra thống kê phải đáp
ứng ba yêu cầu cơ bản là: chính xác, kịp thời và đầy đủ.
- Chính xác trong điều tra thống kê có nghĩa là tài liệu
kiểm tra phải phản ảnh trung thực tình hình thực tế của hiện
tượng nghiên cứu. Đây là yêu cầu cơ bản nhất của điều tra
thống kê.
- Kịp thời trong điều tra thống kê có nghĩa là phải nhạy
bén với tình hình thực tế, thu thập và cung cấp thông tin
đúng lúc. Các hiện tượng kinh tế xã hội biến động không
ngừng, nếu cung cấp tài liệu không kịp thời thì mất tác
dụng, không khắc phục kịp thời những khiếm khuyết xảy ra
trong nền kinh tế, những mất cân đối còn tồn tại, gây thiệt
hại lớn cho đất nước.
2.3.1/ Khái niệm, ý nghĩa và nhiệm vụ của điều tra thống kê
- Đầy đủ trong điều tra thống kê có nghĩa là tài liệu
kiểm tra phải được thu thập đúng nội dung đã quy
định, không bỏ sót bất kỳ nội dung nào, đơn vị nào.
Đáp ứng yêu cầu đầy đủ sẽ tạo cơ sở vững chắc cho
việc tổng hợp và phân tích và dự đoán được toàn diện,
tránh những kết luận phiến diện, chủ quan.
Ba yêu cầu chính xác, kịp thời và đầy đủ phải đảm
bảo đồng thời khi tiến hành điều tra thống kê để tài liệu
điều tra có giá trị, có sức thuyết phục lớn.
2.3/ ĐIỀU TRA THỐNG KÊ
2.3.2/ Các loại điều tra thống kê
Căn cứ vào tính chất liên tục hay không liên tục của
việc ghi chép dữ liệu chia ra điều tra thường xuyên hay
không thường xuyên.
+ Điều tra thường xuyên là tiến hành thu thập, ghi
chép dữ liệu ban đầu về hiện tượng nghiên cứu một cách có
hệ thống theo sát quá trình biến động của hiện tượng. Ví dụ:
Thu thập, ghi chép tình hình biến động nhân khẩu của một
địa phương (sinh, tử, đi, đến). Trong phạm vi một doanh
nghiệp, việc theo dõi, ghi chép hằng ngày về số công nhân
đi làm, số lượng sản phẩm sản xuất ra, số lượng sản phẩm
tiêu thụ là điều tra thường xuyên. Dữ liệu của điều tra
thường xuyên là cơ sở chủ yếu để lập các báo cáo thống kê
theo định kỳ.
2.3.2/ Các loại điều tra thống kê
+ Điều tra không thường xuyên là tiến hành thu
thập, ghi chép dữ liệu ban đầu một cách không liên tục,
mà chỉ tiến hành khi có nhu cầu cần nghiên cứu hiện
tượng. Dữ liệu của điều tra không thường xuyên phản
ánh trạng thái hiện tượng tại thời điểm nhất định. Ví
dụ: Tổng điều tra dân số, tổng điều tra đất đai nông
nghiệp, điều tra đàn gia súc, gia cầm, điều tra năng suất
cây trồng, những cuộc điều tra nghiên cứu thị trường
là những cuộc điều tra không thường xuyên. Các cuộc
điều tra không thường xuyên có thể được tiến hành
theo định kỳ nhất định hay không theo định kỳ.
2.3.2/ Các loại điều tra thống kê
Căn cứ vào phạm vi khảo sát và thu thập thực tế
chia ra điều tra toàn bộ và điều tra không toàn bộ.
+ Điều tra toàn bộ là điều tra tiến hành thu thập,
ghi chép dữ liệu trên tất cả các đơn vị của tổng thể hiện
tượng nghiên cứu. Ví dụ: Tổng điều tra dân số, tổng
điều tra tồn kho vật tư, hàng hóa, tổng điều tra vốn sản
xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, điều tra tất cả
các chợ trên địa bàn quận, thành phố, điều tra tất cả các
cây xăng là điều tra toàn bộ.
2.3.2/ Các loại điều tra thống kê
+ Ñieàu tra khoâng toaøn boä laø ñieàu tra
tieán haønh thu thaäp, ghi cheùp döõ lieäu treân
moät soá ñôn vò ñöôïc choïn ra töø toaøn boä
caùc ñôn vò thuoäc toång theå hieän töôïng
nghieân cöùu. Tuøy theo caùch choïn soá ñôn vò
ñeå tieán haønh thöïc teá, ñieàu tra khoâng toaøn
boä chia thaønh 3 loaïi cuï theå sau: ñieàu tra
chuyeân ñeà, ñieàu tra choïn maãu vaø ñieàu tra
troïng ñieåm.
2.3.2/ Các loại điều tra thống kê
++ Điều tra chuyên đề là điều tra tiến hành trên một số rất ít
các đơn vị của tổng thể, nhưng lại đi sâu nghiên cứu nhiều khía
cạnh của đơn vị đó. Mục đích là để khám phá, tìm hiểu các yếu tố
ảnh hưởng đến hiện tượng nghiên cứu. Dữ liệu của điều tra
chuyên đề không dùng để suy rộng, không dùng để tìm hiểu tình
hình cơ bản của hiện tượng, mà chỉ rút ra kết luận về bản thân các
đơn vị được điều tra.
Ví dụ: Điều tra điển hình một số ít sinh viên có đi làm thêm,
đạt kết quả học tập tốt và thành tích nghiên cứu khoa học xuất
sắc, vài sinh viên có đi làm thêm nhưng kết quả học tập kém, bị
tạm dừng học tập. Các kết quả điều tra chuyên đề này giúp ta
khám phá những yếu tố quan trọng có ảnh hưởng đến kết quả học
tập của sinh viên.
2.3.2/ Các loại điều tra thống kê
++ Điều tra chọn mẫu là điều tra được thực hiện
bằng cách chọn ra một số phần tử hay đơn vị thuộc
tổng thể đơn vị nghiên cứu để thu thập dữ liệu thực tế.
Điều tra chọn mẫu được dùng nhiều nhất trong nghiên
cứu vì tiết kiệm thời gian, chi phí và dữ liệu đáng tin
cậy. Dữ liệu của điều tra chọn mẫu được dùng để suy
rộng thành các đặc trưng chung của toàn bộ tổng thể
hiện tượng nghiên cứu.
2.3.2/ Các loại điều tra thống kê
++ Điều tra trọng điểm là điều tra tiến hành thu
thập dữ liệu trên bộ phận chủ yếu nhất, tập trung nhất
trong toàn bộ tổng thể hiện tượng nghiên cứu. Kết quả
thu được từ điều tra trọng điểm giúp ta nhận biết nhanh
tình hình cơ bản của hiện tượng nghiên cứu, chứ không
dùng để suy rộng thành các đặc trưng chung của tổng
thể. Chẳng hạn, khi cần nắm nhanh tình hình cơ bản về
sản xuất cao su, cà phê của nước ta, ta có thể chỉ tiến
hành điều tra về sản xuất cao su, cà phê ở miền Đông
Nam Bộ và Tây Nguyên chứ không cần tiến hành điều
tra trong cả nước.
2.3/ ĐIỀU TRA THỐNG KÊ
2.3.3/ Các hình thức tổ chức điều tra thống kê
Để thu thập tài liệu ban đầu về các hiện tượng và
quá trình kinh tế xã hội, cơ quan thống kê thường áp
dụng hai hình thức là báo cáo thống kê định kỳ và
điều tra chuyên môn.
2.3.3/ Các hình thức tổ chức điều tra thống kê
2.3.3.1/ Báo cáo thống kê định kỳ:
Báo cáo thống kê định kỳ là hình thức tổ chức điều tra
thống kê một cách thường xuyên, theo kỳ hạn nhất định với
nội dung, phương pháp và chế độ đã quy định.
Chế độ báo cáo này phản ánh tình hình cơ bản về hoạt
động sản xuất kinh doanh và nghiệp vụ có liên quan chặt chẽ
đối với thực hiện kế hoạch. Tài liệu báo cáo định kỳ giúp lãnh
đạo các cấp theo dõi và chỉ đạo kịp thời nhiệm vụ cho cấp
dưới, kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch, phát hiện những
khả năng tiềm tàng có thể khai thác, tìm ra những mất cân đối
trong các khâu và các yếu tố của quá trình sản xuất, cũng như
phát hiện các đơn vị tiên tiến, lạc hậu để quản lý nền kinh tế
một cách có hiệu quả.
2.3.3/ Các hình thức tổ chức điều tra thống kê
Báo cáo thống kê định kỳ là hình thức điều tra thống
kê chủ yếu và được áp dụng ở hầu hết các xí nghiệp, công
ty, nông trường, các cơ quan đoàn thể
Ở nước ta việc sử dụng báo cáo thống kê định kỳ được
tổ chức thành chế độ chặt chẽ, là pháp lệnh đối với các
đơn vị cơ sở, các ngành, các cấp.
2.3.3/ Các hình thức tổ chức điều tra thống kê
2.3.3.2/ Điều tra chuyên môn:
Điều tra chuyên môn là hình thức điều tra không
thường xuyên được tiến hành theo kế hoạch và phương
pháp quy định riêng cho mỗi lần điều tra.
Loại điều tra này khác với báo cáo thống kê định kỳ về
mặt thời gian, nó không được tổ chức thường xuyên để thu
thập tài liệu ban đầu mà khi nào cần mới tổ chức ghi chép
vào thời điểm hay thời kỳ nhất định. Ví dụ: Điều tra dân
số, điều tra đời sống, điều tra cán bộ khoa học kỹ thuật v.v
thuộc về điều tra chuyên môn.
2.3.3/ Các hình thức tổ chức điều tra thống kê
Điều tra chuyên môn được áp dụng đối với những
hiện tượng biến đổi chậm (như tình hình đất đai nông
nghiệp, tình hình thủy lợi) hoặc những hiện tượng
xảy ra bất thường (như thiên tai, chiến tranh, tai nạn
lao động).
Thực hiện điều tra chuyên môn có ý nghĩa lớn, vì
cho phép kiểm tra lại chất lượng của báo cáo thống kê
định kỳ hoặc bổ sung thêm những thông tin mà báo cáo
thống kê định kỳ chưa phản ảnh hết.
2.3/ ĐIỀU TRA THỐNG KÊ
2.3.4/ Các phương pháp thu thập tài liệu
Có hai phương pháp thống kê sử dụng là thu thập
trực tiếp và thu thập gián tiếp.
2.3.4.1 Thu thập trực tiếp
Có các phương pháp thu thập dữ liệu trực tiếp như sau:
- Quan sát: Quan sát là thu thập dữ liệu bằng cách quan
sát các hành động, thái độ của đối tượng khảo sát trong
những tình huống nhất định. Ví dụ: Đếm số lượng
khách hàng tại một siêu thị tại một thời điểm nào đó.
2.3.4.1 Thu thập trực tiếp
- Phỏng vấn trực tiếp: Người phỏng vấn trực tiếp hỏi đối tượng
được điều tra và tự ghi chép dữ liệu vào bản câu hỏi hay phiếu điều
tra. Người phỏng vấn có thể giải thích một cách đầu đủ, cặn kẽ, đặt
những câu hỏi chi tiết để khai thác thông tin và kiểm tra dữ liệu
trước khi ghi chép vào phiếu điều tra. Phương pháp phỏng vấn trực
tiếp phù hợp với những cuộc điều tra phức tạp cần thu thập nhiều
thông tin, nội dung của các thông tin tương đối phức tạp cần phải
thu thập một cách chi tiết.
Phương pháp phỏng vấn trực tiếp có ưu điểm là dữ liệu được thu
thập đầy đủ theo nội dung điều tra và có độ chính xác khá cao, cho
nên được áp dụng phổ biến trong điều tra thống kê. Tuy nhiên,
phương pháp này đòi hỏi chi phí lớn, nhất là chi phí về nhân lực và
thời gian.
2.3.4/ Các phương pháp thu thập tài liệu
2.3.4.2/ Thu thập gián tiếp
Nhân viên điều tra thu thập tài liệu qua trao đổi
bằng điện thoại, hoặc thư gửi qua bưu điện tới đơn vị
điều tra hoặc qua chứng từ, sổ sách có sẵn ở đơn vị
điều tra.
Thu thập gián tiếp ít tốn kém hơn thu thập trực tiếp,
nhưng chất lượng dữ liệu không cao, nên thường chỉ
được áp dụng trong những trường hợp khó khăn hoặc
không có điều kiện thu thập trực tiếp.
2.3/ ĐIỀU TRA THỐNG KÊ
2.3.5/ Sai số trong điều tra thống kê
2.3.5.1 Các loại sai số trong điều tra thống kê
Sai số trong
điều tra TK
Sai số đăng ký Sai số do tính
chất đại biểu
chênh lệch giữa các trị số của
tiêu thức điều tra mà thống kê thu
thập được so với trị số thực tế
của hiện tượng nghiên cứu
do việc ghi chép tài
liệu ban đầu không
chính xác
xảy ra trong một số cuộc điều tra
không toàn bộ, do việc lựa chọn
số đơn vị điều tra không đủ tính
chất đại biểu
2.3.5.1/ Một số biện pháp nhằm hạn chế sai
số trong điều tra thống kê
- Làm tốt công tác chuẩn bị điều tra (bổ túc thêm
nghiệp vụ cho nhân viên điều tra, lập kế hoạch điều
tra).
- Kiểm tra có hệ thống toàn bộ cuộc điều tra (về mặt
logic, về mặt tính toán).
2.3.5/ Sai số trong điều tra thống kê
2.4.1/ KHÁI NIỆM, NHIỆM VỤ, Ý NGHĨA
Khái niệm: Tổng hợp thống kê là sự tập trung, chỉnh lý
và hệ thống hoá một cách khoa học các tài liệu ban đầu thu
thập được trong điều tra thống kê.
Nhiệm vụ: Làm cho các đặc trưng riệng biệt của đơn vị
tổng thể bước đầu chuyển thành các đặc trưng chung của
tổng thể
Ý nghĩa: Tổng hợp khoa học làm căn cứ vững chắc cho
việc phân tích và dự đoán
2.4/ TỔNG HỢP THỐNG KÊ
2.4.2/ Những vấn đề cơ bản của tổng hợp thống kê.
Xác định mục đích tổng hợp: khái quát hoá những đặc
trưng chung của tổng thể và đặc trưng chung đó được biểu
hiện cụ thể bằng các chỉ tiêu thống kê
Nội dung tổng hợp: Tập hợp theo tiêu thức
Kiểm tra tài liệu trước khi tổng hợp.
Phương pháp tổng hợp: sử dụng phương pháp phân tổ
thống kê.
Tổ chức và kỹ thuật tổng hợp: Tập hợp đầy đủ biểu
mẫu, nội dung đã điều tra, tập hợp bằng máy hoặc thủ công
2.4/ TỔNG HỢP THỐNG KÊ
2.5.1/ KHÁI NIỆM, Ý NGHĨA, NHIỆM VỤ.
Khái niệm: Phân tích thống kê là thông qua các biểu
hiện bằng số lượng, nêu lên một cách tổng hợp bản chất và
tính qui luật của các hiện tượng và quá trình kinh tế – xã
hội trong điều kiện thời gian và địa điểm cụ thể.
Nhiệm vụ: Có 2 nhiệm vụ:
- Phân tích tình hình thực hiện kế hoạch: trong
phân tích cần nêu rõ mức độ hoàn thành kế hoạch, các
nguyên nhân và ảnh hưởng của các nguyên nhân đối với
việc hoàn thành hoặc không hoàn thành kế hoạch
- Phân tích tính qui luật của các hiện tượng và quá
trình kinh tế xã hội: đối với nhiệm vụ này cần xác định các
đặc trưng về mặt lượng của hiện tượng như: qui mô, khối
lượng, kết cấu, quan hệ tỉ lệ
2.5/ PHÂN TÍCH THỐNG KÊ
2.5.1/ KHÁI NIỆM, Ý NGHĨA, NHIỆM VỤ.
Ý nghĩa: lập báo cáo phân tích, trong đó nêu các số liệu
cần thiết, các lời bình luận và các kiến nghị cụ thể
2.5/ PHÂN TÍCH THỐNG KÊ
2.5.2/ CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA PHÂN
TÍCH THỐNG KÊ.
Phân tích thống kê phải dựa trên cơ sở khoa học được
thể hiện thành 3 nguyên tắc cơ bản sau:
- Phân tích thống kê phải tiến hành trên cơ sở phân tích lý
luận kinh tế xã hội: Đòi hỏi người làm công tác nghiên cứu
thống kê phải có sự hiểu biết về xã hội một cách thực tế,
đầy đủ và sâu sắc.
- Phân tích thống kê phải căn cứ vào toàn bộ sự thật và
phân tích trong sự liên hệ ràng buộc lẫn nhau giữa các hiện
tượng: không được tùy tiện chọn ra một vài hiện tượng hay
sự thật cá biệt để phân tích và rút ra kết luận
- Khi phân tích thống kê phải tùy theo tính chất và hình
thức phát triển khác nhau của các hiện tượng mà áp dụng
linh hoạt các phương pháp khác nhau
2.5/ PHÂN TÍCH THỐNG KÊ
2.5.3/ CÁC VẤN ĐỀ CHỦ YẾU KHI TIẾN HÀNH
PHÂN TÍCH THỐNG KÊ.
- Xác định nhiệm vụ cụ thể của phân tích thống kê: vấn đề cần
khi tiến hành phân tích
- Lựa chọn đánh giá tài liệu dùng để phân tích: Tài liệu thu
thập có đảm bảo chính xác, đầy đủ, kịp thời, phương pháp thu
thập có khoa học không?; Phương pháp tính toán các chi tiết, các
phương pháp này có nhất quán với các phương pháp của thống
kê không?
- Xác định các phương pháp và các chỉ tiêu phân tích: Các chỉ
tiêu phải là những chỉ tiêu quan trọng nhất, Các chỉ tiêu cần có
sự liên hệ với nhau
- So sánh đối chiếu các chỉ tiêu: thấy rõ đựơc các đặc điểm và
bản chất của hiện tượng nghiên cứu, mới phát hiện được nhiều
vấn đề có ý nghĩa, vạch rõ được nguyên nhân phát triển của hiện
tượng, các vấn đề tồn tại,
- Rút ra kết luận và đề xuất kiến nghị: Các kiến nghị đề xuất
phải nhằm giải quyết các vấn đề thúc đẩy sự phát triển
2.5/ PHÂN TÍCH THỐNG KÊ