1. Sự cần thiết của việc nghiên cứu môn Pháp luật đại cương
Nhà nước và pháp luật (NN&PL) là những hiện tượng xã hội có vị trí trọng
tâm và quan trọng nhất trong kiến trúc thượng tầng của xã hội có giai cấp. Điều
này được thể hiện ở chỗ:
- NN&PL có cơ sở xã hội và phạm vi tác động rộng lớn nhất so với các hiện
tượng khác thuộc thượng tầng kiến trúc của xã hội (XH) có giai cấp;
- NN&PL là công cụ hữu hiệu nhất để giai cấp thống trị bảo vệ lợi ích và
củng cố địa vị thống trị của mình;
- NN&PL là yếu tố không thể thiếu được để thiết lập và duy trì trật tự; bảo
đảm cho xã hội ổn định qua đó tạo tiền đề cho sự phát triển.
Vì vậy, việc nghiên cứu môn Pháp luật đại cương không chỉ có ý nghĩa về mặt
lý luận mà còn có lý nghĩa rất lớn về mặt thực tiễn. Nắm vững kiến thức môn học
sẽ tạo tiền đề cho người học trong việc tiếp cận các môn học khác, như Luật Kinh
tế, thương mại và thanh toán quốc tế, .v.v, đồng thời tạo cơ sở cho việc vận dụng
những kiến thức đã được trang bị để điều chỉnh hành vi xử sự của mình trong quan
hệ xã hội, qua đó xử lý các vấn đề phát sinh trong thực tiễn đời sống và công tác
một cách đúng đắn và hiệu quả nhất
127 trang |
Chia sẻ: hoang16 | Lượt xem: 722 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài giảng Nhập môn pháp luật đại cương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
NHẬP MÔN
PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG
2
1. Sự cần thiết của việc nghiên cứu môn Pháp luật đại cương
Nhà nước và pháp luật (NN&PL) là những hiện tượng xã hội có vị trí trọng
tâm và quan trọng nhất trong kiến trúc thượng tầng của xã hội có giai cấp. Điều
này được thể hiện ở chỗ:
- NN&PL có cơ sở xã hội và phạm vi tác động rộng lớn nhất so với các hiện
tượng khác thuộc thượng tầng kiến trúc của xã hội (XH) có giai cấp;
- NN&PL là công cụ hữu hiệu nhất để giai cấp thống trị bảo vệ lợi ích và
củng cố địa vị thống trị của mình;
- NN&PL là yếu tố không thể thiếu được để thiết lập và duy trì trật tự; bảo
đảm cho xã hội ổn định qua đó tạo tiền đề cho sự phát triển.
Vì vậy, việc nghiên cứu môn Pháp luật đại cương không chỉ có ý nghĩa về mặt
lý luận mà còn có lý nghĩa rất lớn về mặt thực tiễn. Nắm vững kiến thức môn học
sẽ tạo tiền đề cho người học trong việc tiếp cận các môn học khác, như Luật Kinh
tế, thương mại và thanh toán quốc tế, ..v.v, đồng thời tạo cơ sở cho việc vận dụng
những kiến thức đã được trang bị để điều chỉnh hành vi xử sự của mình trong quan
hệ xã hội, qua đó xử lý các vấn đề phát sinh trong thực tiễn đời sống và công tác
một cách đúng đắn và hiệu quả nhất.
2. Đối tượng nghiên cứu
Môn Pháp luật đại cương (PLĐC) nghiên cứu một cách khái quát những vấn đề
chung về sự phát sinh, phát triển, tồn tại và tiêu vong của NN&PL nói chung và
NN&PL xã hội chủ nghĩa nói riêng, với những nội dung cụ thể, như sau:
- Nguồn gốc, cơ sở của sự phát sinh, phát triển, tồn tại và tiêu vong của
NN&PL;
- Vị trí, vai trò, chức năng, bản chất, hình thức của các kiểu NN&PL;
- Mối quan hệ giữa NN&PL với các hiện tượng xã hội khác, như chính trị,
kinh tế, đạo đức và các thiết chế khác;
- Nhà nước và pháp luật Xã hội chủ nghĩa (XHCN);
- Cơ chế điều chỉnh của pháp luật;
- Khái quát về một số ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
3. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu của PLĐC là những cách thức mà môn khoa học này
sử dụng để lý giải những vấn đề thuộc đối tượng nghiên cứu của mình.
Phương pháp luận của PLĐC là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy
vật lịch sử. Yêu cầu của phương pháp này là việc nghiên cứu hiện tượng NN&PL
đòi hỏi phải nghiên cứu một cách khách quan, toàn diện, cụ thể và có quan điểm
lịch sử. Đồng thời, việc nghiên cứu về NN&PL phải đặt trong trạng thái vận động
và tương tác với mối quan hệ giữa các sự vật, hiện tượng khác.
3
Ngoài ra, môn học còn sử dụng các phương pháp khác, như: Phân tích, so sách,
tổng hợp, thống kê, xã hội học..v.v.
4. Thời lượng nghiên cứu và kết cấu nội dung môn học
Môn học PLĐC gồm 03 đơn vị học trình, với thời lượng 45 tiết học. Nội dung
môn học được kết cấu gồm 05 chương:
- Chương 1: Những vấn đề chung về nhà nước và nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam.
- Chương 2: Những vấn đề chung về pháp luật.
- Chương 3: Cơ chế điều chỉnh của pháp luật.
- Chương 4: Hệ thống pháp luật Việt Nam.
- Chương 5: Khái quát về các ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
4
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NHÀ NƯỚC VÀ NHÀ NƯỚC CỘNG HOÀ
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NHÀ NƯỚC
1. Nguồn gốc nhà nước
1.1. Một số học thuyết phi Mác xít về nguồn gốc Nhà nước
Trong quá trình nghiên cứu về NN, hàng loạt câu hỏi được đặt ra: Vì sao NN
xuất hiện, NN xuất hiện ở đâu, từ khi nào, ..v.v. Xuất phát từ nhận thức, lợi ích,
quan điểm và trường phái khác nhau mà nhiều học giả có cách giải thích khác nhau
về những vấn đề nêu trên.
Các nhà tư tưởng theo Thuyết thần học cho rằng Nhà nước (NN) có nguồn gốc
thần thánh. Vua - Người đứng đầu NN do thượng đế sinh ra, là sự hoá thân của
thánh thần nơi trần thế để trị vì dân chúng. Vua là Thiên tử (Thiên Hoàng, Ngọc
Hoàng) là người thay trời trị dân. Quyền lực nhà Vua là quyền lực siêu tự nhiên và
được mọi người dân tuyệt đối phục tùng. Bộ luật Manou của Ấn Độ cổ đại, ghi
nhận: Vua được tạo ra từ những phần của các vị thánh siêu đẳng. Người là vị thánh
tối cao mang hình người. (Lịch sử các học thuyết chính trị trên thế giới của tác giả
Lưu Kiếm Thanh và Phạm Hồng Thái, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội-1993,
tr.31). Rõ ràng, quan điểm về nguồn gốc NN của thuyết Thần quyền hoàn toàn
mang tính duy tâm.
Trong khi đó, những nhà tư tưởng theo Thuyết gia trưởng cho rằng NN được
hình thành trên cơ sở sự phát triển tự nhiên của gia đình. Điển hình cho trường phái
này là Aristotle, cho rằng: Xã hội đầu tiên của loài người là xã hội của những người
đàn ông và đàn bà trong một gia đình và sau đó là xã hội của nhiều gia đình được
tạo nên do sự thuận lợi lẫn nhau và sự bền vững của chúng được gọi là cái làng và
cái làng một cách tự nhiên nhất bao gồm có tổ tiên, con cháu của họ. Sau đó, mỗi
gia đình lại trở thành một cái nhánh của gia đình lớn, được chỉ huy bởi một người
già nhất và cứ thế cấu thành các bang đầu tiên được cai trị bởi các nhà vua. Khi
nhiều làng như vậy hoàn toàn hợp nhất với nhau ở mọi khía cạnh thì tạo thành một
xã hội, xã hội ấy chính là một thành bang. Mỗi thành bang về nguồn gốc là sản
phẩm của tự nhiên. Về bản chất, quyền lực NN cũng giống như quyền gia trưởng
của người đứng đầu trong gia đình nhưng ở cấp độ và phạm vi rộng lớn hơn.
Điểm hợp lý trong quan điểm của Aristotle là ông cho rằng NN xuất hiện từ xã
hội và do nhu cầu quản lý, cai trị xã hội. Tuy nhiên, đây là quan điểm thiếu khách
quan, chưa đầy đủ và có phần giản đơn hoá về nguồn gốc NN. Hạn chế của quan
điểm này là thừa nhận về sự bất bình đẳng, sự nô dịch và thống trị của một nhóm
người trong xã hội là điều tự nhiên.
Đến khoảng thế kỷ 16, 17, 18 đã xuất hiện hàng loạt quan điểm mới về nguồn
gốc nhà nước. Nhằm chống lại sự chuyên quyền độc đoán của NN phong kiến, đòi
quyền bình đẳng cho giai cấp tư sản trong việc nắm giữ quyền lực NN, đa số các
5
học giả tư sản cho rằng nguồn gốc NN bắt nguồn từ sự thoả thuận tự nguyện của
mọi người trong trạng thái tự nhiên nhằm bảo tồn cuộc sống, tự do và tài sản; nghĩa
là quyền lực NN thuộc về nhân dân, do nhân dân uỷ quyền để quản lý xã hội. Vì
vậy, NN phải phản ánh lợi ích các thành viên trong XH, phải phục vụ và bảo vệ lợi
ích của họ. Nếu NN không giữ được vai trò của mình, các quyền tự nhiên của con
người bị xâm hại thì khế ước sẽ mất hiệu lực và nhân dân có quyền huỷ bỏ khế ước
này để thay thế bằng một khế ước khác. Nghĩa là lật đổ NN này để thay thế bằng
một NN khác thực hiện sứ mệnh đó.
Các học giả tiêu biểu của thuyết này là John Locke (1632-1704); S.L
Montesquieu (1689-1775); Jean Jacque Roussau (1712-1778).
John Locke cho rằng trước khi có NN con người sống trong trạng thái tự nhiên,
mọi người hoàn toán tự do, bình đẳng; mỗi người là chúa tệ tuyệt đối của con người
và tài sản của chính anh ta, bình đẳng đến mức tối đa và không bị ai thống trị. Ở
đó, họ làm bất cứ cái gì được cho là phù hợp với sự bảo tồn của họ và những người
khác trong phạm vi cho phép của luật tự nhiên chung cho tất cả mọi người hoặc là
làm bất cứ điều gì để chống lại sự xúc phạm và xâm hại của người khác, phán quyết
và trừng phạt sự vi phạm luật tự nhiên. Nếu cứ duy trì trạng thái sống tự nhiên, con
người trở nên rất nguy hiểm, vì họ sẽ dùng bạo lực để tiêu diệt nhau. Để thoát khỏi
trạng thái tự nhiên, “cái hoàn cảnh mà tuy được tự do nhưng lại đầy sự sợ hãi và sự
nguy hiểm liên miên” (Locke. Two Treatises of Government. Edited by Peter
Laslett. Cambritge University Press, tr.350), con người đã liên kết với nhau thành xã
hội, thành NN và chuyển giao một phần quyền lực của mình cho NN, đồng thời đặt
mình dưới quyền thống trị của nó nhằm bảo tồn cuộc sống, tự do và tài sản của mỗi
người.
Điểm hợp lý của thuyết khế ước xã hội là thừa nhận NN không xuất hiện ngay
từ khi XH loài người xuất hiện mà NN ra đời khi XH đã phát triển đến một giai
đoạn nhất định; quyền lực NN xuất phát từ quyền lực của nhân dân, được nhân dân
uỷ chuyền; NN có bổn phận là chăm lo cho lợi ích, tài sản và sự bình đẳng của mọi
thành viên trong xã hội. Thuyết khế ước XH có vai trò quan trọng trong việc tạo tiền
đề cho thuyết dân chủ cách mạng và là cơ sở tư tưởng cho cách mạng tư sản để lật
đổ ách thống trị phong kiến. Với ý nghĩa đó, thuyết khế ước XH có tính cách mạng
và giá trị lịch sử to lớn.
Tuy nhiên, điểm hạn chế của thuyết khế ước XH là không chỉ ra được NN ra
đời không đơn thuần do nhu cầu tổ chức quản lý XH mà còn do nhu cầu thống trị
của giai cấp nắm tư liệu sản xuất chính của xã hội; vì vậy ngoài tính xã hội, NN còn
có tính giai cấp sâu sắc.
Một số học thuyết khác tuy mức độ phổ biến có hạn chế hơn so với thuyết khế
ước xã hội, như thuyết bạo lực. Thuyết bạo lực cho rằng, nhà nước xuất hiện là do
việc sử dụng bạo lực của thị tộc này đối với thị tộc khác mà kết quả là thị tộc chiến
thắng tổ chức ra một cơ quan đặc biệt, đó là nhà nước để cai trị kẻ chiến bại. Các
học giả của thuyết tâm lý lại cho rằng, nhà nước xuất hiện do nhu cầu tâm lý của
con người nguyên thủy vốn luôn muốn phụ thuộc vào các thủ lĩnh, các giáo sĩ là
những lãnh tụ của họ; vì vậy, nhà nước là tổ chức của những vị lãnh tụ đó để che
6
chở, chăm lo và lãnh đạo xã hội. Ngoài ra còn có quan niệm “nhà nước siêu trái đất”
cho rằng, sự xuất hiện nhà nước là do sự du nhập và thử nghiệm những thành tựu
của một nền văn minh ngoài trái đất, ..v.v.
Do nhiều nguyên nhân khác nhau, những học thuyết và quan điểm trên chưa
giải thích một cách đúng đắn và đầy đủ về nguồn gốc nhà nước và pháp luật.
1.2. Học thuyết Mác-Lênin về nguồn gốc nhà nước
Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về nguồn gốc NN được coi là hợp lý nhất
và khoa học nhất. Với phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, các
nhà kinh điển cho rằng: NN không phải là hiện tượng siêu tự nhiên hay là sản phẩm
tự nhiên; NN cũng không phải hiện tượng vĩnh hằng, bất biến mà là một phạm trù
lịch sử. Nghĩa là, NN có quá trình phát sinh, phát triển, tồn tại và tiêu vong; NN nảy
sinh từ XH, là sản phẩm có điều kiện của XH loài người; NN chỉ xuất hiện khi XH
đã phát triển đến một giai đoạn nhất định và đạt đến một trình độ nhất định. Đó là
khi XH có sự phân chia giai cấp, mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp; chứng
nào XH có giai cấp và đấu tranh giai cấp thì NN còn tồn tại; NN sẽ tiêu vong khi
những điều điều kiện khách quan đó không còn nữa.
Những luận điểm quan trọng về nguồn gốc NN được Ph.Ăngghen nêu trong tác
phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước”, sau này được
V.I Lênin bổ sung và phát triển trong tác phẩm “Nhà nước và cách mạng”.
Ph.Ăngghen trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và
của nhà nước”, giải thích trong lịch sử loài người “không phải lúc nào cũng đã có
nhà nước. Đã từng có những xã hội không cần đến nhà nước, không có một khái
niệm nào về nhà nước và chính quyền nhà nước cả” (Sđd, NXB Sự thật. hà Nội-
1972, tr.288). Xã hội không cần đến NN trong trường hợp này là xã hội thị tộc của
thời công xã nguyên thuỷ (CXNT).
a) Tổ chức thị tộc trong xã hội công xã nguyên thuỷ
Trong xã hội CXNT, lúc đầu con người hợp thành bầy đàn người nguyên thuỷ
sống theo bản năng để tồn tại và duy trì nòi giống; quan hệ tính giao xẩy ra giữa mọi
người đàn ông và đàn bà với nhau. Sau đó, sự xuất hiện của gia đình dẫn đến sự
xuất hiện Thị tộc với tư cách là tế bào XH, là đơn vị cơ sở của tổ chức XH, tiếp đó
là Bộ lạc (là sự liên kết của nhiều thị tộc) xuất hiện khi xã hội xuất hiện các hình
thức gia đình trong lịch sử, như: Gia đình huyết thống, gia đình punaluan, gia đình
đối ngẫu).
Thị tộc là một tập đoàn thân tộc trong một Bộ lạc, tức là một nhóm người cùng
huyết tộc về phía nữ. Thị tộc được tổ chức theo huyết thống và lúc đầu là thị tộc
mẫu quyền, về sau là thị tộc phụ quyền. Khi “dân số tăng lên, thì mỗi thị tộc đầu
tiên đó lại chia thành mấy thị tộc con, và đối với những thị tộc con này thì thị tộc mẹ
là bào tộc; bản thân bộ lạc cũng chia làm nhiều bộ lạc” (Sđd, tr.281) và bộ lạc đầu
tiên lại trở thành liên minh các bộ lạc cùng thân tộc. Như vậy, các đơn vị tổ chức
trong xã hội CXNT, gồm thị tộc, bào tộc, bộ lạc và liên minh các bộ lạc.
Cơ sở kinh tế của xã hội CXNT là chế độ sở hữu chung về tư liệu sản xuất
(TLSX). Các TLSX trong xã hội CXNT đều được mọi thành viên sử dụng chung.
7
Về tổ chức sản xuất: “Sự phân công lao động hoàn toàn còn có tính tự nhiên,
nó chỉ được thực hiện giữa nam và nữ thôi. Đàn ông thì đánh giặc, đi săn bắn và
đánh cá, tìm nguyên liệu dùng làm thức ăn và kiếm những công cụ cần thiết cho
việc đó. Đàn bà chăm sóc việc nhà, chế biến thức ăn và chuẩn bị cái mặc: họ làm
bếp, dệt, may vá. Mỗi bên đều làm chủ trong lĩnh vực hoạt động riêng của mình
Mỗi bên đều là chủ sở hữu những công cụ do mình chế tạo và sử dụng kinh tế gia
đình là nền kinh tế cộng sản chung cho nhiều gia đình” (Sđd, tr.262).
Về phân phối sản phẩm lao động: “Cài gì cùng nhau làm ra và dùng chung, thì
cái đó là tài sản chung” (Sđd, tr.263). Nghĩa là sản phẩm lao động làm ra được sử
dụng chung. Mọi thành viên của thị tộc đều tự do và bình đẳng với nhau TLSX, về
lao động và phân phối sản phẩm làm ra.
Quyền lực cao nhất trong thị tộc là Hội đồng thị tộc, bao gồm tất cả các thành
viên đã trưởng thành, nam cũng như nữ. Trong Hội đồng thị tộc mọi người đều tự
do, bình đẳng với nhau về mọi vấn đề khi giải quyết những công việc của thị tộc.
Hội đồng bầu ra Tù trưởng và Thủ lĩnh quân sự để thay mặt Hội đồng điều hành các
hoạt động chung và chỉ huy quân sự. Những người này có quyền lực rất lớn nhưng
không tổ chức bộ máy cưỡng chế mà dựa trên cơ sở uy tín cá nhân, sự tín nhiệm và
sự ủng hộ của các thành viên trong thị tộc. Tù trưởng, chỉ huy quân sự cùng sinh
sống, cùng lao động và hưởng thụ thành quả lao động như những người khác; không
có đặc quyền, đặc lợi; họ chịu sự giám sát của Hội đồng thị tộc và có thể bị Hội
đồng thị tộc phế truất nếu không còn có uy tín. Đặc điểm của quyền lực trong xã hội
CXNT là không tách rời cộng đồng mà thuộc về công đồng, gắn liền với cộng đồng
và do cộng đồng tổ chức ra để phục vụ lợi ích cho cả cộng đồng; không có bộ máy
cưỡng chế riêng. Cách thức tổ chức quyền lực ở bào tộc, bộ lạc và liên minh các bộ
lạc cũng tương tự như trong thị tộc nhưng có sự tập trung quyền lực cao hơn, vì
tham gia vào Hội đồng của các tổ chức này chỉ gồm tù trưởng và thủ lĩnh quân sự
của các thị tộc.
Tóm lại, trong chế độ CXNT “ không có nhà nước, lúc đó các quan hệ xã hội
và ngay cả xã hội nữa, kỷ luật, tổ chức lao động đều duy trì được là nhờ có sức
mạnh của phong tục, tập quán, nhờ có uy tín và sự kính trọng đối với những bô lão
cuaẻ thị tộc, hoặc đối với phụ nữ-địa vị của phụ nữ hồi đó không chỉ ngang với nam
giới mà còn cao hơn nữa, và lúc đó không có một hạng người riêng biệt, hạng
người chuyên môn để bóc lột” (Sđd, tr.270).
b) Sự tan rã của chế độ thị tộc và nhà nước xuất hiện
Mặc dù trong chế độ thị tộc, với trạng thái kinh tế tự nhiên chủ yếu là săn bắt
và hái lượm nhưng lực lượng sản xuất (LLSX) vẫn không ngừng phát triển thông
qua việc cải tiến công cụ sản xuất. Nhờ cải tiến công cụ lao động mà số thú rừng săn
bắt được nhiều hơn. Một số bộ lạc tiên tiến nhất lúc đầu ấy xuất hiện một bộ phận
dân cư chuyên thuần dưỡng thú rừng và sau đó là chăn nuôi gia súc trở thành ngành
lao động chủ yếu của họ. Hệ quả là những bộ lạc du mục tách rời khỏi những bộ lạc
khác để làm nghề chăn nuôi, đó là sự phân công lao động XH đầu tiên, đánh dấu sự
phát triển của xã hội công xã nguyên thủy.
Tác động của sự phân công lao động lần này là:
8
- Số súc vật tăng nhanh trở thành hàng hoá dùng để trao đổi sản phẩm, dùng để
đánh giá các sản phẩm khác khi trao đổi. Nghĩa là có chức năng tiền tệ.
- Các đồng cỏ được mở mang, việc trồng trọt ngũ cốc xuất hiện lúc đầu là phục
vụ cho chăn nuôi gia súc và sau đó là phục vụ nhu cầu con người.
- Con người đã biết dệt vải bằng khung cửi, đã phát hiện ra kim loại và chế tác
công cụ sản xuất bằng kim loại.
- Sản phẩm lao động không ngừng tăng lên làm cho nhu cầu trao đổi phát triển
và kích thích sản xuất dẫn đến nhu cầu về sức lao động tăng cao. Tù binh trong
chiến tranh bị biến thành nô lệ và cũng được tra đổi như những hàng hoá khác.
- Súc vật được chuyển từ sở hữu cộng đồng của bộ lạc thành sở hữu những
người chủ gia đình-người đàn ông. Quyền thống trị của người đàn ông trong gia
đình được xác lập để thay thế cho chế độ mẫu hệ.
Xã hội công xã nguyên thủy không ngừng phát triển do công cụ lao động luôn
được cải tiến, nhất là khi loài người phát hiện ra kim loại (đồ đồng, đồ sắt) để làm
công cụ sản xuất. Từ chỗ chế tác, cải tiến công cụ sản xuất làm cho nghề thủ công
nghiệp ra đời đã tác động mạnh mẽ đến kỹ thuật sản xuất và làm cho năng xuất lao
động của cộng đồng người nguyên thủy không ngừng tăng lên và sản phẩm làm ra
đa dạng hơn.
Nghiên cứu về giai đoạn này của XH loài người, V.I. Lênin viết: “Của cải tăng
lên nhanh chóng, nhưng vẫn là của cải của cá nhân; nghề dệt, nghề chế tạo đồ kim
loại và những nghề thủ công khác ngày càng tách khỏi nhau, làm cho sản phẩm
ngày càng có nhiều loại và nghệ thuật sản xuất ngày càng thêm hoàn hảo Một sự
hoạt động nhiều mặt như thế không thể chỉ do độc một cá nhân tiến hành được nữa,
sự phân công lao động lớn lần thứ hai đã diễn ra: thủ công nghiệp đã tách khỏi
nông nghiệp” (V.I. Lênin. Toàn tập, Tập 29, Nxb. Sự thật, H.1972, tr.548).
Tác động của sự phân công lao động lần này là:
- Sản xuất không ngừng phát triển, năng suất và giá trị hàng hoá, sản phẩm
tăng cao làm xuất hiện một bộ phận chuyên làm nghề trao đổi sản phẩm, nô lệ trở
thành bộ phận chủ yếu trong xã hội.
- Đất đai trồng trọt được chia cho các gia đình sử dụng. Gia đình bắt đầu trở
thành đơn vị kinh tế của XH. Trong XH ngoài sự phân biệt giữa người tự do với nô
lệ đã xuất hiện sự phân biệt giữa kẻ giàu với người nghèo.
- Sự liên minh các bộ lạc cùng thân tộc dẫn đến sự hợp nhất những lãnh thổ
riêng của các bộ lạc thành lãnh thổ chung của bộ tộc; quyền lực của thủ lĩnh quân sự
ngày càng được nâng cao, tập quán lựa chọn người kế thừa thủ lĩnh quân sự trong
cùng một gia đình được hình thành theo kiểu thế tập, đó là cơ sở của chế độ vương
quyền thế tập và quý tộc thế tập.
Hệ quả của lần phân công lao động về mặt xã hội là: “toàn bộ chế độ thị tộc
chuyển hoá thành cái đối lập với nó: từ một tổ chức của các bộ lạc nhằm giải quyết
một cách tự do những công việc của mình, nó đã trở thành một tổ chức để cướp bóc
và áp bức láng giềng... Các cơ quan của nó, lúc đầu là công cụ của ý chí nhân dân,
thì nay đã trở thành những cơ quan độc lập của sự thống trị và áp bức, nhằm chống
9
lại ngay chính nhân dân” (PH. Ăng –ghen, “Nguồn gốc gia đình, của chế độ tư hữu
và của nhà nước”, Sđd, tr.273).
Việc xã hội loài người phát hiện ra kim loại, biết sử dụng và cải tiến công cụ
lao động bằng kim loại đã làm cho năng xuất lao động không ngừng gia tăng, của
cải làm ra không những đủ để cung cấp cho nhu cầu của xã hội mà còn có sự dư
thừa. Từ đây xuất hiện nhu cầu trao đổi sản phẩm lao động làm ra của cộng đồng
người nguyên thủy giữa các khu vực khác nhau. Cùng với năng suất lao động không
ngừng tăng lên, xã hội loài người đã biết sử dụng đồng tiền làm thước đo giá trị sản
phẩm trao đổi đã kích thích quá trình trao đổi, mua bán hàng hóa càng ngày càng
tăng lên; từ đó xuất hiện một bộ phận dân cư chuyên làm nghề trao đổi, buôn bán
sản phẩm làm cho xuất hiện một ngành nghề mới, đó là thương nghiệp. Ngành
thương nghiệp ra đời là một trong những nguyên nhân làm cho xã hội CXNT có
những biến động to lớn, cụ thể là:
- Nền kinh tế nguyên thuỷ tự nhiên chuyển sang nền kinh tế sản xuất và trao
đổi; chế độ sử hữu chung của thị tộc được thay thế bằng chế độ sở hữu tư nhân về tư
liệu sản xuất của từng gia đình.
- Trên một lãnh thổ, trước đây chỉ có những người cùng thị tộc, bộ lạc chung
sống t