Trước khi nghiên cứu các nhiên liệu dầu khí và các tính chất của chúng, chúng ta hãy nghiên cứu những tính chất cơ bản chung của các loại nhiên liệu. Về mặt kinh tế, việc lựa chọn nhiên liệu cho một mục đích công nghiệp hay một mục đích nào đó phụ thuộc rất nhiều vào nguồn nhiên liệu, hay sự phổ dụng của nhiên liệu ở khu vực phát triển công nghiệp cũng là một yếu tố quyết định.
19 trang |
Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 3834 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài giảng Những tính chất cơ bản của nhiên liệu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nhiên liệu dầu khí
NXB Đại học quốc gia Hà Nội 2007.
Tr 5 – 21.
Từ khoá: Những tính chất cơ bản của nhiên liệu.
Tài liệu trong Thư viện điện tử ĐH Khoa học Tự nhiên có thể được sử dụng cho
mục đích học tập và nghiên cứu cá nhân. Nghiêm cấm mọi hình thức sao chép, in
ấn phục vụ các mục đích khác nếu không được sự chấp thuận của nhà xuất bản và
tác giả.
Mục lục
Chương 1 NHỮNG TÍNH CHẤT CƠ BẢN CỦA NHIÊN LIỆU ..............................2
1.1 Nhiệt độ bốc cháy của nhiên liệu......................................................................2
1.2 Giới hạn nổ của nhiên liệu................................................................................4
1.3 Tốc độ truyền lửa .............................................................................................6
1.4 Nhiệt độ ngọn lửa ............................................................................................8
1.5 Sự cháy hợp thức và sự cháy không hoàn toàn .................................................9
1.5.1 Sự cháy hợp thức (Sự cháy hoàn toàn)......................................................9
1.5.2 Sự cháy của các ankan............................................................................11
1.5.3 Sự cháy không hoàn toàn........................................................................12
1.6 Hiệu ứng phân ly trong ngọn lửa ....................................................................15
1.7 Năng suất tỏa nhiệt (NSTN hay nhiệt trị) .......................................................15
1.7.1 Nhiệt trị tinh và nhiệt trị thô ...................................................................15
1.7.2 Tính toán nhiệt trị...................................................................................16
1.8 Cường độ nhiệt ..............................................................................................17
Chương 1. Những tính chất cơ bản của
nhiên liệu
Hoa Hữu Thu
2
Chương 1
NHỮNG TÍNH CHẤT CƠ BẢN CỦA NHIÊN
LIỆU
Trước khi nghiên cứu các nhiên liệu dầu khí và các tính chất của chúng, chúng ta hãy
nghiên cứu những tính chất cơ bản chung của các loại nhiên liệu. Về mặt kinh tế, việc lựa
chọn nhiên liệu cho một mục đích công nghiệp hay một mục đích nào đó phụ thuộc rất
nhiều vào nguồn nhiên liệu, hay sự phổ dụng của nhiên liệu ở khu vực phát triển công
nghiệp cũng là một yếu tố quyết định.
1.1 Nhiệt độ bốc cháy của nhiên liệu
Nhiệt độ của nhiên liệu cần phải được nâng lên đến khi xảy ra sự cháy được gọi là
nhiệt độ bốc cháy của nhiên liệu. Nhiệt độ bốc cháy là đặc trưng cho mỗi loại nhiên liệu.
Nhiệt độ bốc cháy của các nhiên liệu có thể xác định được nhưng phải hết sức cẩn thận,
vì nhiệt độ bốc cháy của nhiên liệu không những phụ thuộc vào bản chất của nhiên liệu
mà còn phụ thuộc vào môi trường trong đó tiến hành xác định nhiệt độ bốc cháy của
nhiên liệu. Nhiệt độ bốc cháy của các nhiên liệu rắn và lỏng rất khó xác định được chính
xác vì chúng phụ thuộc vào các điều kiện trong đó nhiên liệu được đốt nóng.
Với các nhiên liệu khí và hơi, nhiệt độ bốc cháy của chúng cũng là nhiệt độ tự bốc
cháy và phụ thuộc vào điều kiện của các phương tiện được sử dụng để xác định nhiệt độ
bốc cháy. Dù vậy, các giá trị nhiệt độ bốc cháy này vẫn chính xác hơn nhiều so với các
nhiên liệu rắn. Có bốn phương pháp thường được sử dụng để xác định nhiệt độ bốc cháy
của nhiên liệu lỏng và khí.
1. Nhỏ một giọt nhiên liệu lỏng vào một chén nung được đốt nóng có điều khiển
(phương pháp Moore - Holm).
2. Nén đoạn nhiệt đến bốc cháy (phương pháp Dixon - Tizard).
3. Phương pháp cho nổ trong một bình được đốt nóng và hút chân không (phương
pháp Mallard và Le Chatelier).
4. Phương pháp ống đồng tâm (phương pháp Dixon và Coward).
Dùng các phương pháp này để xác định nhiệt độ bốc cháy của hiđrocacbon thì kết
quả khác nhau đáng kể. Theo phương pháp 3, các giá trị về nhiệt độ bốc cháy trong
không khí khi dùng hỗn hợp hợp thức đối với metan là 600°C, pentan là 510°C, octan là
250°C, benzen là 700°C, xiclohexan là 510°C, propan là 493°C. Trong quyển oxi các giá
trị thu được sẽ thấp hơn. Ví dụ minh hoạ được cho trong bảng 1.
3
Bảng 1.
Nhiệt độ bốc cháy (°C) của một số nhiên liệu và khí
Nhiên liệu Trong không khí Trong quyển oxi
Metan 580 506
Etan 472 432
n-Pentan 218 208
Toluen 552 516
Xăng (OC73) 300 290
Dầu điezen (chỉ số xetan 60) 247 242
Hiđrosunfua 292 220
Hình 1 trình bày mối liên quan giữa áp suất và nhiệt độ bốc cháy của nhiên liệu
hiđrocacbon. Ở áp suất thấp hơn áp suất khí quyển, một số khí có nhiệt độ tự bốc cháy ở
trong vùng B. Nhưng ở áp suất cao hơn áp suất khí quyển, các khí đơn giản như: CH4,
C2H4, ... có nhiệt độ tự bốc cháy giảm đi khi áp suất tăng (đường C). Với các hiđrocacbon
lớn hơn C3 thì tồn tại một vùng nhiệt độ tương đối thấp (từ 300°C đến 400°C, vùng A)
mà trong vùng này sự cháy cho hiện tượng “ngọn lửa lạnh”. Nhưng từ trên 400°C, sự
cháy có thể xảy ra hoàn toàn và nhiệt độ bốc cháy lại biến đổi theo đường cong C.
Hình 1.
Ảnh hưởng của áp suất lên nhiệt độ bốc cháy của khí và hơi
Đối với các nhiên liệu dùng cho động cơ điezen, việc xác định nhiệt độ bốc cháy của
chúng được tiến hành trong các động cơ chuẩn ở các điều kiện nhiệt độ và áp suất nhất
định theo phương pháp của Foord. Theo phương pháp này, người ta có thể đo được chính
xác thời gian trễ giữa thời điểm tiêm nhiên liệu vào động cơ và thời gian xảy ra sự cháy.
Thông thường, nhiệt độ tiêu chuẩn ban đầu được lấy là nhiệt độ thấp nhất mà ở đó nhiên
liệu sau một thời gian phân hủy sẽ bùng cháy, thời gian này có thể tới hàng giây. Như vậy
thời gian trễ cháy là quan trọng. Đương nhiên thời gian này có thể rút ngắn bằng cách
nâng nhiệt độ và sẽ không lớn hơn 1/5 ÷ 2/5 giây đối với động cơ điezen tốc độ cao.
4
Từ các đường cong thực nghiệm, Foord đã rút ra thời gian phân hủy và nhiệt độ bốc
cháy (trong không khí) của một số nhiên liệu như sau:
Thời gian (giây) 3 2 1 1/2
Gazoin (chủ yếu là parafin) 340°C 350°C 375°C 500°C
Dầu điezen (chủ yếu là naphten) 390°C 412°C 450°C 575°C
Creosote 485°C 505°C 533°C 620°C
Đối với các nhiên liệu khí, nhiệt độ bốc cháy của chúng thay đổi theo nồng độ
nhưng trong các khoảng tỉ lệ hợp thức, nhiệt độ bốc cháy của chúng thay đổi không
nhiều. Khi xác định nhiệt độ bốc cháy của nhiên liệu khí, phương pháp thứ 4 được sử
dụng thích hợp với dòng hơi nước đốt nóng sơ bộ khí, không khí hoặc oxi. Các giá trị
về khoảng nhiệt độ bốc cháy của một số khí đơn giản được trình bày trong bảng 2.
Bảng 2.
Nhiệt độ bốc cháy (°C) của một số nhiên liệu khí ở áp suất thường
Khí Trong không khí Trong khí quyển oxi
Hiđro 580 - 590 580 - 590
CO 637 - 658 644 - 658
Metan 556 - 700 650 - 750
Etan 520 - 630 520 - 630
Etilen 500 - 519 542 - 547
Axetilen 400 - 440 406 - 440
Như vậy, đối với các khí đơn giản như hiđro, CO sự thay đổi nhiệt độ bốc cháy là
nhỏ; đối với các hiđrocacbon khí nhiệt độ bốc cháy có thể chênh lệch đến trên 100°C.
Hơn nữa, với một số nhiên liệu, nhiệt độ bốc cháy trong oxi và trong không khí là
tương tự nhau; trong khi đó với một số nhiên liệu khác giá trị này lại khác nhau rất
nhiều.
1.2 Giới hạn nổ của nhiên liệu
Các nhiên liệu khí hay hơi có khả năng cháy trong không khí hay trong oxi chỉ trong
các giới hạn về nồng độ hoàn toàn xác định. Các điều kiện cần thiết để đảm bảo sự cháy
gồm: (1) nhiệt phải được phát triển đầy đủ để nâng nhiệt độ của khí lên gần nhiệt độ
cháy, (2) nhiệt sinh ra từ quá trình cháy của khí phải tiếp tục nâng nhiệt độ của khí lên
đến nhiệt độ bốc cháy.
Hai giới hạn về nồng độ cao và nồng độ thấp của nhiên liệu được gọi là giới hạn trên
và giới hạn dưới của sự cháy. Giới hạn thấp hơn là tỉ lệ nhỏ nhất của nhiên liệu có khả
năng truyền sự cháy tiếp tục. Giới hạn trên là hỗn hợp có chứa một lượng tối thiểu không
khí để giải phóng một lượng nhiệt đủ để đốt cháy liên tục. Khoảng nồng độ này đôi khi
người ta gọi là khoảng nổ, khoảng này rất quan trọng vì nó liên quan đến những sự cố tai
5
nạn do sự rò rỉ của khí dễ cháy hay hơi dễ cháy trong không khí. Điều này cũng rất quan
trọng đối với việc sử dụng thực tế các hỗn hợp nhiên liệu trong động cơ đốt trong.
Các yếu tố ảnh hưởng tới các giới hạn cháy là: (1) nhiệt trị, (2) thể tích tương đối
và nhiệt dung riêng của các khí, (3) nhiệt độ bốc cháy. Cả hai giới hạn này còn bị ảnh
hưởng bởi dạng của bình chứa khí, hướng truyền, áp suất và nhiệt độ. Sự truyền
hướng lên trong một ống có đường kính 7,5 cm cho những điều kiện tối ưu nhất. Các
giới hạn của tính dễ cháy của một số nhiên liệu được trình bày trong bảng 3.
Bảng 3.
Các giới hạn của tính dễ cháy của các nhiên liệu khí và lỏng ở
nhiệt độ và áp suất khí quyển (theo % thể tích) trong không khí
Loại khí Giới hạn thấp Giới hạn cao
Khí lò 35 74
Khí than 5,3 31,5
Khí thiên nhiên 4,8 13,5
Khí ướt 6,0 55
Dầu mỏ 1,4 6,0
Benzen 1,4 7,4
Cồn etylic 3,6 18
Ảnh hưởng của sự thay đổi đường kính ống và hướng của dòng nhiên liệu được trình
bày trong bảng 4 (ở đây L hướng lên trên, X là hướng xuống dưới, N là hướng nằm
ngang của dòng).
Bảng 4.
Ảnh hưởng của sự thay đổi đường kính ống và hướng của dòng nhiên liệu trong quá trình cháy
Đường kính ống (cm) 7,5 5 2,5
Hướng dòng nhiên liệu L N X L N X L N X
Giới hạn thấp 2,60 2,68 2,78 2,60 2,68 2,80 2,73 2,78 2,90
Giới hạn cao > 80,5 78,5 71,0 78,0 68,5 63,5 70,0 59,5 65,5
Với những hiđrocacbon lớn hơn C3 các giới hạn trở nên phức tạp do hiện tượng lửa
lạnh. Vùng lửa bình thường tập trung gần hỗn hợp lý thuyết cho sự cháy hoàn toàn, còn
vùng lửa lạnh tập trung gần thành phần hoạt động nhất trong sự cháy chậm.
Bảng 5.
Ảnh hưởng của nhiệt độ và áp suất lên giới hạn tính dễ cháy trong
không khí của một số nhiên liệu và khí
Nhiệt độ (°C) H2 CO CH4 (HT lên)*
CH4 (HT
xuống)*
17 9,4 - 71,5 16,3 - 70,0 6,3 - 1,9 6,0 - 13,4
100 8,8 - 73,5 14,8 - 71,5 6,0 - 13,7 5,4 - 13,5
200 7,9 - 76,0 13,5 - 73,0 5,5 - 1,6 5,0 - 13,8
6
400 6,3 - 81,5 11,4 - 77,5 4,8 - 16,0 4,0 - 14,7
Áp suất (atm)
20 10,2 - 68,5 17,8 - 62,8 6,0 - 17,1
50 10,0 - 73,3 20,6 - 56,8 5,4 - 29,0
125 0,9 - 74,8 20,7 - 51,6 5,7 - 45,6
(* Ảnh hưởng của hướng truyền xuống của metan được đưa vào để so sánh, HT lên - hướng
truyền lên, HT xuống - hướng truyền xuống)
Sự tăng nhiệt độ sẽ mở rộng vùng lửa bình thường một cách đáng kể. Việc tăng áp
suất cũng mở rộng vùng lửa trừ trường hợp của cacbon monoxit, vùng lửa bị hẹp lại.
Những ảnh hưởng này đối với hiđro, metan và CO trong không khí được minh họa ở
bảng 5.
Trong những trường hợp này, áp suất có ảnh hưởng rõ ràng hơn lên các giới hạn.
Ảnh hưởng của nhiệt độ và áp suất lên các giới hạn là rất quan trọng đối với động cơ đốt
trong, bởi vì nhiên liệu luôn luôn bị nén ở thời điểm cháy và cũng bị đốt nóng bởi thành
xilanh nóng. Với hỗn hợp hiđrocacbon/không khí, áp suất làm tăng giới hạn dưới, đầu
tiên bị giảm tới 50 atm và sau đó lại tăng lên. Tuy nhiên, những ảnh hưởng sau này nhỏ
và ảnh hưởng tổng cộng là sự mở rộng đáng kể các giới hạn.
Giới hạn cháy đối với một hỗn hợp các nhiên liệu khí có thể tính toán được từ quy
tắc của Le Chatelier. Quy tắc này có giá trị trong một số quá trình công nghiệp mà ở đó
sự nổ gây nguy hiểm có thể được giảm thiểu bằng cách đưa vào các thành phần nhiên liệu
khác có giới hạn trên thấp. Quy tắc Le Chatelier như sau:
L = a + b + c … L a b c
X A B C
= + +
Ở đây a, b, c là các thành phần của các cấu tử. A, B, C là giới hạn tính dễ bốc cháy
của chúng. Quy tắc này áp dụng đúng hơn cho các giới hạn thấp.
1.3 Tốc độ truyền lửa
Tốc độ truyền lửa qua hỗn hợp nhiên liệu khí/không khí có một vai trò quan trọng
trong dự án xây dựng lò đốt và không gian cháy. Tốc độ quá cao có thể gây nên sự quá
nóng của lò hay sự quá nóng cục bộ, nếu tốc độ thấp sẽ dẫn đến tắt lửa. Tốc độ truyền lửa
bị ảnh hưởng bởi tỉ lệ các cấu tử và dạng của buồng đốt.
Phương pháp thông thường để xác định tốc độ truyền lửa là cho hỗn hợp nhiên liệu
qua một ống với một tốc độ sao cho ngọn lửa bắt đầu ở phía đầu ra của ống bị tắt và bắt
lửa ngay trở lại. Những điều kiện như thế tái hiện lại sự cháy của khí nhưng không giống
sự cháy xảy ra trong động cơ đốt trong. Ở động cơ đốt trong luôn luôn có chuyển động
rối của hỗn hợp nhiên liệu và không khí. Trừ những trường hợp hỗn hợp có nồng độ rất
nhỏ thì sự chuyển động rối làm tăng tốc độ truyền lửa rất lớn. Sự tăng tốc độ truyền lửa
của các hỗn hợp có nồng độ thấp là lớn hơn so với các hỗn hợp cháy nhanh và tốc độ cao
nhất không phải là đúng tỉ lệ lý thuyết nhiên liệu và không khí để đốt cháy hoàn toàn mà
nó nằm gần như giữa các giới hạn trên và dưới của sự cháy. Ở những giới hạn này người
7
ta thấy rằng đối với 5 hiđrocacbon đầu trong dãy ankan có tốc độ truyền lửa vào khoảng
6,1 m trong 1 giây.
Khi sự truyền lửa được nghiên cứu bằng phương pháp ống như ở trên, người ta thấy
rằng tốc độ truyền lửa giảm đi theo đường kính ống tới một giá trị nhất định. Tốc độ
truyền lửa trong ống đường kính 2,54 cm giảm đi một nửa so với trong ống 30,5 cm.
Khi nghiên cứu tốc độ truyền lửa của các nhiên liệu, người ta thấy rằng ở phần trăm
khí thấp thì tốc độ cũng thấp. Khi phần trăm khí tăng lên thì tốc độ truyền cũng tăng lên
tới một cực đại và sau đó lại giảm đi khi đạt tới giới hạn trên của tính dễ bắt lửa. Các tốc
độ thấp nhất, tốc độ của các hỗn hợp giới hạn là như nhau đối với tất cả các khí, vào
khoảng 19,8 cm/s (xem hình 2).
Hình 2.
Tốc độ chuyển động đều của ngọn lửa các nhiên liệu khí trong không khí
Tốc độ truyền lửa cũng bị ảnh hưởng bởi sự có mặt của hơi nước. Ví dụ, đối với CO
tốc độ truyền lửa giảm đi đáng kể khi có mặt nước. Những giá trị thu được trong một ống
6,35 cm được trình bày trong bảng 6 sau đây.
Bảng 6.
Tốc độ truyền lửa cực đại của hỗn hợp nhiên liệu khí với không khí
trong ống nằm ngang
Tốc độ (cm/s) với đường kính
ống Nhiên liệu khí
% nhiên liệu
khí trong hỗn
hợp
2,5 (cm) 5,0 (cm)
Hiđro 35 490 -
Metan 9,5 66 91
Etan 6,5 86 130
Propan 4,6 80 120
Butan 3,7 83 113
Pentan 3,0 82 115
8
Etilen 7,2 142 -
Axetilen 8,9 282 -
1.4 Nhiệt độ ngọn lửa
Nhiệt độ ngọn lửa rất quan trọng trong sự đốt nóng khí bởi vì nhiệt độ ngọn lửa càng
cao thì tốc độ đốt nóng càng nhanh và khi nhiệt độ ngọn lửa càng cao thì hiệu quả nhiệt
của quá trình càng lớn.
Nhiệt độ ngọn lửa rất khó đo và các giá trị sử dụng bình thường là các giá trị của
nhiệt độ lí thuyết, nghĩa là những giá trị ngọn lửa được tính toán nếu coi nhiệt độ đốt
cháy chỉ đốt nóng sản phẩm cháy. Bởi vậy, nhiệt độ ngọn lửa lí thuyết có thể tính toán
từ nhiệt đốt cháy, nhiệt dung riêng và thể tích các khí. Dĩ nhiên, những giá trị này là cao
hơn những giá trị thực tế, nhưng chúng quan trọng để so sánh và dùng để tính toán các
hiệu ứng đốt nóng sơ bộ, lượng dư không khí... Một số nhiệt độ ngọn lửa của các nhiên
liệu khí được trình bày trong bảng 7.
Bảng 7
Nhiệt độ ngọn lửa của một số nhiên liệu khí
Nhiên liệu khí Nhiệt trị (cal/l) Nhiệt độ ngọn lửa (°C)
Khí than 4983 2160
Khí ướt 2758 2300
Khí máy phát 1139 1680
Khí lò 818 1460
Khí hiđro 2847 2045
Metan 8854 1880
CO 2830 1950
Trong việc tính toán các giá trị nhiệt độ ngọn lửa, người ta sử dụng nhiệt đốt cháy
thấp nhất của khí bởi vì ẩn nhiệt không có giá trị ở nhiệt độ lớn hơn 100°C.
Nhiệt độ ngọn lửa của các khí được trộn với nhau có thể tính toán được từ các bảng
hay các đồ thị cho sẵn, từ các lượng nhiệt tổng cộng của các sản phẩm cháy. Sản phẩm
cháy chủ yếu là CO2, N2, H2O. Các nhiệt độ lý thuyết là tính cho khí lạnh và lượng không
khí lạnh theo lý thuyết. Các giá trị này bị giảm đi bởi lượng dư không khí và tăng lên
bằng cách đốt nóng sơ bộ không khí hoặc nhiên liệu khí. Trong thực tế, nhiệt độ ngọn lửa
9
lý thuyết tính toán được không thật chính xác vì: 1 - Các dữ kiện, đặc biệt nhiệt dung
riêng của khí cháy, không thật chính xác; 2 - Xảy ra sự phân ly sản phẩm CO2 và H2O; 3
- Lửa bức xạ nhiệt ra ngoài từ 5 - 20%; và 4 - Nhiệt bị mất đi do đối lưu, dẫn nhiệt vì sự
cháy kéo dài trong một thời gian đáng kể.
Các nguyên nhân mất nhiệt (3) và (4) phụ thuộc vào các điều kiện đặc biệt. Nhưng
nguyên nhân (2) có thể được tính toán từ các dữ liệu đã biết và cần được hiệu chỉnh bằng
cách trừ đi nhiệt phân ly từ nhiệt đốt cháy khí. Vì nhiệt bị hấp thụ khi phân ly sản phẩm
cháy, nên nhiệt độ được điều chỉnh là thấp hơn đáng kể so với nhiệt không được điều
chỉnh. Ví dụ đối với CO nhiệt độ bị sai lệch đến 400°C.
Trong thực tế, nhiệt độ ngọn lửa cao có thể đạt được bằng (1) cháy nhanh, (2) giảm
lượng dư không khí đến tối thiểu và (3) đốt nóng sơ bộ nhiên liệu. Tăng lượng dư không
khí từ 0 ÷ 100% sẽ làm giảm nhiệt độ ngọn lửa của khí cháy lên khoảng 30%. Cùng khí
này được đốt nóng sơ bộ đến 500°C và đốt cháy với không khí cũng ở 500°C (nghĩa là đã
đốt nóng sơ bộ hỗn hợp nhiên liệu và không khí) thì nhiệt độ ngọn lửa tăng lên thêm đến
~ 20%.
1.5 Sự cháy hợp thức và sự cháy không hoàn toàn
Theo quan điểm hoá học, sự cháy là do tác dụng hoá học của oxi trong không khí với
các nguyên tố của nhiên liệu có khả năng phản ứng với nó. Nói chung sự cháy được thực
hiện ở áp suất không đổi, gần với áp suất khí quyển nghĩa là nó thấp hơn hay cao hơn một
chút tuỳ theo từng thiết bị.
1.5.1 Sự cháy hợp thức (Sự cháy hoàn toàn)
Sự cháy hợp thức hay sự cháy lý thuyết là sự cháy hoàn toàn và không dư không khí.
Khói sinh ra từ sự cháy này là những chất sau: CO2, H2O, SO2 và N2, với điều kiện là
nhiệt độ cháy không gây nên sự phân ly của các phân tử này. Những khí khác chỉ tồn tại
dưới dạng vết.
Thể tích oxi hay không khí cần thiết để đốt cháy một khối lượng đã cho của nhiên
liệu chứa: C% cacbon, H% hiđro, O% oxi, S% lưu huỳnh, tất cả theo khối lượng, cho
CO2, H2O và SO2 được xác định theo các biểu thức sau:
- Thể tích oxi: Voxi = 0,0224
C H S O
12 4 32 32
⎡ ⎤+ + −⎢ ⎥⎣ ⎦ m
3/ kg nhiên liệu
- Thể tích không khí: Vkhông khí = 1.067
C H S O
12 4 32 32
⎡ ⎤+ + −⎢ ⎥⎣ ⎦ m
3/ kg nhiên liệu
Ví dụ, để đốt cháy 1 kg metan thì cần một thể tích lý thuyết oxi là 2,80 m3 hay thể
tích không khí là 13,34 m3.
Để đốt cháy hợp thức một nhiên liệu mà thành phần của nó được biểu thị theo phần
trăm khối lượng là như sau: 84,7%C; 11,2%H; 3,5%S; 0,6%N thì phải cần một thể tích
oxi lý thuyết là 2,23 m3/kg hay một thể tích không khí là 10,64 m3/kg. Trong trường hợp,
nếu người ta kể đến các thể tích khí được sinh ra bởi sự cháy và thể tích khí nitơ có nguồn gốc
từ nhiên liệu và không khí thì lượng khói là 11,28 m3/kg. Thể tích của khói khô thu được
10
bằng cách bỏ đi thể tích hơi nước được hình thành sẽ là 9,909 m3/kg, hàm lượng CO2 là
15,45%, hàm lượng SO2 là 0,25%.
Trong sự gần đúng đầu tiên, hàm lượng CO2 của khói hợp thức được xác định bằng tỉ
số thể tích CO2 với thể tích khói khô hợp thức (αo), đủ để quyết định sự cháy. Đối với các
nhiên liệu khác nhau, αo có các giá trị gần đúng như sau:
- Khí thiên nhiên và khí sản xuất : 11 < αo < 12
- Butan và propen thương mại : αo ≥ 14
- Dầu FO (fuel oils) : 15 < αo < 16
- Than : 18 < αo < 20
Trong đại đa số các ứng dụng công nghiệp, sự cháy hoàn toàn được thực hiện với
một lượng dư không khí. Sự cháy như thế được gọi là sự cháy oxi hóa, sự cháy khử được
thực hiện khi thiếu không khí và được sử dụng trong một số quá trình luyện kim hay gốm
sứ.
Việc dư không khí phải được giới hạn đến cực tiểu cần thiết cho sự cháy hoàn toàn.
Sự dư này thay đổi từ 5 ÷ 10% đối với các thiết bị công nghiệp có công suất lớn dùng khí
hay các nhiên liệu lỏng và từ 10 ÷ 50% đối với các thiết bị dùng than.
Khi sự cháy là không hoàn toàn thì những chất không bị cháy ở dạng khí sẽ nằm
trong khí cháy dưới dạng CO và CH4. Sự cháy không hoàn toàn cũng tạo thành những
chất không bị cháy dạng rắn như than bám vào thiết bị hoặc bị kéo đi cùng với khói.
Người ta nhận