Bài giảng Pháp luật về giải quyết tranh chấp trong kinh doanh

Nội dung • Khái niệm vềgiải quyết tranh chấp trong kinh doanh • Khái niệm tranh chấp trong kinh doanh • Các yêu cầu của quá trình giải quyết tranh chấp trong kinh doanh • Các hình thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh • Thương lượng • Hòa giải • Tốtụng trọng tài • Tốtụng tòa án

pdf24 trang | Chia sẻ: maiphuongtt | Lượt xem: 2744 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài giảng Pháp luật về giải quyết tranh chấp trong kinh doanh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bài 5: Pháp luật về giải quyết tranh chấp trong kinh doanh 117 BÀI 5: PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRONG KINH DOANH Mục tiêu Nội dung Sau khi học xong bài học này, học viên sẽ nắm được: • Các phương thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh. • Cách lựa chọn phương thức tối ưu nhất nhằm giải quyết tranh chấp một cách hiệu quả, nhanh chóng, tiết kiệm. Thời lượng học • 9 tiết • Khái niệm về giải quyết tranh chấp trong kinh doanh • Khái niệm tranh chấp trong kinh doanh • Các yêu cầu của quá trình giải quyết tranh chấp trong kinh doanh • Các hình thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh • Thương lượng • Hòa giải • Tố tụng trọng tài • Tố tụng tòa án Bài 5: Pháp luật về giải quyết tranh chấp trong kinh doanh 118 TÌNH HUỐNG KHỞI ĐỘNG BÀI Tình huống Hợp đồng mua bán gạo giữa công ty BTN và công ty ABC không được thực hiện đúng như các điều khoản hợp đồng. Cụ thể là công ty ABC từ chối giao hàng cho BTN và đòi tăng giá trị hợp đồng thêm 5%. Lý do ABC đưa ra là do thế giới khủng hoảng lương thực nên giá gạo trên thị trường thế giới tăng rất cao. Hợp đồng đã ký giữa hai công ty với mức giá thấp khiến cho ABC bị thiệt quá lớn. BTN không đồng ý với lập luận này và yêu cầu ABC giao hàng đúng như đã thỏa thuận. Tuy nhiên, công ty ABC đã không giao hàng và công ty BTN đã họp Hội đồng thành viên để xem xét phương án kiện công ty ABC ra tòa. Trong quá trình thảo luận, Nam cho rằng nên tiếp tục thuyết phục ABC thực hiện hợp đồng bởi lẽ nếu nhờ đến tòa án thì dù công ty BTN có thắng kiện thì uy tín cũng bị giảm sút do mang tiếng là đã từng ra tòa. Tuy nhiên, theo ý kiến của Bắc và Trung thì phương án thuyết phục là không khả thi, chỉ có thể buộc ABC thực hiện đúng hợp đồng thông qua việc xét xử. Các thành viên công ty BTN tiếp tục thảo luận để tìm ra các phương pháp giải quyết tranh chấp kinh doanh. Câu hỏi gợi mở Theo anh (chị) công ty BTN có thể lựa chọn những phương pháp nào để giải quyết tranh chấp? Bài 5: Pháp luật về giải quyết tranh chấp trong kinh doanh ơƠ 119 5.1. Khái niệm về giải quyết tranh chấp trong kinh doanh 5.1.1. Khái niệm tranh chấp trong kinh doanh Tuy còn nhiều ý kiến khác nhau, song nhiều nhà khoa học đã thống nhất rằng, tranh chấp kinh tế được hiểu là sự bất đồng chính kiến, sự mâu thuẫn hay xung đột về lợi ích, về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia vào các quan hệ kinh tế ở các cấp độ khác nhau. Theo đó, tranh chấp kinh tế có thể có ở các dạng cơ bản sau: Tranh chấp trong kinh doanh: Được diễn ra giữa các chủ thể tham gia kinh doanh. Cụ thể, đó là các tranh chấp diễn ra trong các quá trình đầu tư, sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc thực hiện dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lời. Tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài với quốc gia tiếp nhận đầu tư: Loại hình tranh chấp này nảy sinh trong việc thực hiện các điều ước quốc tế về khuyến khích và bảo hộ đầu tư song phương và đa phương. Tranh chấp giữa các quốc gia trong việc thực hiện các điều ước quốc tế về thương mại song phương và đa phương. Tranh chấp giữa các quốc gia với các thiết chế kinh tế quốc tế trong việc thực hiện các điều ước quốc tế về thương mại đa phương như: Tranh chấp giữa Mỹ và EU về nhập khẩu chuối tại WTO. Có thể nói, trong các loại tranh chấp kinh tế kể trên, tranh chấp trong kinh doanh là loại hình tranh chấp phổ biến nhất và do đó trong một số trường hợp khái niệm tranh chấp trong kinh doanh và khái niệm tranh chấp kinh tế được sử dụng với ý nghĩa tương đương nhau. Tranh chấp trong kinh doanh là một dạng tranh chấp kinh tế, là sự bất đồng về một hiện tượng pháp lý phát sinh trong đời sống kinh tế giữa các chủ thể tham gia kinh doanh và thông thường gắn với các yếu tố, lợi ích về mặt tài sản. Do đó, có thể khái quát những đặc điểm của tranh chấp trong kinh doanh như sau: • Nó luôn gắn liền với những hoạt động kinh doanh của các chủ thể. • Các chủ thể tranh chấp trong kinh doanh thường là các doanh nghiệp. • Nó là sự biểu hiện ra bên ngoài, là sự phản ánh của những xung đột về mặt lợi ích kinh tế của các bên. 5.1.2. Các yêu cầu của quá trình giải quyết tranh chấp trong kinh doanh Tranh chấp là hệ quả tất yếu xảy ra trong hoạt động kinh doanh và vì vậy giải quyết tranh chấp phát sinh được coi là đòi hỏi tự thân của các quan hệ kinh tế. Theo hiểu biết chung: Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh chính là việc lựa chọn các biện pháp thích hợp để giải toả các mâu thuẫn, bất đồng, xung đột giữa các bên, tạo lập lại sự cân bằng về mặt lợi ích mà các bên có thể chấp nhận được. Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường phải đáp ứng các yêu cầu: • Nhanh chóng, thuận lợi không làm hạn chế, cản trở các hoạt động kinh doanh. Bài 5: Pháp luật về giải quyết tranh chấp trong kinh doanh 120 • Khôi phục và duy trì các quan hệ hợp tác, tín nhiệm giữa các bên trong kinh doanh. • Giữ bí mật kinh doanh, uy tín của các bên trên thương trường. • Kinh tế nhất, ít tốn kém nhất. Sự tác động của những đặc điểm riêng biệt về phong tục, tập quán, truyền thống, trình độ phát triển kinh tế xã hội, đã làm cho các cơ chế giải quyết tranh chấp trong kinh doanh của các quốc gia rất khác nhau. Mặc dù vậy, căn cứ vào nhu cầu điều chỉnh pháp luật có sự phân hoá đối với các hoạt động kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường, cho tới thời điểm hiện tại các hình thức giải quyết tranh chấp chủ yếu được áp dụng rộng rãi trên thế giới bao gồm: Thương lượng, hoà giải, trọng tài (phi Chính phủ), và giải quyết thông qua toà án (thủ tục tư pháp). 5.2. Các hình thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh 5.2.1. Thương lượng 5.2.1.1. Khái niệm Thương lượng là hình thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh không cần đến vai trò của người thứ ba. Đặc điểm cơ bản của thương lượng là các bên cùng nhau trình bày quan điểm, chính kiến, bàn bạc, tìm các biện pháp thích hợp và đi đến thống nhất để tự giải quyết các bất đồng. • Bản chất: Thương lượng thật sự đã trở thành quá trình trao đổi ý kiến, bày tỏ ý chí giữa các bên để tìm giải pháp tháo gỡ. • Kết quả của thương lượng là những cam kết, thoả thuận về những giải pháp cụ thể nhằm tháo gỡ những bế tắc hoặc bất đồng phát sinh mà các bên thường không ý thức được trước đó. 5.2.1.2. Hình thức pháp lý Pháp luật của các quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển đều quy định hình thức pháp lý của việc ghi nhận kết quả thương lượng là biên bản thương lượng. • Nội dung chủ yếu của biên bản thương lượng phải đề cập tới những vấn đề sau: Những sự kiện pháp lý có liên quan, chính kiến của mỗi bên (những bất đồng), các giải pháp được đề xuất, những thoả thuận cam kết đạt được. • Khi biên bản thương lượng được lập một cách hợp lệ, những thoả thuận trong biên bản thương lượng được coi là có giá trị pháp lý như hợp đồng. Hình thức thể hiện là hợp đồng sửa đổi, bổ sung hoặc phụ lục hợp đồng và đương nhiên nó có ý nghĩa bắt buộc đối với các bên. • Khẳng định giá trị pháp lý của biên bản thương lượng sẽ thể hiện tính dứt điểm đối với từng vụ việc phát sinh trong quan hệ kinh doanh, tránh được hiện tượng "bất đồng nối tiếp bất đồng" ảnh hưởng đến lợi ích của các bên. • Trong trường hợp kết quả thương lượng không được một bên tự giác thực hiện vì thiếu thiện chí, biên bản thương lượng sẽ được bên kia sử dụng như một chứng cứ quan trọng để xuất trình trước cơ quan tài phán kinh tế, yêu cầu cơ quan này thừa nhận và cưỡng chế thi hành những thoả thuận nói trên. Bài 5: Pháp luật về giải quyết tranh chấp trong kinh doanh ơƠ 121 5.2.1.3. Ưu, nhược điểm của hình thức thương lượng Thương lượng là hình thức phổ biến thích hợp cho việc giải quyết tranh chấp trong KD. • Ưu điểm: Hình thức này đơn giản, không bị ràng buộc bởi các thủ tục pháp lý phiền phức, ít tốn kém hơn và nói chung không làm phương hại đến quan hệ hợp tác vốn có giữa các bên trong kinh doanh cũng như giữ được bí mật kinh doanh. Do đó, thương lượng trở thành hình thức giải quyết tranh chấp phổ biến của các tập đoàn kinh doanh lớn trên thế giới, đặc biệt là các tập đoàn kinh doanh hoạt động trong các lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán để bảo vệ một cách có hiệu quả bí mật thương mại giữa họ. • Nhược điểm: Quá trình thương lượng thành công hay thất bại phụ thuộc vào thiện chí của các bên.Thương lượng đòi hỏi trước hết các bên phải có thiện chí, trung thực, hợp tác và phải có đầy đủ những am hiểu cần thiết về chuyên môn, pháp lý. Nếu một trong các bên thiếu thiện chí thì quá trình giải quyết thường kéo dài, thậm chí bế tắc, buộc các bên phải tìm kiếm hình thức khác và trong trường hợp đó sẽ còn mất nhiều thời gian hơn. Mặt khác, kết quả thương lượng chỉ được bảo đảm bằng sự tự giác thực hiện của các bên, nên trong nhiều trường hợp tính khả thi thấp. 5.2.2. Hoà giải 5.2.2.1. Khái niệm Hoà giải là hình thức giải quyết tranh chấp có sự tham gia của bên thứ ba độc lập, do hai bên cùng chấp nhận hay chỉ định. Bên thứ ba giữ vai trò trung gian hỗ trợ cho các bên nhằm tìm kiếm những giải pháp thích hợp cho việc giải quyết xung đột nhằm chấm dứt các tranh chấp, bất hoà. Hoà giải mang tính chất tự nguyện, tuỳ thuộc vào sự lựa chọn của các bên. • Bên thứ ba với tính chất là trung gian hoà giải phải có vị trí độc lập đối với các bên. Điều đó có nghĩa là bên thứ ba này không ở vị trí xung đột lợi ích đối với các bên hoặc không có những lợi ích gắn liền với lợi ích của một trong hai bên trong vụ việc đang có tranh chấp. Bên thứ ba làm trung gian hoà giải không phải là những đại diện bất kỳ của bên nào và cũng không có quyền quyết định, phán xét như một trọng tài Ad-hoc (trọng tài vụ việc). • Bên thứ ba làm trung gian hoà giải thường là các cá nhân, tổ chức có trình độ chuyên môn cao và có kinh nghiệm về những vụ việc có liên quan đến các tranh chấp phát sinh (có thể là các giám định viên, hội đồng giám định, phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam). Công việc của họ là: Bài 5: Pháp luật về giải quyết tranh chấp trong kinh doanh 122 o Xem xét, phân tích đánh giá và đưa ra những ý kiến, nhận định bình luận về chuyên môn, kỹ thuật, nghiệp vụ và những vấn đề có liên quan để các bên tham khảo (chẳng hạn: Tổ chức giám định, đánh giá, tư vấn chuyên môn, tư vấn pháp lý,…). o Đề ra những giải pháp, phương án thích hợp để các bên tham khảo lựa chọn và quyết định. Các bên tranh chấp cung cấp thông tin cho nhau và trình bày quan điểm của mình, người hoà giải hướng các bên vào việc tìm kiếm những giải pháp thích hợp nhằm loại trừ những ý kiến bất đồng, những xung đột về lợi ích giữa các bên. 5.2.2.2. Hình thức hoà giải chủ yếu: Hai hình thức hòa giải chủ yếu là: Hoà giải ngoài tố tụng, hoà giải trong tố tụng • Hoà giải ngoài tố tụng: Là hình thức hoà giải qua trung gian, được các bên tiến hành trước khi đưa vụ tranh chấp ra cơ quan tài phán. Đối với hoà giải ngoài tố tụng, pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới coi đây là công việc riêng của các bên nên không điều chỉnh trực tiếp và chi tiết. Mặc dù vậy, ngay trong hình thức này cũng có những vấn đề pháp lý sau đây được đặt ra: o Sự lựa chọn của các bên về trung gian hoà giải (giám định viên, hội đồng giám định,.…) có thể đã được quy định trước về mặt nguyên tắc trong hợp đồng và sau đó khi xảy ra tranh chấp các bên sẽ chỉ định cụ thể. Trong trường hợp hợp đồng không xác định thì khi xảy ra tranh chấp các bên sẽ phải thoả thuận chỉ định trung gian hoà giải. o Các bên có thể xác định một quy trình tiến hành trung gian hoà giải và trong trường hợp không xác định thì có thể hiểu là các bên dành cho trung gian hoà giải toàn quyền quyết định một quy trình mềm dẻo và linh hoạt. o Các ý kiến, nhận xét của trung gian hoà giải có tính chất khuyến nghị đối với các bên. Khi được các bên chấp thuận thì các ý kiến này sẽ được thể hiện dưới hình thức văn bản, có sự xác nhận của bên đứng ra làm trung gian hoà giải và có giá trị ràng buộc các bên. o Việc thừa nhận giá trị pháp lý những khuyến nghị của trung gian hoà giải, khi đã được các bên chấp nhận, phải được ghi nhận và đảm bảo thi hành bằng pháp luật. Điều này, cho đến nay, pháp luật nước ta còn bỏ ngỏ. o Một hợp đồng dịch vụ có liên quan đến trung gian hoà giải cần phải được thiết lập giữa các bên tranh chấp và trung gian hoà giải nhằm giải quyết các vấn đề như: Ai phải chịu phí tổn, các chuẩn mực cần thiết cho trung gian hoà giải, quyền và nghĩa vụ của các bên. Bài 5: Pháp luật về giải quyết tranh chấp trong kinh doanh ơƠ 123 o Thực chất trung gian hoà giải thường áp dụng cho việc giải quyết các tranh chấp mà ở đó ngoài yếu tố thiện chí của các bên còn có các vấn đề đòi hỏi tính chuyên môn mà tự các bên khó có thể xem xét và đánh giá một cách khách quan. o Có thể nói rằng hình thức giải quyết tranh chấp thông qua hoà giải ở nước ta chưa phổ biến do thiếu các quy định hướng dẫn cụ thể cũng như các điều kiện chuyên môn, thói quen trong thương mại. Vì vậy dường như trung gian hoà giải còn mang nặng tính lý tưởng. • Hoà giải trong tố tụng: Là hoà giải được tiến hành tại toà án hay trọng tài khi các cơ quan này giải quyết tranh chấp theo yêu cầu của các bên. Người trung gian hoà giải trong trường hợp này là toà án và trọng tài (cụ thể là thẩm phán hoặc trọng tài viên phụ trách vụ việc). o Hoà giải trong tố tụng được coi là một bước, một giai đoạn trong quá trình giải quyết tranh chấp bằng con đường toà án hay trọng tài. Hòa giải chỉ được tiến hành khi một bên có đơn kiện gửi đến toà án hoặc đơn yêu cầu trọng tài giải quyết và đơn này được thụ lý. o Do bản chất của hoà giải là sự tự quyết định của các bên tranh chấp nên trong quá trình hoà giải thẩm phán hoặc trọng tài viên không được phép ép buộc mà phải tôn trọng tính tự nguyện, tự do ý chí của các bên cũng như không được tiết lộ phương hướng, đường lối xét xử… Khi các đương sự đạt được với nhau về việc giải quyết tranh chấp thì toà án hay trọng tài lập biên bản hoà giải thành và ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đượng sự. Quyết định này có hiệu lực, được thi hành như một bản án của toà án hay phán quyết của trọng tài. Đây chính là điểm khác biệt cơ bản giữa hoà giải trong tố tụng và hoà giải ngoài tố tụng. o Ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển hoà giải trong tố tụng (đặc biệt là tố tụng toà án) phải tuân theo một quy trình hết sức chặt chẽ. Trên cơ sở tôn trọng quyền tự định đoạt của các bên, hoà giải có thể được thực hiện trước giai đoạn xét xử, trong giai đoạn xét xử và kể cả sau khi đã có phán quyết của toà án hay trọng tài. Sở dĩ có được điều này là vì theo quan điểm của họ, mục đích của việc giải quyết tranh chấp sẽ đạt được một cách hiệu quả nhất thông qua sự thoả thuận của các đương sự. CHÚ Ý Ở nhiều quốc gia hoà giải là hình thức giải quyết tranh chấp quan trọng và đây cũng là điều giải thích cho sự ra đời các trung tâm hoà giải (Trung tâm hoà giải Bắc Kinh để giải quyết các tranh chấp thương mại và hàng hải quốc tế…) và các quy trình hoà giải mẫu (Quy trình hoà giải Folloberg – Taylor), quy trình hoà giải không bắt buộc của Phòng Thương mại quốc tế tại London, quy trình hoà giải mẫu của UNCITRAL (Uỷ ban của Liên hợp quốc về Luật Thương mại Quốc tế năm 1980…). Bài 5: Pháp luật về giải quyết tranh chấp trong kinh doanh 124 5.2.3. Tố tụng trọng tài 5.2.3.1. Khái niệm Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh bằng trọng tài là hình thức giải quyết tranh chấp thông qua hoạt động của trọng tài viên, với tư cách là bên thứ ba độc lập nhằm chấm dứt xung đột bằng việc đưa ra một phán quyết buộc các bên tranh chấp phải thực hiện. 5.2.3.2. Đặc điểm • Trọng tài thương mại là một loại hình tổ chức phi Chính phủ, hoạt động theo pháp luật và quy chế trọng tài. Nó có quyền phán quyết như toà án, quyết định của trọng tài được cưỡng chế thi hành. • Cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là sự kết hợp giữa hai yếu tố thoả thuận và tài phán. Thoả thuận làm tiền đề cho phán quyết và không thể có phán quyết thoát ly những yếu tố đã được thoả thuận. Do đó, về nguyên tắc thẩm quyền của trọng tài không bị giới hạn bởi pháp luật. Các đương sự có thể lựa chọn bất kỳ lúc nào, bất cứ trọng tài Ad-hoc nào hoặc bất cứ trung tâm trọng tài nào trên thế giới. Tuy nhiên để bảo vệ lợi ích công, pháp luật của nhiều nước chỉ thừa nhận thẩm quyền của trọng tài trong lĩnh vực luật tư. • Hình thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài đảm bảo quyền tự định đoạt của các đương sự rất cao: Các bên có quyền lựa chọn trọng tài viên, lựa chọn quy tắc trọng tài, luật áp dụng để giải quyết tranh chấp…. Phiên họp giải quyết tranh chấp không diễn ra công khai. • Phán quyết của trọng tài có giá trị chung thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị và có hiệu lực thi hành đối với các bên. Nếu một trong các bên không thi hành thì bên kia có quyền yêu cầu toà án công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài. • Có sự hỗ trợ của Toà án. Sở dĩ cần phải có sự hỗ trợ của toà án bởi vì phán quyết của trọng tài không mang tính quyền lực Nhà nước. Do đó, cần phải có một cơ quan Nhà nước hỗ trợ, đó là Toà án. Có thể nói rằng không có sự hỗ trợ của toà án thì trọng tài chỉ là vô nghĩa. Theo quy định của Pháp lệnh Trọng tài thương mại Việt Nam thì toà án hỗ trợ để đảm bảo thi hành thoả thuận trọng tài, hỗ trợ cho trọng tài trong việc chỉ định trọng tài viên, áp dụng các biện pháp khẩn cấp, kiểm tra, giám sát đối với các quyết định của trọng tài (huỷ quyết định trọng tài). • Trọng tài thương mại tồn tại dưới hai dạng cơ bản: Trọng tài vụ việc và trọng tài thường trực. Ví dụ Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được quyết định trọng tài, nếu các bên không đồng ý thì có quyền làm đơn gửi Toà án tỉnh nơi hội đồng trọng tài ra quyết định, để yêu cầu huỷ quyết định trọng tài. Khi xét đơn yêu cầu, Toà án không xét lại nội dung vụ tranh chấp mà chỉ đối chiếu quyết định trọng tài với những quy định tại Điều 54 Pháp lệnh Trọng tài thương mại Việt Nam (căn cứ để huỷ quyết định trọng tài ). Bài 5: Pháp luật về giải quyết tranh chấp trong kinh doanh ơƠ 125 o Trọng tài vụ việc (trọng tài Ad-hoc): Là hình thức trọng tài được lập ra để giải quyết các tranh chấp cụ thể khi có yêu cầu và tự giải thể khi giải quyết xong những tranh chấp đó. ƒ Đặc điểm cơ bản của trọng tài vụ việc là không có trụ sở, không có bộ máy giúp việc và không lệ thuộc vào bất cứ một quy tắc xét xử nào. ƒ Về nguyên tắc, các bên khi yêu cầu trọng tài Ad-hoc xét xử có quyền lựa chọn thủ tục, các phương thức tiến hành tố tụng. ƒ Trọng tài vụ việc là hình thức tổ chức đơn giản, khá linh hoạt, mềm dẻo về phương thức hoạt động nên nói chung phù hợp với những tranh chấp ít tình tiết phức tạp, có nhu cầu giải quyết nhanh chóng và các bên tranh chấp có kiến thức và hiểu biết về pháp luật, cũng như kinh nghiệm tố tụng. Trên thực tế, số lượng vụ việc giải quyết bằng trọng tài Ad-hoc không nhiều. o Trọng tài thường trực (trọng tài quy chế): Là những tổ chức trọng tài có hình thức tổ chức, trụ sở ổn định, có danh sách trọng tài viên và hoạt động theo điều lệ riêng. ƒ Phần lớn các tổ chức trọng tài lớn, có uy tín trên thế giới đều tổ chức theo mô hình này dưới các tên gọi như: Trung tâm trọng tài, Uỷ ban trọng tài, Viện trọng tài, Hội đồng trọng tài quốc gia. Thông thường cơ cấu tổ chức của trọng tài gồm: Bộ phận thường trực (Ban quản trị và phòng thư ký), các hội đồng trọng tài (được thành lập khi có vụ việc). Ngoài ra còn có bộ phận giúp việc. ƒ Đặc điểm cơ bản của trọng tài thường trực là có quy chế tố tụng riêng và được quy định rất chặt chẽ. Về cơ bản, các đương sự không được lựa chọn thủ tục tố tụng. 5.2.3.3. Trung tâm trọng tài ở Việt Nam • Địa vị pháp lý và cơ cấu tổ chức của trung tâm trọng tài ĐIỀU 16 PHÁP LỆNH TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI VIỆT
Tài liệu liên quan