1.3.1. Cách tiếp cận nội dung
Nhiều người cho rằng, chương trình đào tạo chỉ là bản phác thảo nội dung đào tạo.
Với quan niệm này, giáo dục là quá trình truyền thụ nội dung – tri thức. Do vậy, điều
quan trọng nhất là khối kiến thức cần truyền thụ và CTGD chỉ là phác thảo nội dung khối
kiến thức cần dạy học. Hệ quả là người dạy cũng chỉ cần tìm phương pháp phù hợp để
truyền đạt khối kiến thức đó một cách tốt nhất, vô hình chung đẩy người học vào thế thụ
động trong tiếp thu kiến thức. Và việc đánh giá kết quả học tập sẽ gặp khó khăn vì mức
độ nông sâu của kiến thức không được thể hiện rõ ràng.
Chúng ta thừa nhận vai trò rất quan trọng của khối kiến thức mà người học và
người dạy phải cùng nhau đạt tới. Nhưng quá trình đào tạo không chỉ đơn giản như vậy.
Chúng ta sống trong thời đại bùng nổ thông tin với những tiến bộ như vũ bão của khoa
học và công nghệ - nhất là công nghệ thông tin viễn thông. Cứ 5 đến 7 năm, khối lượng
thông tin toàn cầu lại tăng gấp đôi. Và nền giáo dục chỉ đơn thuần là một quá trình
“truyền thụ kiến thức” với thời gian đào tạo chính khóa gần như cố định thì người dạy,
người học không đủ khả năng để truyền thụ cũng như tiếp thu khối kiến thức khổng lồ do
thông tin mang lại. Hơn nữa, cho dù có được kiến thức tối đa thì nó cũng nhanh chóng bị
lạc hậu.
Hơn nữa, rất khó có thể đánh giá được mức độ hoàn thành chương trình thiết kế
theo kiểu này. Nguyên nhân là chương trình mới chỉ là những nét phác thảo về nội dung5
kiến thức, kỹ năng mà người dạy cần rèn luyện cho người học. Bản thân người thiết kế
nắm được mức độ, phạm vi, khối lượng kiến thức kỹ năng cần có ở mỗi môn học (thang
bậc kiến thức, kỹ năng). Người dạy trực tiếp chưa chắc đã có khái niệm đầy đủ về điều
đó và hệ quả là sự tùy tiện trong biên soạn chương trình giảng dạy, thiết kế giáo án.
Người học sẽ còn bỡ ngỡ hơn vì không biết sẽ phải học, phải thi như thế nào. Nhược
điểm chính của cách tiếp cận trong thiết kế CTGD theo nội dung là khó xác định được
mục tiêu chi tiết, cụ thể, định hướng để thầy và trò cùng nhau đi tới, đồng thời qua đó xác
định được chuẩn để kiểm tra, đánh giá thành quả dạy học của GV và HS.
Các nhà giáo dục học trong và ngoài nước cũng có những nhận xét tương tự về
cách tiếp cận này. Theo Kelly, ý tưởng coi giáo dục là quá trình truyền thụ kiến thức và
CTGD chú trọng trước hết đến nội dung là quá giản đơn, bởi lẽ nó bỏ qua nhiều khía
cạnh khác không kém phần quan trọng khi thảo luận và thiết kế CTGD. Kelly cũng cho
rằng, cách tiếp cận này không khuyến khích hoặc bắt ta có trách nhiệm gì với người học,
những người tiếp thu nội dung kiến thức và là đối tượng của quá trình truyền thụ kiến
thức và cũng không có trách nhiệm gì về sự tác động của nội dung kiến thức lên người
học. Còn người học chỉ có cách học tốt nhất những gì thầy truyền thụ cho họ. Trong
trường hợp kiến thức có tác động nhất định tới người học thì cũng không có phương thức
nào kiểm tra, đánh giá chính xác được hiệu quả của quy trình đào tạo, mà chỉ đánh giá kết
quả học tập thông qua xác định lượng kiến thức và kỹ năng má người học tiếp thu và
đồng hóa được.
Mặc dù hiện nay các trường trên thế giới hầu như không còn sử dụng cách tiếp cận
này trong thiết kế chương trình giáo dục nhưng ở Việt Nam cách thiết kế CTGD theo
quan điểm nội dung vẫn còn phổ biến.
52 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 107 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài giảng Phát triển chương trình dạy học Ngữ văn - Huỳnh Thị Ngọc Kiều, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHẠM VĔN ĐỒNG
KHOA SƯ PHẠM XÃ HỘI
Bài giảng học phần
PHÁT TRIỂN CHƯƠNG TRÌNH DẠY HỌC
NGỮ VĔN
Chương trình Đại học ngành Sư phạm Ngữ vĕn
Giảng viên: HUỲNH THỊ NGỌC KIỀU
Khoa Sư phạm Xã hội
QUẢNG NGÃI, THÁNG 7/2019
2
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG TRONG VIỆC XÂY DỰNG
CHƯƠNG TRÌNH VÀ SÁCH GIÁO KHOA THPT
1.1. Khái niệm chương trình giáo dục (chương trình dạy học)
1.1.1. Các quan điểm khác nhau về chương trình giáo dục
Thuật ngữ chương trình giáo dục xuất hiện từ nĕm 1820. Tuy nhiên phải đến giữa
thế kỷ XX, thuật ngữ này mới được sử dụng một cách chuyên nghiệp ở Hoa Kỳ và một số
nước có nền giáo dục phát triển.
Chương trình Giáo dục có thể định nghĩa theo hai hướng:
- Đó là một loạt các hoạt động nhằm phát hiện khả nĕng của mỗi người học.
- Đó là một loạt các hoạt động có chủ định nhằm hoàn thiện người học.
Nĕm 1935, Hollis và Doak Compbell cho rằng chương trình giáo dục bao gồm tất
cả những hiểu biết và kinh nghiệm mà người học có được nhờ sự hướng dẫn của nhà
trường.
Nhiều tác giả khác cũng cho rằng, chương trình giáo dục (CTGD) không phải là
một sản phẩm được dùng cho lâu dài mà nó luôn có tính phát triển liên tục.
Đến giữa những nĕm 50 của thế kỷ XX, ảnh hưởng của xã hội đến nhà trường
ngày càng rõ hơn và HS không chỉ học được những gì có trong trường học mà còn tiếp
nhận nhiều kinh nghiệm phong phú trong đời sống xã hội. Do vậy, định nghĩa về CTGD
được mở rộng hơn, không chỉ đơn thuần là những nội dung học được trong nhà trường.
Ví dụ: “CTGD là tất cả các hoạt động học tập của người học và được kế hoạch hóa bởi
nhà trường nhằm đạt được những mục đích của giáo dục”.
Vào những nĕm 60 của thế kỷ XX và tiếp tục sang thế kỷ XXI, người ta quan tâm
nhiều hơn đến hiệu quả của CTGD. Ví dụ: “CTGD không chỉ quan tâm đến những gì
người học phải làm trong quá trình học tập mà còn là những gì họ sẽ học được từ những
việc làm đó. CTGD quan tâm đến những kết quả cuối cùng”. “CTGD là những hoạt động
học tập được hoạch định và chỉ đạo bởi nhà trường nhằm giúp người học phát triển nĕng
lực cá nhâ và xã hội một cách liên tục”.
Cho đến nay vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau trong việc định nghĩa về CTGD. Sự
khác nhau đó tùy thuộc vào quan niệm của các nhà nghiên cứu và các nhà thực hành khi
3
suy nghĩ và thiết kế chương trình. Từ điển Bách khoa Quốc tế về Giáo dục (Oxfofd) đã
thống kê 9 định nghĩa khác nhau về CTGD. Còn nhà nghiên cứu Reisse lại tổng hợp đến
27 định nghĩa khác nhau về CTGD, trong đó ông chia thành ba nhóm khác nhau về mức
độ rộng hẹp, nhiều ít các yếu tố cấu thành của chương trình. Tuy nhiên, khuynh hướng
chung không chỉ bó hẹp trong hai thành phần là nội dung và mục tiêu dạy học.
Tác giả K.Frey định nghĩa về CTGD như sau: “CTGD là sự trình bày, diễn tả có
hê thống việc dạy học được dự kiến trong một khoảng thời gian xác định mà sản phẩm
của sự trình bày đó là một hệ thống xác định các thành tố khác nhau nhằm chuẩn bị, thực
hiện và đánh giá một cách tối ưu vuệc dạy và học”. Đây là định nghĩa được nhiều nhà
nghiên cứu và thực hành quan tâm.
Mặc dù định nghĩa về CTGD luôn thay đổi do tác động của xã hội đối với những
bước tiến khổng lồ về Khoa học kỹ thuật và công nghệ nhưng CTGD hiện nay được xem
như là tập hợp các mục tiêu và giá trị có thể được hình thành ở người học thông qua các
hoạt động được kế hoạch hóa và tổ chức trong nhà trường, gắn liền với đời sống xã hội.
Mức độ đạt được các mục tiêu ấy là thể hiện tính hiệu quả của một CTGD. Mục đích của
việc thiết kế một CTGD phụ thuộc vào đối tượng người học của CTGD đó.
Ngày nay, quan niệm về CTGD đã rộng hơn, đó không chỉ là việc trình bày mục
tiêu cuối cùng và bảng danh mục các nội dung dạy học. Chương trình là một phức hợp
bao gồm các bộ phận cấu thành:
- Mục tiêu học tập.
- Phạm vi, mức độ và cấu trúc nội dung học tập.
- Các phương pháp, hình thức tổ chức học tập.
- Đánh giá kết quả học tập.
1.1.2. Định nghĩa chương trình giáo dục
CTGD là sự trình bày có hệ thống 1 kế hoạch tổng thể các hoạt động giáo dục
trong một thời gian xác định, trong đó nêu lên các mục tiêu học tập mà người học cần đạt
được, đồng thời xác định rõ phạm vi, mức độ nội dung học tập, các phương tiện, phương
pháp, cách thức tổ chức học tập, cách đánh giá kết quả học tập nhằm đạt được các mục
tiêu học tập đề ra.
1.2. Cấu trúc chương trình giáo dục
4
Cấu trúc CTGD gồm hai thành phần chính : sự hình dung trước những thành tựu
mà người học sẽ đạt được sau một thời gian học tập và cách thức, phương tiện, con
đường, điều kiện để mong muốn điều đó trở thành hiện thực.
Hai thành phần chính này gồm có các thành tố cơ bản sau :
- Nhu cầu đào tạo.
- Mục đích, mục tiêu đào tạo.
- Nội dung đào tạo.
- Phương thức đào tạo.
- Các hình thức tổ chức hoạt động đào tạo.
- Các hình thức kiểm tra, đánh giá kết quả đào tạo.
1.3. Các khuynh hướng khác nhau trong việc xây dựng CTGD
1.3.1. Cách tiếp cận nội dung
Nhiều người cho rằng, chương trình đào tạo chỉ là bản phác thảo nội dung đào tạo.
Với quan niệm này, giáo dục là quá trình truyền thụ nội dung – tri thức. Do vậy, điều
quan trọng nhất là khối kiến thức cần truyền thụ và CTGD chỉ là phác thảo nội dung khối
kiến thức cần dạy học. Hệ quả là người dạy cũng chỉ cần tìm phương pháp phù hợp để
truyền đạt khối kiến thức đó một cách tốt nhất, vô hình chung đẩy người học vào thế thụ
động trong tiếp thu kiến thức. Và việc đánh giá kết quả học tập sẽ gặp khó khĕn vì mức
độ nông sâu của kiến thức không được thể hiện rõ ràng.
Chúng ta thừa nhận vai trò rất quan trọng của khối kiến thức mà người học và
người dạy phải cùng nhau đạt tới. Nhưng quá trình đào tạo không chỉ đơn giản như vậy.
Chúng ta sống trong thời đại bùng nổ thông tin với những tiến bộ như vũ bão của khoa
học và công nghệ - nhất là công nghệ thông tin viễn thông. Cứ 5 đến 7 nĕm, khối lượng
thông tin toàn cầu lại tĕng gấp đôi. Và nền giáo dục chỉ đơn thuần là một quá trình
“truyền thụ kiến thức” với thời gian đào tạo chính khóa gần như cố định thì người dạy,
người học không đủ khả nĕng để truyền thụ cũng như tiếp thu khối kiến thức khổng lồ do
thông tin mang lại. Hơn nữa, cho dù có được kiến thức tối đa thì nó cũng nhanh chóng bị
lạc hậu.
Hơn nữa, rất khó có thể đánh giá được mức độ hoàn thành chương trình thiết kế
theo kiểu này. Nguyên nhân là chương trình mới chỉ là những nét phác thảo về nội dung
5
kiến thức, kỹ nĕng mà người dạy cần rèn luyện cho người học. Bản thân người thiết kế
nắm được mức độ, phạm vi, khối lượng kiến thức kỹ nĕng cần có ở mỗi môn học (thang
bậc kiến thức, kỹ nĕng). Người dạy trực tiếp chưa chắc đã có khái niệm đầy đủ về điều
đó và hệ quả là sự tùy tiện trong biên soạn chương trình giảng dạy, thiết kế giáo án.
Người học sẽ còn bỡ ngỡ hơn vì không biết sẽ phải học, phải thi như thế nào. Nhược
điểm chính của cách tiếp cận trong thiết kế CTGD theo nội dung là khó xác định được
mục tiêu chi tiết, cụ thể, định hướng để thầy và trò cùng nhau đi tới, đồng thời qua đó xác
định được chuẩn để kiểm tra, đánh giá thành quả dạy học của GV và HS.
Các nhà giáo dục học trong và ngoài nước cũng có những nhận xét tương tự về
cách tiếp cận này. Theo Kelly, ý tưởng coi giáo dục là quá trình truyền thụ kiến thức và
CTGD chú trọng trước hết đến nội dung là quá giản đơn, bởi lẽ nó bỏ qua nhiều khía
cạnh khác không kém phần quan trọng khi thảo luận và thiết kế CTGD. Kelly cũng cho
rằng, cách tiếp cận này không khuyến khích hoặc bắt ta có trách nhiệm gì với người học,
những người tiếp thu nội dung kiến thức và là đối tượng của quá trình truyền thụ kiến
thức và cũng không có trách nhiệm gì về sự tác động của nội dung kiến thức lên người
học. Còn người học chỉ có cách học tốt nhất những gì thầy truyền thụ cho họ. Trong
trường hợp kiến thức có tác động nhất định tới người học thì cũng không có phương thức
nào kiểm tra, đánh giá chính xác được hiệu quả của quy trình đào tạo, mà chỉ đánh giá kết
quả học tập thông qua xác định lượng kiến thức và kỹ nĕng má người học tiếp thu và
đồng hóa được.
Mặc dù hiện nay các trường trên thế giới hầu như không còn sử dụng cách tiếp cận
này trong thiết kế chương trình giáo dục nhưng ở Việt Nam cách thiết kế CTGD theo
quan điểm nội dung vẫn còn phổ biến.
1.3.2. Cách tiếp cận mục tiêu hay cách tiếp cận hành vi
Vào giữa thế kỷ XX, cách tiếp cận mục tiêu bắt đầu được sử dụng ở Mỹ. Theo
cách tiếp cận này, CTGD phải được xây dựng xuất phát từ mục tiêu đào tạo. Dựa trên
mục tiêu đào tạo, người lập chương trình mới quyết định lựa chọn nội dung, phương pháp
đào tạo cũng như cách đánh giá kết quả học tập. Mục tiêu đào tạo ở đây được thể hiện
dưới dạng mục tiêu đầu ra của quy trình đào tạo thể hiện qua những thay đổi về hành vi
6
của người học. Cách tiếp cận mục tiêu chú trọng đến sản phẩm đào tạo và coi đào tạo là
công cụ để tạo nên các sản phẩm với các tiêu chuẩn định sẵn.
Một chương trình giáo dục được thiết kế trên cơ sở mục tiêu đào tạo cho ta một
khuôn mẫu chuẩn được hình thành dẫn qua các giai đoạn khác nhau của quy trình đào
tạo. Đồng thời chương trình đó cũng giúp xác định mục tiêu riêng biệt cho từng nhóm
môn học, thậm chí từng môn học cụ thể cấu thành nên chương trình. Cĕn cứ vào đó,
người dạy, người học có thể lựa chọn nội dung kiến thức các phương pháp, các chiến
lược dạy học tương ứng, các phương tiện phù hợp nhằm đạt mục tiêu. Hơn nữa, một khi
chuẩn đã được xác định, các phương tiện đạt chuẩn cũng đã hình thành thì việc đánh giá
mức độ đạt chuẩn cũng sẽ được tiến hành một cách chính xác, khoa học. Kiểm tra đánh
giá kết quả đào tạo ở đây thực chất là sự đối chiếu kết quả đào tạo với hệ mục tiêu của
quy trình đào tạo đã xác định.
- Ưu điểm của cách tiếp cận này:
+ Việc xác định mục tiêu đào tạo cụ thể, chi tiết giúp xác định mục tiêu chi tiết cụ
thể của từng nhóm môn học, thâm chí từng môn học.
+ Do xác định mục tiêu đào tạo một cách cụ thể chi tiết nên việc đánh giá kết quả
đào tạo là hoàn toàn có thể thực hiện được một cách chính xác, khoa học.
+ Khái niệm “chất lượng đào tạo”, “chất lượng giáo dục” cũng sẽ được cụ thể hóa
và được đánh giá một cách khách quan, công bằng hơn.
- Nhược điểm:
+ Giáo dục không đơn thuần là công cụ để rèn đúc ra những sản phẩm theo một
khuôn mẫu cố định như một dây chuyền công nghệ trong đó “nguyên liệu đầu vào”, “quy
trình công nghệ”, “tiêu chuẩn sản phẩm” được quy định một cách ngặt nghèo.
+ Giáo dục không chỉ là quá trình truyền thụ kiến thức, không chỉ là việc rèn luyện
người học theo những mục tiêu xác định, giáo dục còn là quá trình phát triển con người,
giúp con người phát huy tối đa kinh nghiệm, tiềm nĕng sẵn có của bản thân để họ tự hoàn
thiện, tự khẳng định mình và sẵn sàng thích nghi với cuộc sông luôn biến động.
+ Giáo dục với đối tượng là con người, với đặc điểm là “không ai giống ai” (về
mọi phương diện) thì không thể xem là tương đồng với khái niệm “công nghệ giáo dục”
để áp dụng “chương trình giáo dục kiểu công nghệ” theo cách hiểu cứng nhắc được.
7
Người học trải nghiệm và hồi đáp tới cùng một chương trình giáo dục theo những con
đường riêng của mình, tùy theo nĕng lực cảm nhận, các hoạt động ưu tiên của bản thân.
1.3.3. Cách tiếp cận quản lý
Cách tiếp cận này xem nhà trường như một hệ thống xã hội mà theo lý thuyết tổ
chức, mọi nhóm dân cư, như học sinh, giáo viên, chuyên gia về chương trình giáo dục,
nhà quản lý tác động qua lại với nhau theo những chuẩn mực, hành vi nhất định. Theo
cách tiếp cận này, các nhà thiết kế chương trình giáo dục sử dụng các thuật ngữ như
chương trình, lịch trình, diện tích sử dụng, các nguồn lực, trang thiết bị và nhân sự. Quan
điểm này ủng hộ sự cần thiết phải lựa chọn, tổ chức, hợp tác và hỗ trợ những người tham
gia xây dựng chương trình giáo dục. Cách tiếp cận quản lý có xu hướng tập trung vào
khía cạnh giám sát và quản lý của chương trình giáo dục nhất là quá trình tổ chức và thực
thi. Cách tiếp cận quản lý bắt nguồn từ những nĕm 1900 trong các trường thuộc mô hình
tổ chức và hành chính và trở thành quan điểm thống trị trong những nĕm 1950 – 1960.
Trong giai đoạn này, các hiệu trưởng được xem như một tổng công trình sư chỉ đạo toàn
bộ hoạt động thiết kế cũng như thực hiện chương trình giáo dục. Một nhược điểm của
cách tiếp cận này là những nhà quản lý có quyền lực ít quan tâm đến nội dung chương
trình giáo dục, mà chủ yếu là tổ chức và thực hiện chương trình giáo dục. Họ cũng rất ít
quan tâm tới nội dung các môn học, học liệu và phương pháp dạy học.
1.3.4. Cách tiếp cận hệ thống
Cách tiếp cận hệ thống cũng có nhiều điểm tương đồng với cách tiếp cận quản lý –
tức là tổ chức chương trình giáo dục thành một hệ thống. Các bộ phận chương trình giáo
dục được xem như những yếu tố liên kết với nhau trong một chỉnh thể. Cách tiếp cận này
xem xét toàn bộ quá trình cần thiết trong việc thiết kế, thực hiện, đánh giá và phát triển
chương trình giáo dục, cùng với các yếu tố nằm trong cấu trúc của chương trình giáo dục
như môn học, khóa học, kế hoạch dạy học
Cách tiếp cận hệ thống chịu ảnh hưởng của lý thuyết hệ thống, phân tích hệ
thống và kỹ thuật hệ thống. Những khái niệm này được các nhà khoa học xã hội phát
triển vào những nĕm 1950 – 1960 và được các nhà quản lý giáo dục sử dụng như một
phần của lý thuyết hành chính và tổ chức. Lý thuyết này được sử dụng khá rộng rãi trong
quân sự, kinh doanh và công nghiệp. Còn trong thiết kế chương trình giáo dục, cách tiếp
8
cận hệ thống xem các đơn vị trong nhà trường là các yếu tố có quan hệ qua lại và tác
động lẫn nhau. Các yếu tố như nhân sự, thiết bị, lịch trình giảng dạy là các công cụ nhằm
thay đổi hành vi của các cá thể tham gia vào hoạt động của nhà trường.
Các chuyên gia thiết kế chương trình giáo dục theo cách tiếp cận hệ thống thường
có cách nhìn vĩ mô hơn về chương trình giáo dục và đề cập tới các vấn đề của chương
trình giáo dục liên quan tới toàn bộ hệ thống nhà trường chứ không phải chỉ với một bậc
học nào hay môn học nào.
Vấn đề phải xem xét là chương trình giáo dục chi phối toàn bộ nội dung đào tạo,
các kế hoạch đào tạo như thế nào, chương trình giáo dục ảnh hưởng như thế nào tới cơ
cấu tổ chức của nhà trường, tới nhu cầu và quá trình đào tạo của người học, các phương
thức điều phối và đánh giá kết quả học tập v.v.
1.3.5. Cách tiếp cận nhân vĕn (Humanistic approach)
Một số nhà thiết kế chương trình giáo dục xem các cách tiếp cận nêu trên là quá
thiên về kỹ thuật và cứng nhắc. Họ cho rằng do mong muốn xây dựng một chương trình
giáo dục thật khoa học và hợp lý các nhà thiết kế chương trình giáo dục đã bỏ qua khía
cạnh cá nhân và xã hội của chương trình giáo dục. bỏ qua các khía cạnh mỹ thuật, thể
chất, vĕn hoá của con người, hiếm khi quan tâm tới nhu cầu tự suy tư, tự thể hiện của
người học và cuối cùng là bỏ qua sự nĕng động tâm lý - xã hội học của lớp học, trường
học.
Quan điểm này có nguồn gốc từ triết học cấp tiến và phong trào xem người học là
trung tâm của những nĕm đầu thế kỷ 20. Đến những nĕm 1920 -1930 và nhất là những
nĕm 1940 - 1950 với sự phát triển của tâm lý học trẻ em và tâm lý học nhân vĕn thì cách
tiếp cận này được phát triển rộng rãi.
Tuy nhiên cách tiếp cận này phần lớn chỉ được áp dụng trong thiết kế chương trình
giáo dục của bậc tiểu học bao gồm các bài giảng về kinh nghiệm sống, trò chơi theo
nhóm, đi dã ngoại v.v. Những hoạt động mang tính giải quyết vấn đề, lôi cuốn sự tham
gia tích cực của học sinh vào giờ học, tập trung vào việc xã hội hoá hoạt động dạy - học,
tĕng cường liên kết giữa nhà trường và gia đình.
9
Các chuyên gia chương trình giáo dục có cách tiếp cận nhân vĕn thường đặt niềm
tin vàoviệc hợp tác, học độc lập, học theo nhóm nhỏ, và chống lại việc học cạnh tranh,
giáo viên là quyền uy, học lớp đông và chỉ chú ý tới nhận thức. Theo cách tiếp cận này
mỗi đứa trẻ đều có sự đóng góp của mình vào chương trình giáo dục và chia sẻ trách
nhiệm với cha mẹ, với giáo viên, với người quản lí trong việc lên kế hoạch giảng dạy.
Các nhà quản lí có xu hướng cho phép giáo viên tham gia nhiều hơn vào các qui định liên
quan tới chương trình giáo dục. Uỷ ban thiết kế chương trình giáo dục vận hành theo kiểu
từ dưới lên (bottom up) và thường mời sinh viên tham gia các phiên họp về chương trình
giáo dục để nghe ý kiến của họ đối với nội dung và kinh nghiệm của họ trong việc phát
triển chương trình giáo dục.
Cách tiếp cận nhân vĕn phát triển khá mạnh vào những nĕm 1970, với hi vọng cải
cách hoàn toàn giáo dục phổ thông. Giáo dục mở và giáo dục tự chọn trở thành một bộ
phận của phong trào cải cách trong giáo dục thời đó.
Tuy nhiên, ngày nay nhu cầu về giáo dục chất lượng, tầm quan trọng của kiến thức
hiện đại buộc các nhà thiết kế chương trình giáo dục phải tập trung vào khâu nhận thức,
chứ không phải là yếu tố nhân vĕn, và những bộ môn khoa học, toán học được quan tâm
nhiều hơn là các môn nghệ thuật hay âm nhạc. Và ngày nay những người theo cách tiếp
cận này chỉ còn là thiểu số trong các chuyên gia về chương trình giáo dục.
1.3.6. Cách tiếp cận phát triển ( The development approach) - hay còn gọi là
cách tiếp cận quá trình
Theo cách tiếp cận này chương trình giáo dục được xem là quá trình, còn giáo dục
là sự phát triển (Kelly).
Giáo dục là sự phát triển với nghĩa là phát triển con người, phát triển mọi tiềm
nĕng, kinh nghiệm để có thể làm chủ được bản thân, đương đầu với thử thách một cách
chủ động, sáng tạo. Giáo dục là một quá trình tiếp diễn liên tục suốt đời, do vậy mục đích
cuối cùng không phải là thuộc tính của nó. Cách tiếp cận này chú trọng đến sự phát triển
khả nĕng hiểu biết, tiếp thu ở người học hơn là truyền thụ nội dung kiến thức đã được xác
định từ trước.
10
Theo Kelly, theo cách tiếp cận này giáo dục là quá trình mà nhờ đó mức độ làm
chủ bản thân làm chủ vận mệnh tiểm ẩn ở mỗi người được phát triển một cách tối đa.
Pan Hirst (1965) cho rằng giáo dục phải phát triển tư duy logic, nĕng lực sáng tạo,
phát triển tri thức về mọi mặt hơn là hấp thụ lượng kiến thức trơ trọi.
Whitehead (1932) cũng đã từng nói giáo dục là nghệ thuật sử dụng kiến thức hơn
là nắm được những ý tưởng trơ trọi”
Theo J. White (1995) con người không thể học tất cả những gì cần trong nhà
trường, vì vậy chương trình giáo dục phải giúp tạo ra những sản phẩm “có thể đương đầu
với những đòi hỏi của nghề nghiệp không ngừng thay đổi, với một thế giới biến động
khôn lường”.
Tất cả những điều nói trên đòi hỏi phải thiết kế chương trình giáo dục như một quá
trình bao gồm các hoạt động cần thực hiện giúp người học phát triển tối đa những kinh
nghiệm, nĕng lực tiềm ẩn, tố chất sẵn có để đáp ứng những mục tiêu nói trên.
Nói cách khác, sản phẩm của quá trình đào tạo phải đa dạng tùy theo nĕng lực,
phẩm chất cá nhân, kinh nghiệm riêng biệt của từng người học, chứ không thể rập theo
một khuôn mẫu cho trước.
Theo cách tiếp cận này với quan điểm giáo dục là phát triển còn chương trình giáo
dục là quá trình, thì người thiết kế chú trọng nhiều hơn đến khía cạnh nhân vĕn của
chương trình giáo dục. Cụ thể là, đối tượng đào tạo, từng cá thể trong quy trình đào tạo
với nhu cầu và hứng thú của họ được xem là điểm xuất phát của việc xây dựng chương
trình giáo dục. Nhà trường chỉ cung cấp các khối kiến thức (module) cần thiết và giới
thiệu các phương thức tổ hợp các khối kiến thức để đi tới một vĕn bằng xác định. Mỗi
người học, cĕn cứ vào nhu cầu, hứng thú của bản thân, vào kinh nghiệm, kiến thức đã
tích lũy được trước đó, có thể có sự tư vấn của cố vấn học tập, tự xây dựng cho mình một
chương trình giáo dục riêng, thỏa mãn mục tiêu của bản thân.
Theo Kelly, chương trình giáo dục chỉ thực sự có tính giáo dục nếu nội dung của
nó bao gồm những cái mà người học quý trọng và thông qua việc kiên trì theo đuổi
những cái đó mà người học phát triển được sự hiểu biết, phát triển mọi nĕng lực tiềm ẩn
c