Quyền nhân thân và quyền tài sản của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác luôn được pháp luật bảo vệ. Hệ thống pháp luật của nhà nước CHXHCN Việt Nam bao gồm nhiều ngành luật, mỗi ngành luật có vai trò khác nhau trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể. Khi một chủ thể có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại tới các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể được pháp luật bảo v, chủ thể gây thiệt hại có thể phải gánh chịu hậu quả pháp lý bất lợi do hành vi của mình gây ra. Dưới góc độ pháp luật dân sự, hậu quả pháp lý đó là trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi của mình gây ra cho người bị thiệt hại.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại được đề cập rất sớm trong hệ thống pháp luật nước ta. Tuy nhiên, chỉ đến khi BLDS 1995 ra đời thì các quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại mới được quy định một cách chi tiết. Tiếp đó, BLDS 2005, hoàn thiện hơn nữ các quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Điều 604, BLDS 2005 quy định :
“ 1. Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm tính mang, sức khoẻ , danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.
23 trang |
Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 2329 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài luận Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân do gây thiệt hại ngoài hợp đồng – một số vấn đề lý luận và thực tiễn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Mục đích của Pháp luật khởi nguồn từ chính những nhu cầu thường ngày của mỗi con người, là công cụ phục vụ, bảo vệ lợi ích mọi thành viên trong xã hội của Nhà Nước , nảy sinh từ các nhu cầu sinh hoạt và nhu cầu sản xuất cũng như các nhu cầu khác trong cuộc sống hàng ngày, Những nhu cầu ngày càng tăng đó của con người đòi hỏi phải có những phương tiện pháp lý mới nhằm điều chỉnh và ổn định xã hội . Do vậy sự ra đời của chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng với tư cách là một chế định dân sự độc lập, đảm bảo quyền và lợi ích của người bị thiệt hại là một điều tất yếu. Việc thực hiện trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là nhằm khôi phục lại các quyền tài sản và các quyền và lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, tổ chức, pháp nhân, nhà nước. Để việc tiến hành bồi thường thiệt hại được diễn ra thuận lợi và bảo đảm quyền lợi cho chủ thể bị thiệt hại yêu cầu cần xác định được đúng người có trách nhiệm, có khả năng để thực hiện nghĩa vụ bồi. Do vậy, xác định năng lực bồi thường thiệt hại của cá nhân là một vấn đề quan trọng trong xác định đúng năng lực bồi thường thiệt hại của người gây ra thiệt hại và người có trách nhiệm bồi thường thiệt hại để tạo ra tính khả quan cho công tác thực thi trách nhiệm bồi thường thiệt hại và đảm bảo được nguyên tắc của bồi thường thiệt hại là phải kịp thời và toàn bộ.
Nhận thức được tầm quan trọng của chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cũng như vấn đề xác định năng lực chủ thể trong trách nhiệm bồi thường đối với sự công bằng và phát triển của xã hội, em xin chọn đề tài : “Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân do gây thiệt hại ngoài hợp đồng – một số vấn đề lý luận và thực tiễn” để nghiên cứu trong bài tập lớn học kỳ lần này .
Do hạn chế về kinh nghiệm thực tế cũng như thời gian nghiên cứu , bài làm của em còn nhiều thiếu sót, mong thầy cô nhìn nhận vào yếu tố cố gắng bên cạnh yếu tố chất lượng của bài viết mà nhẹ nhàng chỉ bảo . Em xin chân thành cám ơn !
Nội dung
I. Khái quát chung về trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng
1. Khái niệm và điều kiện phát sinh trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng :
1.1. Khái niệm :
Quyền nhân thân và quyền tài sản của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác luôn được pháp luật bảo vệ. Hệ thống pháp luật của nhà nước CHXHCN Việt Nam bao gồm nhiều ngành luật, mỗi ngành luật có vai trò khác nhau trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể. Khi một chủ thể có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại tới các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể được pháp luật bảo v, chủ thể gây thiệt hại có thể phải gánh chịu hậu quả pháp lý bất lợi do hành vi của mình gây ra. Dưới góc độ pháp luật dân sự, hậu quả pháp lý đó là trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi của mình gây ra cho người bị thiệt hại.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại được đề cập rất sớm trong hệ thống pháp luật nước ta. Tuy nhiên, chỉ đến khi BLDS 1995 ra đời thì các quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại mới được quy định một cách chi tiết. Tiếp đó, BLDS 2005, hoàn thiện hơn nữ các quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Điều 604, BLDS 2005 quy định :
“ 1. Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm tính mang, sức khoẻ , danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.
2. Trong trường hợp pháp luật quy định người gây thiệt hại phải bồi thường cả trong trường hợp không có lỗi thì áp dụng quy định đó.”
Như vậy, theo quy định tại điều 604, BLDS 2005 thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng phát sinh khi người có hành vi trái pháp luật có lỗi gây thiệt hại cho các lợi ích được pháp luật bảo vệ. Ngoài ra, trong những trường hợp đặc biệt nếu pháp luật quy định người gây thiệt hại phải bồi thường thiệt hại kể cả khi không có lỗi thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại cũng phát sinh kể cả khi không có lỗi của người gây thiệt hại. Dưới góc độ khoa học pháp lý, trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp này được gọi là trách nhiệm nâng cao.
Qua đó, có thể đưa ra khái niệm về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng như sau:
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một loại trách nhiệm pháp lý được phát sinh dựa trên các điều kiện do pháp luật quy định khi chủ thể có hành vi gây thiệt hại cho các lợi ích được pháp luật bảo vệ.
1.2. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Trong Bộ luật dân sự 2005 của nước ta không có một quy định nào quy định cụ thể về các điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Tuy nhiên, theo Nghị Quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 01/2004 NQ/- HĐTP ngày 28 tháng 4 năm 2004 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật dân sự về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì có bốn điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng: (1) có thiệt hại xảy ra, (2) hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật, (3) có lỗi của người gây thiệt hại, (4) có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi trái pháp luật.
1.2.1. Có thiệt hại xảy ra
Mục đích của việc bồi thường thiệt hại là khôi phục lại, bù đắp lại những tổn thất cho người bị thiệt hại cho nên nếu không có thiệt hại thì vấn đề bồi thường sẽ không được đặt ra kể cả trong trường hợp các điều kiện khác đã đáp ứng đầy đủ. Từ đây có thể thấy thiệt hại là điều kiện tiên quyết, bắt buộc phải có của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng để quyết định xem có phát sinh trách nhiệm bồi thường hay không.
Thiệt hại theo luật dân sự Việt Nam được hiểu là :” những tổn thất thực tế được tính thành tiền do việc xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, uy tín, tài sản của tổ chức, cá nhân, tổn thất thực tế ở đây chính là sự giảm sút, mất mát về lợi ích vật chất, tinh thần hay những chi phí bỏ ra để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại mà người bị thiệt hại phải gánh chịu”
Như vậy, thiệt hại được xác định bao gồm thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần. Việc xác định thiệt hại về vật chất tương đối cụ thể, rõ ràng nhưng xác định thiệt hại về tinh thần là vấn đề hết sức khó khăn trong nhiều trường hợp .
Do đó cần phải tính toán thiệt hại một cách chi tiết dưa vào các căn cứ cụ thể , tránh việc suy diễn chủ quan , đánh giá thiếu khách quan .
1.2.2. Có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại
Hành vi trái pháp luật gây thiệt hại để phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại được hiểu là những hành vi mà pháp luật cấm, không cho phép thực hiện. Cơ sở để xác định hành vi trái pháp luật là căn cứ vào các quy định của pháp luật trong từng trường hợp cụ thể .
Hành vi gây thiệt hại có thể được thể hiện dưới dạng hành động hoặc không hành động. Đó đều là những xử sự của con người, có ý chí và được lý trí kiểm soát, gây thiệt hại cho các lợi ích được pháp luật bảo vệ. Hành động gây thiệt hại hoặc có thể là tác động trực tiếp của chủ thể vào đối tượng gây thiệt hại hoặc có thể là tác động gián tiếp của chủ thể vào đối tượng thông qua công cụ, phương tiện gây thiệt hại. Không hành động gây thiệt hại là một hình thức của hành vi gây thiệt hại cho khách thể bằng ciệc chủ thể không làm một việc pháp luật quy định bắt buộc phải làm trong khi bản thân chủ thể có đầy đủ điều kiện để làm việc đó .
1.2.3. Có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi trái pháp luật
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng phát sinh khi thiệt hại xảy ra là do chính kết quả trực tiếp, tất yếu của hành vi trái pháp luật. Đây chính là mối quan hệ của sự vận động nội tại, trực tiếp và về nguyên tắc nguyên nhân phải xảy ra trước kết quả trong khoảng thời gian xác định. Theo Điều 604 của BLDS thì có thể thấy hành vi “xâm phạm” đến tính mạng, tài sản, sức khoẻ…là nguyên nhân và “thiệt hại” là hậu quả của hành vi đó.
Hành vi trái pháp luật là nguyên nhân làm phát sinh thiệt hại nên hành vi đó bao giờ cũng xuất hiện trước thiệt hại. Mối quan hệ nhân quả là một vấn đề phức tạp bởi lẽ một thiệt hại xảy ra có thể là do tác động của một hoặc của nhiều hành vi trái pháp luật và một hành vi trái pháp luật cũng có thể gây ra nhiều thiệt hại. Do đó khi xem xét mối quan hệ này cần hết sức thận trọng, phải thu thập đầy đủ các tài liệu và chứng cứ, đánh giá một cách toàn diện đối với vấn đề đang giải quyết để có thể đưa ra một kết luận chính xác, xác định đúng người có trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
1.2.4. Có lỗi của người gây thiệt hại
Lỗi là trạng thái tâm lý của người có hành vi gây thiệt hại, phản ánh nhận thức của người đó đối với hành vi và hậu quả của hành vi mà họ đã thực hiện. Xét về bản chất, lỗi được các ngành luật xác định khác nhau. Trong luật dân sự, lỗi được xác định là một trong bốn điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồn nói riêng và trách nhiệm dân sự nói chung. Việc áp dụng lỗi làm căn cứ để xác định trách nhiệm được BLDS 2005 quy định tại điều 308 .Theo đó, lỗi được chia thành 2 loại là lỗi cố ý và lỗi vô ý
Trong luật dân sự Việt Nam, về nguyên tắc, trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi người gây thiệt hại có lỗi, bất kể đó là lỗi vô ý hay cố lý .
Bên cạnh đó, trong một số trường hợp, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng phát sinh ngay cả khi người gây thiệt hại khôn có lỗi ( khoản 3 điều 623, 624 BLDS 2005) .
Tuy nhiên việc đánh giá hình thức, mức độ lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng vẫn là một công đoạn quan trọng , có ý nghĩa lớn trong việc xác định trách nhiệm bồi thường của các bên(Khoản 2 điều 615) hay giảm mức bồi thường ( Khoản 2, điều 605) .
2. Cá thể hóa trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
2.1. Khái niệm cá thể hóa trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng
Khi có thiệt hại xảy ra thì bên cạnh việc xác định mức độ thiệt hại, cùng các điều kiện cấu thành trách nhiệm của người gây thiệt hại thì việc xác định rõ ai là người phải đứng ra gánh vác trách nhiệm và thực hiện việc bồi thường để đảm bảo quyền lợi cho người bị hại là một vấn đề rất quan trọng. Theo cách hiểu chung và khái quát nhất thì ai là người gây ra thiệt hại thì người đó phải bồi thường. Tuy nhiên điều kiện để trở thành một chủ thể tham gia vào một quan hệ pháp luật thì người đó phải có đầy đủ năng lực chủ thể theo quy định của pháp luật.
Do vậy, khi thiệt hại xảy ra cần phải xác định trách nhiệm bồi thường sẽ thuộc về ai. Đây là một vấn đề rất quan trọng, bởi lẽ nếu không xác định được người phải bồi thường thì quyền lợi của người bị thiệt hại không được đảm bảo. Chính vì vậy mà vấn đề cá thể hóa trách nhiệm bồi thường thiệt hại được đặt ra.
Vậy, cá thể hóa trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là việc xác định người có trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong từng trường hợp gây thiệt hại cụ thể .
2.2. Điều kiện để cá thể hóa trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng
Để trở thành chủ thể của một quan hệ pháp luật dân sự thì người tham gia cần đáp ứng điều kiện về năng lực chủ thể theo quy định của pháp luật. Quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cũng là một quan hệ pháp luật dân sự do vậy để trở thành chủ thể của quan hệ này thì người tham gia cũng cần phải có đầy đủ những điều kiện về năng lực chủ thể của quan hệ pháp luật nói chung. Bên cạnh đó, do đặc thù riêng của quan hệ pháp luật này mà cần có thêm một số điều kiện nhất định. Cụ thể, để cá thể hóa trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng cho một chủ thể cần phải đáp ứng các điều kiện sau :
Độ tuổi : Theo quy định của pháp luật thì năng lực chủ thể được cấu thành bởi hai yếu tố là năng lực pháp luật và năng lực hành vi. Trong đó, năng lực hành vi dân sự của cá nhân hình thành khi đáp ứng những điều kiện nhất định đó là về độ tuổi và nhận thức. Mặt khác, năng lực hành vi dân sự lại được chia thành các mức khác nhau, phụ thuộc vào độ tuổi của cá nhân. Điều 19 BLDS quy định : “Người thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp quy định tại Điều 22 và Điều 23 của BLDS”. Như vậy người thành niên – người từ đủ 18 tuổi trở lên là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, được phép tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự và tự mình gánh chịu các nghĩa vụ dân sư.
Sự tương ứng giữa việc quy định độ tuổi để xác định năng lực hành vi dân sự và căn cứ vào độ tuổi để quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng ngay trong BLDS 2005 đã cho thấy việc quy định độ tuổi là một yếu tố quan trọng trong vấn đề cá thể hóa trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là hoàn toàn hợp lý và chính xác .
- Nhận thức
Bên cạnh độ tuổi, khả năng nhận thức cũng là một yếu tố tạo nên năng lực hành vi dân sự của chủ thể. Khi phân tích về vấn đề này ta có thể thấy giữa khả năng nhận thức và độ tuổi có mối quan hệ với nhau, cụ thể, khả năng nhận thức của con người lại phụ thuộc vào chính độ tuổi. Con người chỉ có khả năng nhận thức đầy đủ khi đạt một độ tuổi nhất định, khi chưa đạt độ tuổi này thì con người hoặc chưa có khả năng nhận thức hoặc là khả năng nhận thức còn hạn chế. Tuy nhiên, cũng có trường hợp, người không có khả năng nhận thức nhưng không phải do chưa đạt một độ tuổi nhất định mà do bị mất khả năng nhận thức của mình .
Như vậy, để tham gia vào một quan hệ xã hội nhất định thì chủ thể phải có đầy đủ ý chí cũng như lý trí để điều khiển hành vi của mình, phải nhận thức được những gì mình đang làm cũng như hậu quả của hành vi đó. Người đứng ra chịu trách nhiệm chính trong quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có thể chính là người gây ra thiệt hại và cũng có thể không phải là người gây ra thiệt hại. Việc thực hiện bồi thường ảnh hưởng đến chính quyền lợi của họ do vậy họ phải nhận thức được việc mình đang làm và trách nhiệm bồi thường sẽ không đặt ra với người không có khả năng nhận thức. Từ những nhận định trên, có thể nói, việc đánh giá khả năng nhận thức của chủ thể trong vấn đề cá thể hóa trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là hết sức cần thiết.
- Mối quan hệ pháp lý giữa người gây thiệt hại và người phải bồi thường
Mối quan hệ giữa người gây thiệt hại và người phải bồi thường được đặt ra để cá thể hóa trách nhiệm bồi thường thiệt hại là để giải quyết các tình huống người gây thiệt hại không có khả năng bồi thường. Việc xem xét mối quan hệ pháp lý giữa người gây thiệt hại và người phải bồi thường có ý nghĩa trong việc xác định đúng người đại diện cho người gây thiệt hại để thực hiện nghĩa vụ. Họ phải thực hiện việc bồi thường dù họ không gây ra thiệt hại nhưng họ lại có lỗi trong việc quản lý người gây thiệt hại.
II.Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân do gây thiệt hại ngoài hợp đồng :
Năng lực bồi thường thiệt hại của người từ đủ 18 tuổi :
Người tử đủ 18 tuổi trở lên theo quy định của Bộ luật dân sự Việt Nam 2005 là người thành niên (Điều 18),có năng lực hành vi dân sự đầy đủ nếu không rơi vào các trường hợp bị Tòa án tuyên là mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị tuyên là hạn chế năng lực hành vi dân sự (Điều 23). Theo những quy định này thì khi một người đủ 18 tuổi họ có đầy đủ tư cách chủ thể để bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự, có nghĩa là họ có toàn quyền tham gia các quan hệ dân sự với tư cách là một chủ thể độc lập và tự chịu trách nhiệm về những hành vi do mình thực hiện.
Như vậy người từ đủ 18 tuổi nếu không bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự thì phải tự chịu trách nhiệm bồi thường những thiệt hại mà mình gây ra cho người khác . Điều này được ghi nhận tại khoản 1 điều 606: “Người từ đủ 18 tuổi trở lên gây thiệt hại thì phải tự bồi thường”.
Xét quy định trên , ta nhận thấy người từ đủ 18 tuổi là người đã thành niên và có đủ điều kiện tham gia vào các quan hệ pháp luật do vậy, họ hoàn toàn đủ năng lực để tham gia và trở thành chủ thể của quan hệ bồi thường thiệt hại và nếu là người gây ra thiệt hại thì họ hoàn toàn có đủ năng lực để thực hiện trách nhiệm bồi thường. Ở độ tuổi này họ đã có đầy đủ năng lực tham gia vào các quan hệ lao động nên xét trên một bình diện chung nhất thì những người này đã có thu nhập và cũng có khả năng tạo ra thu nhập để thực hiện nghĩa vụ của mình. Qua đó, có thể nói việc quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người từ đủ 18 tuổi gây ra thuộc về chính họ là hoàn toàn hợp lý và phù hợp với các quy định hiện hành của pháp luật.
Tuy nhiên trong thực tiễn áp dụng quy định này, vẫn tồn đọng một số vấn đề đáng lưu tâm. Cụ thể, trong vụ án dân sự sơ thẩm số 55/2008 của tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh :
Tóm tắt nội dung vụ án như sau: Vào khoảng 12 giờ ngày 20/9/2006 trên đường đi học, anh Toản (1987) điều khiển xe máy dream đi ngược chiều vào đường Nguyễn Khuyến, do không làm chủ được tốc độ đã đâm vào ô tô camry của chị Đặng Thu Nga đang đỗ trên lề đường. Vụ va chạm đã làm móp mui xe, hỏng đèn tai bèo, thiệt hại mà chị Nga phải chịu là 38 triệu đồng.
11/10/2006 Anh Toản đã mang 10 triệu đồng đến bồi thường thiệt hại và trình bày hoản cảnh khó khăn của mình. Tuy nhiên chị Nga không đồng ý và yêu cầu anh bồi thường số tiền còn thiếu. Đến tháng 8/2007, do anh Toản vẫn chưa có khản năng bồi thường số tiền còn thiếu, chị Nga đã đâm đơn kiện lên tòa, yêu cầu gia đình anh Toản phải bồi thường cho mình số tiền còn thiếu là 28 triệu đồng.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 55/2008/DSST ngày 31/5/2008 của tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, tòa quyết định: Buộc anh Toản phải trả cho chị Nga số tiền còn thiếu là 28.000.000đ với hình thức mỗi tháng trả 500.000đ cho đến khi hết số tiền nêu trên .
Bác yêu cầu của chị Nga yêu cầu gia đình anh Toản phải trả nợ thay bởi lý do, vào thời điểm gây thiệt hại, anh Toản đã đủ 18 tuổi, có đủ năng lực để trở thành chủ thể của quan hệ bồi thường thiệt hại .
Nhận xét : Theo quy định của pháp luật ,người từ đủ 18 tuổi phải tự chịu trách nhiệm bồi thường khi gây thiệt hại dù tình trạng tài sản của họ có như thế nào đi nữa. Tuy nhiên, có một thực tế là : Tại Việt Nam hiện nay, một bộ phận lớn thanh niên đạt độ tuổi từ 18 đến 22 vẫn tiếp tục theo học tại các trung tâm giáo dục khác nhau, chịu sự bao bọc, quản lý của người thân, do đó, khả năng tài chính hay nói cách khác thu nhập của những người này vẫn phải phụ thuộc phần nhiều vào người khác. Trong nhiều trường hợp, cụ thể như trường hợp nêu trên, sau khi gây thiệt hại, họ không có đủ khả năng để thực hiện nghĩa vụ, tuy nhiên đây là trách nhiệm của họ, không thể chuyển giao cho người khác và người khác cũng không có nghĩa vụ phải thực hiện thay cho họ (trừ trường hợp người nhà của họ hoặc có người khác tự nguyện thay họ thực hiện trách nhiệm bồi thường thiệt hại). Do vậy trong trường hợp này, tòa cần phải đưa ra một giải pháp mềm mỏng hơn. Cụ thể, tòa đã buộc anh Toản phải bồi thường dần số tiền theo từng tháng, dựa trên mức thu nhập trung bình của anh. Tuy quyết định này làm ảnh hưởng đến quyền lợi của chị Nga, chưa đảm bảo được các nguyên tắc bồi thường thiệt hại, nhưng đã phần nào đảm bảo được việc thực hiện nghĩa vụ của anh Toản, cũng như thỏa mãn yêu cầu đòi bồi thường của chị Nga.
Năng lực bồi thường thiệt hại của người chưa thành niên
Người chưa thành niên là người chưa đủ 18 tuổi theo quy định của pháp luật thì đây là những người chưa có năng lực hành vi dân sự (người dưới 6 tuổi) hoặc chưa có năng lực hành vi dân sự đầy đủ hay nói cách khác là chỉ có năng lực hành vi dân sự một phần (người từ đủ 6 đến dưới 18 tuổi). Trong độ tuổi này các chủ thể chưa có khả năng nhận thức hoặc chưa nhận thức một cách đầy đủ và chính xác về những việc mình đã làm cũng như chưa nhận thức được một cách sâu sắc về những thiệt hại có thể xảy ra do hành vi của mình. Do vậy, nếu những người này gây ra thiệt hại thì phải có người đứng ra đại diện cho họ để thực hiện nghĩa vụ bồi thường.
Mặc dù cùng nằm trong nhóm tuổi người chưa thành niên nhưng việc quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người dưới 18 tuổi gây ra lại không giống nhau trong mọi trường hợp. Trong nhóm tuổi này việc quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại có sự phân biệt giữa hai độ tuổi khác nhau là người chưa thành niên dưới 15 tuổi và người chưa thành niên từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi.
2.1. Năng lực