Nhà khoa học kiêm triết gia Hy Lạp nổi tiếng Democritus (sống cách nay khoảng 2.400 năm) từng tuyên bố rằng Dải Ngân Hà gồm có vô số vì sao. Nếu không từng quan sát Ngân hà qua kính viễn vọng trong thực tế thì làm sao ông có thể tưởng tượng ra được điều đó? Ngoài Democritus còn có nhiều phát biểu của các triết gia Hy Lạp và La Tinh cổ đại cho thấy người ta đã sử dụng kính viễn vọng từ rất xa xưa.
8 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2081 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài viết Người tiền sử đã phát minh ra kính thiên văn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
“Người tiền sử” đã phát minh ra kính thiên văn?Rõ ràng nguồn gốc và lịch sử của kính viễn vọng vẫn còn là điều bí ẩn. Nó thuộc về những thời đại vô cùng xa xưa, vượt xa sự tưởng tượng của chúng ta.Nhà khoa học kiêm triết gia Hy Lạp nổi tiếng Democritus (sống cách nay khoảng 2.400 năm) từng tuyên bố rằng Dải Ngân Hà gồm có vô số vì sao. Nếu không từng quan sát Ngân hà qua kính viễn vọng trong thực tế thì làm sao ông có thể tưởng tượng ra được điều đó? Ngoài Democritus còn có nhiều phát biểu của các triết gia Hy Lạp và La Tinh cổ đại cho thấy người ta đã sử dụng kính viễn vọng từ rất xa xưa.
Các triết gia nổi tiếng thời cổ đại: Iamblichus và Democritus
Triết gia nổi tiếng người Assyria cổ đại Iamblichus Chalcidensis nói rằng “Nhờ compa, thước, và teleskopein, khả năng nhìn được làm cho chính xác”. Trong đó, trong tiếng Hy Lạp cổ từ “tele” có nghĩa là “ở xa”, còn “skopein” nghĩa là “nhìn”. Vậy, trong thực tế người Hy Lạp đã sử dụng kính viễn vọng từ khi nào?
Người Babylon vài ngàn năm trước đã biết rất nhiều điều về thiên văn học, chứng tỏ họ đã sở hữu kính thiên văn
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng người cổ đại đã dùng kính viễn vọng từ rất lâu. Các nhà thiên văn học Babylon, giống như được mô tả trong con dấu cổ đại bên trên, đã lập danh mục các ngôi sao cố định, đã quan sát và ghi chép lại về các hiện tượng nhật thực và nguyệt thực của các hành tinh, và xác định đúng chiều dài vòng giao hội của mặt trăng. Họ cũng biết một năm có 365 ngày 6 tiếng 11 phút, chỉ sai khác hơn 1 phút so với hiểu biết hiện nay của chúng ta (365 ngày 6 tiếng 10 phút). Họ còn biết sự sắp xếp của các hành tinh trong Thái dương hệ và một số mặt trăng của chúng. Để biết được điều đó tất nhiên là phải sử dụng kính thiên văn. Trên các tấm đất sét được lưu trữ tại Bảo tàng Anh, niên đại khoảng năm 747 trước Công nguyên, có các ghi chép thiên văn học cho thấy họ đã quan sát một số mặt trăng của sao Mộc và sao Thổ. George Rawlinson, nhà Đông Phương học người Anh, vào những năm 1860 đã nói: “Có bằng chứng rõ ràng rằng họ đã quan sát 4 vệ tinh của sao Mộc, và rất có lý khi tin rằng họ đã quen thuộc với 7 vệ tinh của sao Thổ”.
Heinrich Scliemann và một trong những thấu kính mà ông khám phá ra tại một thành phố cổ đại mà nhiều nhà nghiên cứu cho là thành Troa huyền thoại
Ngài Austen Henry Layard là một nhà bác học nổi tiếng người Anh (5/3/1817 – 5/7/1894)
Trong số các thiết bị thiên văn của họ dường như có các kính thiên văn khúc xạ ống kính đơn, lớn hơn và phức tạp hơn các thấu kính của người Babylon cổ đại mà ngài Austen Henry Layard tìm thấy tại Nimrud và mang tới Anh vào năm 1853. Theo giáo sư Giovanni Pettinato thuộc trường Đại học Rome, Italia, chiếc thấu kính này có thể khiến lịch sử khoa học phải được viết lại. Ông tin rằng nó có thể giải thích tại sao người Assyria cổ đại lại hiểu biết về thiên văn học như vậy.
Một thấu kính do Austen Henry Layard tìm được tại vùng đất xưa kia thuộc Babylon cổ, hiện đang nằm tại Bảo tàng Anh.
Trong tác phẩm “Mặt trời pha lê”, Robert Temple đã cung cấp nhiều tấm ảnh của các thấu kính rải rác xung quanh nhiều viện bảo tàng khác nhau. Trong đó, có một mảnh gốm Hy Lạp 2.000 năm tuổi tại Bảo tàng Acropolis ở Athens, trên đó có vẽ một người đàn ông đang nhìn qua thứ y hệt như một chiếc kính thiên văn khúc xạ hiện đại của chúng ta ngày nay.
Thấu kính được tìm thấy tại Cairo, Ai Cập (bên trái), và hình ảnh một người đàn ông Hy Lạp cổ đại thế kỷ 4 trước công nguyên đang cầm ống nhòm quan sát, trên một mảnh gốm khai quật được
Một thấu kính cổ đại khác được tìm thấy tại Louvre, Paris
Các thấu kính tìm thấy tại Visby, Thụy Điển, có niên đại hàng ngàn năm trước
Hình ảnh tái tạo 3D cho thấy độ cong hoàn hảo của thấu kính Visby
So sánh hình chạm nổi kính viễn vọng trên chiếc bình cổ Hy Lạp với một chiếc kính viễn vọng hiện đại
Ống nhòm 2 mắt cũng được người xưa biết tới từ lâu. Trong tác phẩm “Những mảnh vỡ” của sử gia Polybius (200 – 118 trước công nguyên) Hy Lạp cổ đã nói về “một kính viễn vọng có 2 ống”. Hơn nữa, nhà bác học Gaius Plinius Secundus (23-79 sau công nguyên), trong khi tranh cãi về vị trí của địa cầu trong vũ trụ, cũng nói rằng “ống nhòm 2 mắt đã xác nhận điều này một cách rất rõ ràng”.Theo một số nguồn tư liệu, trước khi phát minh ra Lịch Julius vào năm 46 trước công nguyên, Julius Caesar có thể đã sử dụng kính thiên văn để xác định vị trí của địa cầu.Roger Bacon (1214–1294) 9 năm trước khi vượt qua vùng biển Anh Pháp đã sử dụng một loại ống nhòm để khảo sát bờ biển nước Anh khi đứng tại nước Pháp.Người cổ đại không chỉ sử dụng kính thiên văn khúc xạ ống kính đơn. Họ cũng đã chế tạo ra kính thiên văn phản xạ, có chất lượng tốt hơn. Gaius Plinius Secundus viết: “Khi sử dụng một tấm gương nếu bề dày của tấm kim loại được mài nhẵn và được gò thành một hình dạng hơi lõm, thì kích thước của các mục tiêu được phản chiếu được phóng đại lên rất lớn“.Những mô tả đó đã chứng minh là người cổ đại đã biết sử dụng kính thiên văn từ hàng ngàn năm trước thời Galileo chào đời (hiện trong sách giáo khoa Galileo vẫn được cho là đã phát minh ra kính thiên văn vào thế kỷ 17).
Một tảng đá ICA, Peru cho thấy một người đàn ông đang quan sát bầu trời bằng một chiếc kính thiên văn. Hiện nay bộ hiện vật đá ICA khổng lồ gồm tới 15.000 viên này vẫn là một chủ đề luận chiến lâu dài giữa một bên khẳng định và một bên phủ định chúng.
Có nhiều bằng chứng khác nữa cho thấy kính thiên văn đã được sử dụng nhiều ngàn năm trước thời Galileo. Điển hình là bức phù điêu Sumer này, có niên đại khoảng 5.000 năm trước, trên đó (vùng bôi vàng) có khắc hình ảnh Mặt trời và 9 hành tinh của Thái dương hệ xung quanh. Nếu không có kính thiên văn thì làm sao họ biết được điều đó?
Người Maya đã biết tháng mặt trăng là 29,53086 ngày (hiện nay đo được 29,53059 ngày); chu kỳ giao hội của sao Kim là 583,92027 ngày (hiện nay ta đo được 583,93 ngày); chu kỳ giao hội của sao Hỏa là 780 ngày (hiện ta đo được 779,94 ngày); năm nhiệt đới có 365,242 ngày ( hiện nay đo được là 365,24198 ngày)Hàng ngàn năm trước, nếu người Maya không có kính thiên văn thì làm sao họ có được tri thức thiên văn cao cấp như vậy?
Như vậy ít nhất thì điều mà sách giáo khoa vẫn dạy, rằng Galileo là người đầu tiên phát minh ra kính viễn vọng vào đầu thế kỷ 17, là sai. Rõ ràng nguồn gốc và lịch sử của kính viễn vọng vẫn còn là điều bí ẩn. Nó thuộc về những thời đại vô cùng xa xưa, vượt xa sự tưởng tượng của chúng ta.s