Báo cáo Công tác bảo tồn đa dạng sinh học giai đoạn 2005 – 2010 và phương hướng giai đoạn 2011 - 2015

Lịch sử hình thành và phát triển của loài người gắn liền với ĐDSH. ĐDSH có vai trò vô cùng quan trọng đối với an ninh lương thực, cân bằng sinh thái và hơn hết là sự tồn vong của loài người. Vai trò đó được thừa nhận trên quy mô toàn thế giới cũng như ở cấp quốc gia. Chính vì thế, bảo tồn ĐDSH được coi như một yếu tố cấu thành vững chắc cho sự nghiệp phát triển bền vững của tất cả các nước trên toàn thế giới. Thống kê cho thấy, ĐDSH đang tiếp tục bị suy giảm. Toàn cầu đang có nỗ lực lớn để thực hiện công cuộc bảo tồn ĐDSH. Ý chí này thể hiện trong các cam kết tại phiên họp lần thứ 65 của Đại hội đồng Liên hợp quốc ngày 22 tháng 9 năm 2010 tại New York, Mỹ và Hội nghị các bên tham gia Công ước ĐDSH lần thứ 10 được tổ chức tại Nagoya, Nhật Bản trong tháng 10 vừa qua.

pdf18 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 1644 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Báo cáo Công tác bảo tồn đa dạng sinh học giai đoạn 2005 – 2010 và phương hướng giai đoạn 2011 - 2015, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG TỔNG CỤC MÔI TRƯỜNG BÁO CÁO CÔNG TÁC BẢO TỒN ĐA DẠNG SINH HỌC GIAI ĐOẠN 2005 – 2010 VÀ PHƯƠNG HƯỚNG GIAI ĐOẠN 2011 - 2015 Hà Nội, 17 tháng 11 năm 2010 2 Hội thảo Đa dạng sinh học (ĐDSH) trong khuôn khổ Hội nghị Môi trường toàn quốc lần thứ 3 diễn ra trong thời điểm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Ngoài việc hòa chung không khí toàn Đảng, toàn dân kết thúc thập kỷ đầu của thế kỷ XXI, ra sức thi đua lập thành tích chào mừng Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, đây cũng là một sự kiện đặc biệt nhằm hưởng ứng năm quốc tế về ĐDSH với chủ đề “ĐDSH cho phát triển và giảm nghèo”. Thời gian này cũng là lúc Việt Nam bước vào giai đoạn tổng kết các Chiến lược, Kế hoạch quốc gia, ngành liên quan tới bảo tồn ĐDSH. Báo cáo này gồm 02 phần chính: Phần I: Công tác bảo tồn ĐDSH giai đoạn 2005 - 2010 Phần II: Phương hướng bảo tồn ĐDSH giai đoạn 2011– 2015 Phần 1. CÔNG TÁC BẢO TỒN ĐA DẠNG SINH HỌC GIAI ĐOẠN 2005 – 2010 Lịch sử hình thành và phát triển của loài người gắn liền với ĐDSH. ĐDSH có vai trò vô cùng quan trọng đối với an ninh lương thực, cân bằng sinh thái và hơn hết là sự tồn vong của loài người. Vai trò đó được thừa nhận trên quy mô toàn thế giới cũng như ở cấp quốc gia. Chính vì thế, bảo tồn ĐDSH được coi như một yếu tố cấu thành vững chắc cho sự nghiệp phát triển bền vững của tất cả các nước trên toàn thế giới. Thống kê cho thấy, ĐDSH đang tiếp tục bị suy giảm. Toàn cầu đang có nỗ lực lớn để thực hiện công cuộc bảo tồn ĐDSH. Ý chí này thể hiện trong các cam kết tại phiên họp lần thứ 65 của Đại hội đồng Liên hợp quốc ngày 22 tháng 9 năm 2010 tại New York, Mỹ và Hội nghị các bên tham gia Công ước ĐDSH lần thứ 10 được tổ chức tại Nagoya, Nhật Bản trong tháng 10 vừa qua. Việt Nam đã được công nhận là một trong 16 nước có tính ĐDSH cao nhất trên thế giới và là một trong các quốc gia được ưu tiên cho bảo tồn toàn cầu. Cũng như toàn thế giới, Việt Nam không phải là ngoại lệ khi có cùng xu hướng suy giảm đa dạng sinh học, và tốc độ suy giảm tăng lên cùng với sự tăng tốc của nền kinh tế. 3 I. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC Thời gian qua, với sự nỗ lực của các cấp, các ngành, các cá nhân và tập thể, chúng ta đã đạt được những kết quả cơ bản sau đây: 1. Các hệ sinh thái, loài và nguồn gen được bảo vệ Bảo tồn ĐDSH được thực hiện ở 3 cấp độ: bảo tồn các hệ sinh thái, loài và nguồn gen. Ở cả ba cấp độ này, trong những năm qua, chúng ta cũng đã đạt được các kết quả đáng ghi nhận. (1) Bảo tồn hệ sinh thái rừng, biển, đất ngập nước Năm 2009, độ che phủ của rừng bao gồm cả rừng tự nhiên và rừng trồng tăng, đạt 39,1% (tăng thêm 2,4 % so với năm 2005 (36,7%)).1 Hệ thống khu bảo tồn thiên nhiên ngày càng được củng cố và phát triển, bao gồm 164 khu rừng đặc dụng2 (bao gồm 30 Vườn Quốc gia, 69 khu dự trữ thiên nhiên, 45 khu Bảo vệ cảnh quan, 20 khu nghiên cứu thực nghiệm khoa học), 16 khu bảo tồn biển và 48 khu bảo tồn đất ngập nước (ĐNN) nội địa chứa đựng các hệ sinh thái, cảnh quan đặc trưng với giá trị ĐDSH tiêu biểu cho hệ sinh thái trên cạn, ĐNN và biển đã và đang được Việt Nam xây dựng vì mục đích bảo tồn và sử dụng bền vững tài nguyên ĐDSH. Ngoài ra, 2 khu Di sản thiên nhiên thế giới, 4 Vườn Di sản SEAN, 2 khu Ramsar (khu bảo tồn ĐNN có tầm quan trọng quốc tế, đặc biệt là nơi cư trú của các loài chim nước di cư) và 8 khu Dự trữ sinh quyển thế giới đã được quốc tế công nhận. (2) Bảo tồn các loài và nguồn tài nguyên di truyền Công tác gây nuôi động vật hoang dã, nuôi trồng và bảo tồn các loài thuỷ sinh quý hiếm đã đạt được nhiều kết quả khả quan. Hơn 50 loài động vật và hàng chục loài thực vật hoang dã được gây nuôi sinh sản, gieo trồng trong hàng nghìn trang trại và hàng chục nghìn hộ gia đình. Hàng chục loài thuỷ sản có giá trị kinh tế đã được nghiên cứu sinh sản nhân tạo và nuôi thương phẩm. Chương trình Đánh bắt hải sản xa bờ với mục tiêu giảm bớt cường độ khai thác và bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản vùng nước ven bờ đã đem lại hiệu quả. Chương trình, mạng lưới quỹ gen được hình thành và đã bảo tồn lưu giữ được hơn 17.000 nguồn gen của 200 loài cây lương thực, thực phẩm, cây ăn quả, cây lâm nghiệp, cây nguyên liệu, cây dược liệu và một số loại cây trồng khác, bằng các phương pháp bảo tồn khác nhau như: tại chỗ (in-situ), chuyển chỗ (ex-situ). Đã thu thập được 3.273 kiểu di truyền cây cao su; bảo tồn 42 loài cây rừng và cây nguyên liệu giấy; bảo tồn tại chổ 905 nguồn gen và chuyển vị (ex-situ) 175 loài cây dược liệu, trong đó có 26 1 Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn 2 Theo kết quả rà soát 3 loại rừng do Bộ NN và PTNT tiến hành năm 2007. 4 loài quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng. Bảo tồn và lưu giữ được 70 giống vật nuôi và gia cầm đang ở trạng thái nguy hiểm; bảo tồn được 38 dòng thuộc 26 loài cá nuôi kinh tế và 3 loài ong quý. Phân loại và lưu giữ 2.016 chủng nấm, vi khuẩn và vi sinh vật dùng trong các lĩnh vực công nghiệp-thực phẩm, y-dược, chăn nuôi, thú y, thuỷ sản và nông nghiệp. Hiện tại, trên 30% các nguồn gen đang bảo tồn được đánh giá ban đầu về các chỉ tiêu sinh học và khoảng 5-10% nguồn gen được đánh giá chi tiết và đánh giá di truyền. Trung bình hàng năm, chương trình cung cấp khoảng 1.000 lượt vật liệu di truyền và mẫu giống phục vụ chương trình giống, các đề tài nghiên cứu khoa học và phục vụ đào tạo.3 2. Hệ thống chính sách, pháp luật về ĐDSH ngày càng hoàn thiện Bảo tồn ĐDSH được coi là một trong ba nhiệm vụ trọng tâm của công tác bảo vệ môi trường được đề cập đến trong Văn kiện của các kỳ Đại hội Đảng toàn quốc và được nhấn mạnh trong Nghị quyết số 41/NQ-TW ngày 15 tháng 11 năm 2004 của Bộ Chính trị về Bảo vệ môi trường (BVMT) trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhằm ngăn chặn suy thoái ĐDSH, từ đầu những năm 1960 Chính phủ và các Bộ, ngành đã xây dựng các chính sách và nhiều văn bản pháp luật về bảo tồn ĐDSH . Từ đó đến nay, việc cải cách thể chế và luật pháp đã phát triển nhanh chóng với sự ra đời nhiều bộ luật có liên quan tới bảo tồn và sử dụng bền vững ĐDSH: Luật Bảo vệ và phát triển rừng năm 1991 (được sửa đổi, bổ sung năm 2004); Luật Đất đai năm 1993 (được sửa đổi, bổ sung năm 1998 và 2003); Luật Bảo vệ môi trường năm 1993 (được sửa đổi, bổ sung năm 2005); Luật Thủy sản năm 2003; và gần đây nhất, Luật Đa dạng sinh học được Quốc hội Việt Nam phê chuẩn tháng 11 năm 2008. Có thể nói việc ra đời của Luật ĐDSH đánh dấu một bước tiến căn bản trong quá trình hoàn thiện pháp luật về bảo tồn ĐDSH ở Việt Nam. Lần đầu tiên có một Luật đề cập tổng thể, bao quát hết các khía cạnh bảo tồn, từ vấn đề quy hoạch bảo tồn ĐDSH, đến bảo tồn các hệ sinh thái tự nhiên, loài, nguồn gen. Luật cũng tạo cơ sở pháp lý cho việc thiết lập các cơ chế tài chính, hoàn thiện tổ chức, tăng cường nguồn lực cho công tác bảo tồn ĐDSH. Nhằm triển khai thực hiện Luật, ngay sau khi Luật ĐDSH chính thức có hiệu lực, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành Quyết định số 2293/QĐ- BTNMT ngày 30/11/2009 về việc phê duyệt Chương trình thực hiện Luật ĐDSH của Bộ giai đoạn 2009- 2015. Đây là văn bản chuyên ngành hỗ trợ cho việc triển khai thực hiện các nội dung của Luật, trong đó tập trung vào các nhiệm vụ chủ yếu về xây dựng văn bản hướng dẫn Luật, tuyên truyền đào tạo và tăng cường năng lực thực thi Luật ĐDSH trong cuộc sống. 3 Bộ Khoa học và Công Nghệ, Báo cáo Quỹ gen, 2010 5 Giai đoạn vừa qua, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã chỉ đạo ưu tiên tập trung xây dựng và trình Chính phủ phê duyệt các văn bản pháp quy hướng dẫn triển khai các nội dung của Luật: - Nghị định số 65/2010/NĐ-CP, ngày 11/6/2010 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật ĐDSH và - Nghị định số 69/2010/NĐ-CP, ngày 21/6/2010 của Chính phủ về an toàn sinh học đối với sinh vật biến đổi gen, mẫu vật di truyền và sản phẩm của sinh vật biến đổi gen đã được ban hành. Hiện nay, Bộ Tài nguyên và Môi trường đang phối hợp với các Bộ ngành liên quan tiếp tục xây dựng và trình ban hành các văn bản: - Dự thảo Nghị định của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực ĐDSH; - Dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành quy chế quản lý khu bảo tồn; - Dự thảo Nghị định của Chính phủ về quản lý loài thuộc Danh mục các loài nguy cấp, quý hiếm được ưu tiên bảo vệ; - Dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ ban hành đề án ngăn ngừa và kiểm soát sinh vật ngoại lai xâm hại đến năm 2015; - Dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ ban hành Đề án kiện toàn hệ thống tổ chức quản lý nhà nước về ĐDSH và ATSH và các văn bản liên quan khắc nhằm tăng cường thực thi hiệu quả công tác bảo tồn ĐDSH trên cả nước. Trong giai đoạn 2005-2010, các quy hoạch, kế hoạch về bảo tồn ĐDSH đã được ban hành và tổ chức thực hiện như Quy hoạch hệ thống khu bảo tồn vùng nước nội địa đến năm 2020, Quy hoạch hệ thống khu bảo tồn biển Việt Nam đến 2020… Đặc biệt là Kế hoạch Hành động Quốc gia về ĐDSH đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt tại Quyết định số 79/2007/QĐ- TTg ngày 31 tháng 5 năm 2007. Theo Quyết định này: - Bộ Tài nguyên và Môi trường được giao là cơ quan đầu mối tổ chức thực hiện Kế hoạch hành động. - Các địa phương trong cả nước cũng đã bước đầu xây dựng, ban hành và triển khai các kế hoạch hành động về ĐDSH của địa phương. Đến thời điểm hiện nay, có trên 1/3 tổng số các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã ban hành kế hoạch hành động của tỉnh để tăng cường công tác bảo tồn ĐDSH tại địa phương. Như vậy, vấn đề bảo tồn ĐDSH đã bước đầu được chú trọng trong việc hoạch định chính sách ở các cấp. Bên cạnh đó, các ngành, các cấp tiếp tục triển khai các Chiến lược, Kế hoạch, Chương trình khác có liên quan đến bảo tồn ĐDSH đã được phê duyệt trước năm 2005 như: 6 - Chương trình nâng cao nhận thức bảo tồn ĐDSH đến năm 2010, - Kế hoạch hành động quốc gia về tăng cường kiểm soát buôn bán động vật, thực vật hoang dã đến năm 2010, - Chiến lược quản lý hệ thống khu bảo tồn thiên nhiên Việt Nam đến năm 2010, - Kế hoạch hành động về bảo tồn và phát triển bền vững các vùng ĐNN … - Điển hình là Chương trình trồng mới 5 triệu ha rừng (chương trình 661), được thực hiện từ 1998 đến 2010, nhờ đó mà tổng diện tích rừng đã tăng nhanh. Giai đoạn 2006-2008 đã thực hiện trồng mới được 620.188 ha rừng (trong đó rừng trồng phòng hộ, đặc dụng 139.625 ha, rừng trồng sản xuất 480.563 ha). 3. Hệ thống quản lý nhà nước về bảo tồn ĐDSH dần được củng cố Theo Điều 6 Luật Đa dạng sinh học, Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về ĐDSH, Bộ Tài nguyên và Môi trường chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về ĐDSH, còn các bộ, ngành khác quản lý theo phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn và phân công của Chính phủ. Trên thực tế, nhiệm vụ quản lý nhà nước về bảo tồn ĐDSH hiện chủ yếu cho hai Bộ thực hiện (Bộ Tài nguyên và Môi trường và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn). Vì thế, bộ máy tổ chức thực hiện nhiệm vụ bảo tồn cũng gắn liền với bộ máy tổ chức của ngành tài nguyên và môi trường và ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn: - Ở cấp Trung ương, tại Bộ Tài nguyên và Môi trường, Cục Bảo tồn ĐDSH trực thuộc Tổng cục Môi trường được thành lập năm 2008. Đây là một đơn vị thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước trong lĩnh vực bảo tồn ĐDSH, đặc biệt là cơ quan thường trực giúp Bộ thực hiện công tác đầu mối điều phối thực hiện Công ước ĐDSH, Công ước Ramsar về các vùng ĐNN có tầm quan trọng quốc tế, Nghị định thư Cartagena về an toàn sinh học, ĐDSH, Kế hoạch hành động quốc gia về ĐDSH đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020, Kế hoạch hành động về bảo tồn và phát triển bền vững các vùng ĐNN… - Ở một số bộ, ngành, các cơ quan tham mưu về môi trường thường là cơ quan tham mưu về bảo tồn ĐDSH. - Ở cấp tỉnh: tất cả 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã thành lập Sở Tài nguyên và Môi trường, trong đó cũng đã bước đầu hình thành các đơn vị theo dõi hoạt động bảo tồn ĐDSH, chủ yếu theo cơ chế kiêm nhiệm, một số nơi có cán bộ chuyên trách. Cấp huyện, xã cán bộ về quản lý môi trường có thể phụ trách cả công tác bảo tồn như là một nhiệm vụ của bảo vệ môi trường. - Trong Bộ Tài nguyên và Môi trường, Tổng cục Biển và Hải đảo được thành lập năm 2008, có nhiều nhiệm vụ liên quan đến bảo tồn ĐDSH biển. Tuy nhiên, Tổng cục không tham gia vào quản lý hệ thống khu bảo tồn biển, mà nhiệm vụ này do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đảm nhận. Năm 2009, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã thành lập Tổng cục Lâm nghiệp và Tổng cục Thủy sản. Tổng cục Lâm nghiệp hiện đang được giao nhiệm vụ 7 quản lý hệ thống rừng đặc dụng. Tổng cục Thủy sản quản lý hệ thống khu bảo tồn biển và khu bảo tồn vùng nước nội địa. Nguồn nhân lực đáng kể tham gia vào công tác bảo vệ rừng có thể nói đến là lực lượng kiểm lâm, được liên tục tăng cường trong suốt các năm qua. Hệ thống cơ cấu tổ chức của lực lượng Kiểm lâm hiện nay được tổ chức từ Trung ương (Cục Kiểm lâm trực thuộc Tổng cục Lâm nghiệp, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) đến địa phương (Chi cục Kiểm lâm trực thuộc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn). Hiện nay, tổng số lao động của lực lượng kiểm lâm toàn quốc là: 11.246 người, trong đó có 10.059 người trong biên chế, trong đó ở Trung ương có 53 công chức, 883 viên chức; ở 63 Chi cục Kiểm lâm có 9.123 công chức và 1.187 hợp đồng lao động. Cục Cảnh sát phòng chống tội phạm về môi trường mới được thành lập năm 2006 nhưng đã nhanh chóng lớn mạnh và nay đã có tới gần 1.000 cán bộ, mạng lưới phủ khắp 63 tỉnh, thành phố trong cả nước. Trong thời gian qua Cảnh sát môi trường giữ một vai trò hết sức tích cực trong công tác phòng chống tội phạm về môi trường, trong đó có cả bảo tồn ĐDSH. 4. Hoạt động (Khoa học công nghệ) nghiên cứu triển khai ngày càng sâu rộng, có hiệu quả Đa dạng sinh học, bảo tồn đa dạng sinh học là một môn khoa học có tính liên ngành. Các hoạt động nghiên cứu khoa học công nghệ giai đoạn từ năm 2005 - 2010 đã được triển khai mạnh, tập trung vào các nội dung: - Điều tra nghiên cứu các thành phần của ĐDSH, từ cấp độ hệ sinh thái, loài đến nguồn gen; - Cơ sở khoa học cho việc xây dựng cơ chế, chính sách và công cụ kinh tế, hệ thống quản lý trong bảo tồn ĐDSH; Nhiều nghiên cứu thử nghiệm „Kinh tế hóa bảo tồn Đ DSH“ đã thành công và đang được thể chế hóa thành chính sách và áp dụng trong cả nước như: Nghiên cứu “Phân tích chi phí lợi ích các phương án sử dụng đất ở VQG Xuân Thuỷ” năm 2007 của Trung tâm Kinh tế Môi trường và Phát triển bền vững- Đại học kinh tế quốc dân Hà Nội; Nghiên cứu giá trị của rừng ngập mặn khu vực VQG Xuân Thuỷ đối với phòng hộ đê biển huyện Giao Thuỷ, năm 2008 của Trung tâm nghiên cứu sinh thái và môi trường rừng- Viện khoa học lâm nghiệp Việt Nam; Nghiên cứu lượng giá hệ sinh thái rừng ngập mặn, năm 2008 của PGS -TS. Nguyễn Hoàng Trí- Uỷ ban con người và sinh quyển (MAB); Thí điểm Đề án đồng quản lý sử dụng khôn khéo nguồn lợi ngao giống tự nhiên ở cửa Sông Hồng thuộc VQG Xuân Thuỷ, năm 2010 của VQGXT. - Luận cứ khoa học xây dựng quy hoạch bảo tồn ĐDSH; Nghiên cứu về các mô hình bảo tồn và sử dụng bền vững tài nguyên sinh vật; - Nghiên cứu ứng dụng công nghệ GIS trong điều tra, theo dõi diễn biến tài nguyên rừng. 8 - Nhiều nghiên cứu để đưa ra các biện pháp ngăn ngừa, tiêu diệt các loài ngoại lai đã được thực hiện ở nhiều cơ sở nghiên cứu và các cơ quan chức hữu quan; Làm tốt công tác khảo nghiệm và đánh giá tác động đối với các sinh vật ngoại lai nhập khẩu vì mục tiêu kinh tế. - Gần đây nhất các các nghiên cứu, đánh giá tác động của biến đổi khí hậu đến bảo tồn đa dạng sinh học ở Việt Nam (được coi là 1 trong những quốc gia chịu tác động tiêu cực nhất do nước biển dâng) ... Ngoài ra, các thành tựu trong nghiên cứu khoa học cơ bản đặc biệt là các thành tựu của CNSH, trực tiếp hoặc gián tiếp đã giúp cho công tác bảo tồn ĐDSH phát triển có chiều sâu với những cơ sở khoa học hiện đại nhất, ngày càng vững chắc. Phải nói rằng, các kết quả nghiên cứu khoa học công nghệ của đã đóng góp rất có hiệu quả cho công tác quản lý nhà nước về bảo tồn ĐDSH. 5. Giáo dục, nâng cao nhận thức và sự tham gia của cộng đồng trong bảo tồn ĐDSH được cải thiện rõ rệt Giáo dục về bảo tồn ĐDSH được gắn liền trong nội dung giáo dục về môi trường ở các cấp học, từ mầm non, phổ thông. Nhiều cuộc thi tìm hiểu về môi trường, về ĐDSH đã được tổ chức như thi vẽ, thi viết...Ở bậc đại học, chuyên đề bảo tồn ĐDSH được giảng dạy cho các sinh viên ở các khoa Sinh học, Lâm nghiệp, Thủy sản... Nhiều chương trình nâng cao nhận thức về ĐDSH đã được triển khai. Năm 2008, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã thực hiện Chương trình nâng cao nhận thức về bảo tồn ĐDSH. Thông qua chương trình này, Cục Bảo tồn ĐDSH đã tổ chức tập huấn, hướng dẫn các bộ, ngành địa phương trong việc triển khai các quy định pháp lý về bảo tồn ĐDSH; đồng thời xây dựng các tài liệu tuyên truyền và phổ biến kiến thức về ĐDSH. Nhiều hoạt động tuyên truyền và nâng cao nhận thức về ĐDSH đã được thực hiện bởi các các cơ quan quản lý nhà nước cấp trung ương và địa phương, các tổ chức chính trị, xã hội và các tổ chức phi chính phủ trong nước và quốc tế như Hội Bảo vệ thiên nhiên và Môi trường Việt Nam, Birdlife, WWF, IUCN, ENV, Pan_Nature... Ngoài ra, tại nhiều địa phương đã chủ động tổ chức các cuộc hội thảo, tập huấn và tuyên truyền cho các cán bộ quản lý môi trường các cấp và cộng đồng nhân dân hiểu biết hơn về ĐDSH, giá trị của chúng đối với sự sống và phát triển của loài người, để qua đó tăng cường nhận thức, sự tham gia của cộng đồng vào công tác bảo tồn ĐDSH của địa phương. Các phương tiện thông tin đại chúng đóng vai trò rất quan trọng trong nâng cao nhận thức cộng đồng. Thông qua đài, báo, truyền hình các thông tin về ĐDSH đã được chuyển tải thường xuyên tới cộng đồng. Do vậy mà nhận thức cũng như sự quan tâm của cộng đồng nhân dân về bảo tồn ĐDSH ngày càng được nâng cao và góp phần vào công cuộc bảo vệ môi trường nói chung của đất nước. 9 6. Hợp tác quốc tế Trong giai đoạn qua, Việt Nam tiếp tục khẳng định vai trò của mình trong nhiều diễn đàn quốc tế về ĐDSH, tích cực thực hiện các cam kết quốc tế của các Hiệp ước mà Việt Nam là thành viên như: Công ước ĐDSH (CBD), Công ước về các vùng ĐNN có tầm quan trọng quốc tế (Ramsar), Công ước về buôn bán quốc tế các loài động, thực vật bị đe dọa tuyệt chủng (CITES), Nghị định thư Cartagena về an toàn sinh học... Trong khu vực, Việt Nam đã hoà nhập và tích cực tham gia vào tất cả các diễn đàn môi trường trong khuôn khổ ASEAN, đóng vai trò quan trọng trong việc phối hợp thực hiện các nhiệm vụ, dự án của Trung tâm ĐDSH Đông Nam Á (ACB). Nhiều thỏa thuận hợp tác song phương về môi trường đã được ký kết với các nước thuộc khối EU, Australia, Hàn Quốc, Rumani, Thái Lan và Hoa Kỳ, trong đó đều đề cập tới vấn đề bảo tồn ĐDSH. Việt Nam cũng tích cực tham gia vào các Nhóm công tác quốc tế về ĐDSH như Ban tư vấn khoa học và kỹ thuật của Công ước ĐDSH, Chương trình bảo tồn ĐDSH vùng ÐNN hạ lưu sông Mêkông Diễn đàn ÐDSH Việt Nam-Lào- Campuchia, và Diễn đàn hổ toàn cầu (GTF), Sáng kiến Toàn cầu về Bảo tồn hổ (GTI). Trong thời gian qua, các mối quan hệ đối tác được tiếp tục củng cố và phát triển, đặc biệt là hoạt động của Nhóm hỗ trợ quốc tế về môi trường (ISGE) và Nhóm đối tác hỗ trợ ngành lâm nghiệp (FSSP). Việt Nam đã nhận được nhiều sự hỗ trợ tích cực của Chính phủ các nước Thụy Ðiển, Canada, Hà Lan, Ðan Mạch, Bỉ, Nhật Bản… và các tổ chức quốc tế, đặc biệt là UNDP, UNEP, WB, ADB, IUCN, WWF, GTZ ... trong lĩnh vực bảo vệ môi trường nói chung và bảo tồn vệ ĐDSH nói riêng. Đầu tư và hỗ trợ quốc tế có một vai trò to lớn đối với hoạt động bảo tồn ĐDSH trong thời gian qua. Tuy nhiên, hỗ trợ tài chính cũng như kỹ thuật vẫn chưa đáp ứ
Tài liệu liên quan