Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 8 đã và đang đi vào cuộc 
sống một cách khá sinh động trong phạm vi toàn xã hội. Đặc biệt là nghị
quyết hội nghị Ban chấp hành Trung Ương lần thứ 4 và lần thứ 5 và nghị
quyết hội ngh ị BCHTW VI (lần 1) là những nội dung vô cùng quan trọng để
cụ thể hoá việc thực hiện nghị quyết Đại Hội VIII của Đảng, đó là phải tiến 
hành Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Trên thực tế, so với các nước trong khu vực và trên thế giới nền kinh tế
nước ta có xuất phát điểm thấp, với công nghệ lạc hậu, vốn ít, trình độ quản 
lý còn hạn chế . do đó năng suất lao động còn thấp, hiệu quả kinh tế chưa 
cao. Ngoài ra nước ta còn chịu hậu quả của chiến tranh, sự tàn phá của thiên 
nhiên và sự khủng hoảng tiền tệ trong khu vực. Trong nền kinh tế thị trường 
có sự điều tiết của nhà nước, các doanh nghiệp các thành phần kinh tế nói 
chung muốn tồn tại và phát triển thì phải có vốn. Vấn đề là với số vốn tự có 
của các doanh nghiệp thì không đủ để đổi m ới công ngh ệ, thay đổi quy trình 
sản xuất để tạo ra các sản phẩm có chất lượng cao, có sức cạnh tranh trên thị
trường. Chính vì vậy Ngân hàng thương m ại với chức năng kinh doanh tiền tệ
như hiện nay có vai trò quan trọng của mình nhằm đáp ứng tốt nhu cầu về vốn 
của các doanh nghiệp. Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có đủ điều kiện 
đổi mới thiết bị, phát triển sản xuất kinh doanh, mang lại lợi ích kinh tế cho 
doanh nghiệp, cho ngân hàng và cho toàn xã hội.
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 111 trang
111 trang | 
Chia sẻ: nhungnt | Lượt xem: 2403 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo Dự án đầu tư và thẩm định dự án đầu tư của chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Tây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Báo cáo tốt nghiệp 
“Dự án đầu tư và thẩm định dự án đầu tư của chi 
nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Tây”
Mục lục 
Lời nói đầu: 
Chương I: 
Thẩm định dự án đầu tư của NHTM. 
I. Dự án đầu tư và thẩm định dự án đầu tư. 
1. Dự án đầu tư trong hoạt động kinh doanh của NHTM. 
2. Nội dung thẩm định dự án đầu tư. 
II. Thẩm định và ý nghĩa của công tác thẩm định dự án đầu tư. 
1. Thẩm định dự án đầu tư. 
2. ý nghĩa của công tác thẩm định dự án đầu tư. 
III. Các bước tiến hành thẩm định dự án đầu tư của NHTM. 
1. Thẩm định sự cần thiết và mục tiêu đầu tư của dự án. 
2. Thẩm định nội dung thị trường của dự án. 
- Thẩm định sản phẩm và thị trường tiêu thụ sản phẩm của dự án. 
- Khả năng cạnh tranh và các phương thức cạnh tranh. 
3. Thẩm định nội dung kỹ thuật của dự án. 
3.1. Thẩm định địa điểm xây dựng công trình. 
3.2. Thẩm định về quy mô công suất. 
3.3. Thẩm định về công nghệ sản xuất. 
3.4. Thẩm định về phương án sản phẩm. 
3.5. Thẩm định về sự lựa chọn máy móc thiết bị. 
3.6. Thẩm định về nguồn vật liệu sử dụng cho dự án. 
3.7. Thẩm định về năng lượng nước sử dụng cho sản xuất của dự án. 
3.8. Thẩm định về kỹ thuật xây dựng của dự án. 
3.9. Thẩm định về vấn đề xử lý chất thải và gây ô nhiễm môi trường. 
3.10. Thẩm định về lịch trình dự án. 
4. Thẩm định nội dung về mô hình tổ chức quản trị và nhân lực cho dự án. 
5. Thẩm định nội dung tài chính của dự án. 
5.1. Thẩm định về tổng vốn đầu tư của dự án. 
5.2. Thẩm định về nguồn vốn và sự đảm bảo nguồn vốn tài trợ dự án. 
5.3. Thẩm định về chi phí sản xuất, doanh thu và thu nhập hàng năm 
của dự án. 
5.4. Tính chỉ tiêu NPV. 
5.5. Tính chỉ tiêu tỷ suất nội hoàn (IRR). 
5.6. Xác định điểm hoà vốn của dự án. 
6. Thẩm định về khả năng trả nợ cho Ngân hàng. 
7. Thẩm định lợi ích kinh tế xã hội. 
Chương II 
Công tác thẩm định tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Tây. 
I. Giới thiệu khái quát về NHĐT&PT Hà Tây. 
1. Quá trình hoạt động và phát triển. 
2. Hoạt động tín dụng trung và dài hạn của NHĐT&PT Hà Tây. 
2.1. Doanh số cho vay trung và dài hạn. 
2.2. Dư nợ tín dụng trung và dài hạn. 
2.3. Cơ cấu cho vay trung và dài hạn. 
2.4. Nợ quá hạn. 
II. ứng dụng quy trình thẩm định dự án đầu tư vào thẩm định dự án xin 
vay mua máy trộn bê tông áp phan của Công ty XD công trình giao 
thông 8. 
1. Dự án xin vay mua máy của Công ty. 
1.1. Giới thiệu về Công ty Công trình giao thông 8. 
1.1.1. Năng lực pháp lý của Công ty. 
1.1.2. Lịch sử phát triển. 
1.2. Dự án vay vốn NHĐT&PT Hà Tây để đầu tư mua máy trộn bê 
tông. 
1.2.1. Cơ sở pháp lý của dự án. 
1.2.2. Nội dung căn bản của dự án xin vay vốn. 
2. Quy trình thẩm định và kết quả thẩm định của NHĐT&PT Hà Tây. 
2.1. Thẩm định cơ sở pháp lý và sự cần thiết của việc phải đầu tư dự 
án. 
2.2. Thẩm định nội dung thị trường của dự án. 
2.2.1. Đối tượng và phương thức tiêu thụ sản phẩm. 
2.2.2. Tình hình cạnh tranh trên thị trường hiện tại. 
2.3. Thẩm định nội dung kỹ thuật của dự án. 
2.3.1. Quy mô dự án. 
2.3.2. Đăng kiểm. 
2.3.3. Nhiên liệu sử dụng. 
2.3.4. Địa điểm và kế hoạch triển khai dự án. 
2.4. Thẩm định về phương diện tổ chức và quản lý. 
2.5. Thẩm định phương diện tài chính. 
2.5.1. Dự toán vốn và nguồn đầu tư. 
2.5.2. Hiệu quả kinh tế của dự án. 
2.6. Phương án cho vay và thu nợ đối với dự án. 
2.6.1. Phương án cho vay. 
2.6.2. Phương án thu nợ. 
2.7. Thẩm định biện pháp đảm bảo tiền vay. 
III. Những kết quả đạt được và những tồn tại trong công tác thẩm định 
tại NHĐT&PT Hà Tây. 
1. Những kết quả đạt được. 
2. Những khó khăn trong công tác thẩm định. 
2.1. Những khó khăn trong việc thu thập thông tin. 
2.2. Thiếu các thông tin vĩ mô làm cơ sở để thẩm định. 
2.3. Về vấn đề đào tạo và bố trí cán bộ làm công tác thẩm định. 
3. Những giải pháp nhằm hoàn thiện công tác thẩm định tại NHĐT&PT 
Hà Tây. 
3.1. Các giải pháp nhằm hoàn thiện công tác thẩm định. 
3.2. Các giải pháp nhằm mở rộng cho vay. 
3.3. Các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng. 
4. Một số giải pháp phòng ngừa rủi ro trong công tác tín dụng đầu tư. 
Chương III 
Những khuyến nghị nhằm góp phần nâng cao chất lượng thẩm định tại 
NHĐT&PT Hà Tây 
I. Những khuyến nghị đối với Nhà nước. 
1. Về quy hoạch tổng thể nền kinh tế. 
2. Về vấn đề thực hiện chế độ kế toán thống kê. 
3. Củng cố các cơ quan tư vấn và hoạt động tư vấn. 
4. Bố trí sắp xếp tổ chức lại các doanh nghiệp Nhà nước. 
II. Những khuyến nghị đối với NHNN Việt Nam. 
1. Vấn đề nắm bắt thông tin kinh tế xã hội và định hướng cho các 
NHTM. 
2. Thu thập và xử lý các thông tin tín dụng. 
3. Hướng dẫn thống nhất nội dung các chỉ tiêu thẩm định cho các NHTM 
và tổng kết kinh nghiệm. 
III. Những khuyến nghị đối với NHĐT&PT Việt Nam. 
1. Tập trung nâng cao chất lượng công tác thẩm định trong toàn bộ hệ 
thống bắt đầu từ công tác bồi dưỡng cán bộ. 
2. Tăng cường hợp tác trong nước và quốc tế. 
3. Tổ chức trang bị một cách đầy đủ cơ sở vật chất phục vụ cho công tác 
thẩm định. 
IV. Khuyến nghị đối với NHĐT&PT Hà Tây. 
1. NHĐT&PT Hà Tây cần chủ động hơn trong việc tìm kiếm dự án. 
2. Từng bước đổi mới và hoàn thiện phương thức thẩm định theo hướng 
đáp ứng nhu cầu thẩm định một cách toàn diện các dự án đầu tư. 
3. Hoàn thiện các chỉ tiêu trong thẩm định tài chính dự án đầu tư. 
4. Từng bước nâng cao trình độ nghiệp vụ và khả năng phân tích dự án 
đầu tư của các cán bộ làm công tác tín dụng và thẩm định thông qua 
quá trình đào tạo và đào tạo lại. 
Kết luận. 
Lời nói đầu 
 Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 8 đã và đang đi vào cuộc 
sống một cách khá sinh động trong phạm vi toàn xã hội. Đặc biệt là nghị 
quyết hội nghị Ban chấp hành Trung Ương lần thứ 4 và lần thứ 5 và nghị 
quyết hội nghị BCHTW VI (lần 1) là những nội dung vô cùng quan trọng để 
cụ thể hoá việc thực hiện nghị quyết Đại Hội VIII của Đảng, đó là phải tiến 
hành Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 
Trên thực tế, so với các nước trong khu vực và trên thế giới nền kinh tế 
nước ta có xuất phát điểm thấp, với công nghệ lạc hậu, vốn ít, trình độ quản 
lý còn hạn chế .... do đó năng suất lao động còn thấp, hiệu quả kinh tế chưa 
cao. Ngoài ra nước ta còn chịu hậu quả của chiến tranh, sự tàn phá của thiên 
nhiên và sự khủng hoảng tiền tệ trong khu vực. Trong nền kinh tế thị trường 
có sự điều tiết của nhà nước, các doanh nghiệp các thành phần kinh tế nói 
chung muốn tồn tại và phát triển thì phải có vốn. Vấn đề là với số vốn tự có 
của các doanh nghiệp thì không đủ để đổi mới công nghệ, thay đổi quy trình 
sản xuất để tạo ra các sản phẩm có chất lượng cao, có sức cạnh tranh trên thị 
trường. Chính vì vậy Ngân hàng thương mại với chức năng kinh doanh tiền tệ 
như hiện nay có vai trò quan trọng của mình nhằm đáp ứng tốt nhu cầu về vốn 
của các doanh nghiệp. Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có đủ điều kiện 
đổi mới thiết bị, phát triển sản xuất kinh doanh, mang lại lợi ích kinh tế cho 
doanh nghiệp, cho ngân hàng và cho toàn xã hội. 
Hiện nay nhu cầu về vốn của các doanh nghiệp ngày càng tăng, nhất là 
các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản. Nhiều 
doanh nghiệp muốn vay vốn nhưng lại không có, hoặc không đủ tài sản thế 
chấp nên gặp khó khăn trong kinh doanh bị rủi ro các Ngân hàng gặp rất 
nhiều khó khăn trong việc sử lý. Về phía Ngân hàng phải thừa nhận rằng 
trong những năm vừa qua các Ngân hàng thương mại trong nưóc chưa đáp 
ứng đầy đủ nhu cầu về vốn cho các doanh nghiệp đặc biệt là vốn trung và dài 
hạn cho các dự án lớn và nhỏ. Bên cạnh đó nhiều doanh nghiệp kinh doanh bị 
thua lỗ lên các Ngân hàng thương mại không giám mạnh dạn đầu tư. Mặt 
khác nếu Ngân hàng không đầu tư thì việc các doanh nghiệp bị ảnh hưởng 
đến hoạt động sản xuất kinh doanh và ảnh hưởng đến việc làm của người lao 
động là điều không tránh khỏi. 
Từ năm 1995 đến nay hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Phát triển đã 
chuyển từ cấp phát vốn ngân sách sang hoạt động kinh doanh mà chủ yếu là 
tín dụng đầu tư xây dựng cơ bản. Do đó Ngân hàng được coi là một doanh 
nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, hạch toán kinh doanh, đảm bảo có 
lãi. Hơn nữa Ngân hàng đầu tư và Phát triển là Ngân hàng chủ lực trong lĩnh 
vực đầu tư và phát triển chủ yếu là đầu tư tín dụng trung và dài hạn cho các 
thành phần kinh tế nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội. Vì vậy vấn đề 
thẩm định cho vay đầu tư xây dựng hiện nay đang là vấn đề cấp thiết và 
được xem xét nhiều hơn nữa trên mọi phương diện. Chính vì vậy trong thời 
gian thực tế tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Tây với những 
kiến thức đã được học tại trường và những kinh nghiệm trong công tác em xin 
đề cập với đề tài : “Dự án đầu tư và thẩm định dự án đầu tư của chi 
nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Tây”. 
Chương I: 
thẩm định dự án đầu tư của Ngân hàng thương mại 
I. Dự án đầu tư và thẩm định dự án đầu tư. 
1. Dự án đầu tư trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng thương mại. 
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động đầu tư diễn ra hết sức đa dạng 
và phong phú. Để tiến hành đầu tư, các chủ đầu tư cần phải tiến hành thu thập 
các thông tin, tài liệu có liên quan đến công cuộc đầu tư của họ. Quá trình 
phân tích, xử lý các thông tin và đưa ra các giải pháp cho ý tưởng đầu tư 
được gọi là quá trình lập Dự án đầu tư (DAĐT). 
*/ Như vậy về bản chất, DAĐT là một tập hợp những đề xuất về việc 
bỏ vốn để xây dựng mới, mở rộng hoặc hiện đại hoá các tài sản cố định 
nhằm đạt được sự tăng trưởng về số lượng và nâng cao chất lượng của 
sản phẩm trong một khoảng thời gian xác định. 
*/ Về hình thức thể hiện, DAĐT là tài liệu do chủ đầu tư chịu trách 
nhiệm lập, trong đó nghiên cứu một cách đầy đủ, khoa học và toàn diện 
toàn bộ nội dung các vấn đề có liên quan đến công trình đầu tư, nhằm 
giúp cho việc ra quyết định đầu tư được đúng đắn và đảm bảo hiệu quả 
của vốn đầu tư . 
Trong hoạt động đầu tư, DAĐT có vai trò rất quan trọng. Về mặt thời 
gian, nó tác động trong suốt quá trình đầu tư và khai thác công trình sau này. 
Về mặt phạm vi, nó tác động đến tất cả các mối quan hệ và các đối tác tham 
gia vào quá trình đầu tư. Như vậy, trong hoạt động đầu tư vai trò của DAĐT 
thể hiện một cách cụ thể như sau: 
*/ Dự án là căn cứ quan trọng để quyết định việc bỏ vốn đầu tư. 
*/ Dự án là cơ sở để xây dựng kế hoạch đầu tư, theo dõi, đôn đốc và 
kiểm tra quá trình thực hiện đầu tư. 
*/ Dự án là cơ sở quan trọng để thuyết phục các tổ chức tài chính, tín 
dụng xem xét tài trợ dự án. 
*/ Dự án là cơ sở để các cơ quan quản lý nhà nước xem xét, phê duyệt 
cấp giấy phép đầu tư. 
*/ Dự án là căn cứ quan trọng để đánh giá và có những điều chỉnh kịp 
thời những tồn tại và những vướng mắc trong quá trình thực hiện và khai thác 
công trình. 
*. Dự án là một trong những cơ sở pháp lý để xem xét, xử lý khi có 
tranh chấp giữa các bên tham gia liên doanh đầu tư. 
Tuỳ theo từng công trình đầu tư cụ thể (ngành nghề, lĩnh vực, quy mô ...) 
mà các dự án có thể có sự khác biệt nhất định về nội dung. Tuy nhiên, để tạo 
điều kiện thuận lợi cho công tác quản lý nhà nước về đầu tư và để các tổ chức 
tài chính dễ dàng xem xét tài trợ vốn thì một DAĐT cần phải được soạn thảo 
theo một tiêu chuẩn nhất định, đảm bảo được sự thống nhất trong toàn bộ nền 
kinh tế và mang tính thông lệ quốc tế... 
2. Nội dung thẩm định dự án đầu tư: 
Một là : Các căn cứ lập dự án, sự cần thiết phải đầu tư xây dựng dự án. Cần 
nêu căn cứ pháp lý và căn cứ thực tiễn của toàn bộ quá trình hình thành và 
thực hiện toàn bộ dự án. 
Hai là : Luận chứng về thị trường của dự án. Cần đề cập tới các vấn đề: 
*/ Giới thiệu sản phẩm, dịch vụ được lựa chọn đưa vào sản xuất, kinh 
doanh theo dự án. 
*/ Các luận cứ về thị trường đối với sản phẩm được lựa chọn. 
*/ Dự báo nhu cầu hiện tại, tương lai của sản phẩm, dịch vụ đó. 
*/ Xác định nguồn và các kênh đáp ứng nhu cầu đó. 
*/ Xem xét, xây dựng màng lưới để tổ chức tiêu thụ sản phẩm của dự án. 
Ba là : Luận chứng về phương diện kỹ thuật - công nghệ của dự án theo các 
nội dung chủ yếu sau: 
*/ Xác định địa điểm xây dựng dự án. 
*/ Xác định quy mô, chương trình sản xuất. 
*/ Xác định nhu cầu các yếu tố đầu vào cho sản xuất, nguồn và phương 
thức cung cấp. 
*/ Lựa chọn công nghệ và thiết bị. 
Bốn là : Luận chứng về tổ chức quản trị dự án. Tuỳ theo từng dự án cụ thể 
để xác định mô hình tổ chức bộ máy cho thích hợp, từ đó làm cơ sở cho việc 
tính toán nhu cầu nhân lực. 
Năm là : Luận chứng về phương diện tài chính của dự án. Cần giải quyết các 
nội dung chủ yếu sau: 
*/ Xác định tổng vốn đầu tư, cơ cấu các loại vốn và nguồn tài trợ. 
*/ Đánh giá khả năng sinh lời của dự án. 
*/ Xác định thời gian hoàn vốn của dự án. 
*/ Đánh giá mức độ rủi ro của dự án. 
Sáu là : Xem xét về các lợi ích kinh tế- xã hội của dự án. Cần đánh giá, so 
sánh giữa lợi ích do dự án tạo ra cho xã hội, cho nền kinh tế và các chi phí mà 
xã hội phải trả trong việc sử dụng các nguồn lực cho đầu tư dự án...chủ yếu 
xem xét trên các mặt sau: 
*/ Khả năng tạo ra nguồn thu cho ngân sách. 
*/ Tạo công ăn việc làm. 
*/ Nâng cao mức sống của nhân dân. 
*/ Tăng thu và tiết kiệm ngoại tệ. 
*/ Phát triển cơ sở hạ tầng, tạo điều kiện cho các ngành, các dự án khác 
phát triển theo. 
Bảy là : Kết luận và kiến nghị. Thông qua những nội dung nghiên cứu trên, 
cần kết luận tổng quát về khả năng thực hiện của dự án, những khó khăn và 
thuận lợi trong quá trình chuẩn bị và thực hiện dự án, đồng thời đề xuất 
những kiến nghị đối với các cơ quan có liên quan đến dự án để cùng phối 
kết hợp trong quá trình triển khai xây dựng DAĐT. 
II. Thẩm định và ý nghĩa của công tác thẩm định Dự án đầu tư 
1. Thẩm định dự án đầu tư: 
Các dự án đầu tư khi được soạn xong dù được nghiên cứu tính toán rất 
kỹ càng thì chỉ mới qua bước khởi đầu. Để đánh giá tính hợp lý, tính hiệu quả 
tính khả thi của dự án và ra quyết định dự án có được thực hiện hay không 
phải có một quá trình xem xét kiểm tra, đánh giá một cách độc lập và tách 
biệt với quá trình soạn thảo dự án. Quá trình đó gọi là thẩm định dự án. 
Vậy thẩm định dự án đầu tư là việc tổ chức xem xét một cách khách 
quan, khoa học và toàn diện các nội dung cơ bản có ảnh hưởng tới công 
cuộc đầu tư để ra quyết định đầu tư và cho phép đầu tư. 
Xét trên phương diện vĩ mô, để đảm bảo được tính thống nhất trong hoạt 
động đầu tư của toàn bộ nền kinh tế, góp phần tạo ra một năng lực tăng 
trưởng mạnh mẽ, đồng thời tránh được những thiệt hại và rủi ro không đáng 
có thì cần thiết phải có sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước trong lĩnh vực Đầu 
tư cơ bản. Thẩm định DAĐT chính là một công cụ hay nói cách khác đó là 
một phương thức hữu hiệu giúp Nhà nưóc có thể thực hiện được chức năng 
quản lý vĩ mô của mình. Công tác thẩm định sẽ được tiến hành thông qua một 
số cơ quan chức năng thay mặt Nhà nước để thực hiện quản lý nhà nước 
trong lĩnh vực đầu tư như Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Xây dựng, Bộ Tài 
chính, Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường...Cũng như UBND các Tỉnh - 
Thành phố, các Bộ quản lý ngành khác...Qua việc phân tích các DAĐT một 
cách hết sức toàn diện, khoa học và sâu sắc các Cơ quan chức năng này sẽ 
có được những kết luận chính xác và rất cần thiết để tham mưu cho Nhà nước 
trong việc hoạch định chủ trương đầu tư, định hướng đầu tư và ra quyết định 
đầu tư đối với dự án. Trong thực tế, để tạo điều kiện thuận lợi cho các Cơ 
quan thẩm định dự án, các DAĐT được chia ra làm một số loại cụ thể ...Trên 
cơ sở sự phân loại này, sẽ có sự phân cấp trách nhiệm trong khâu thẩm định 
và xét duyệt các DAĐT đảm bảo được tính chính xác và nhanh chóng trong 
phê duyệt dự án. Hiện nay, công tác quản lý trong lĩnh vực đầu tư trên lãnh 
thổ Việt nam được thực hiện theo “ Quy chế quản lý Đầu tư và xây dựng “ 
ban hành kèm theo Nghị định số 52/1999/NĐ-CP ngày 8 /7 /1999 của Chính 
phủ. 
Trong lĩnh vực Ngân hàng, các NHTM xuất phát từ đặc điểm là những 
trung gian tài chính hoạt động trong nền kinh tế, chịu ảnh hưởng sâu sắc của 
cơ chế thị trường thì vấn đề hiệu quả và tính an toàn trong kinh doanh tiền tệ 
là yêu cầu quan trọng hàng đầu. Hiệu quả và chất lượng của tín dụng trung 
dài hạn quyết định rất lớn đến lợi nhuận cũng như khả năng phát triển của 
NHTM, đặc biệt là trong điều kiện Việt nam hiện nay, khi mà các sản phẩm 
và dịch vụ ngân hàng chưa thật sự đa dạng. 
Trước khi chuyển dịch sang cơ chế thị trường, toàn bộ nền kinh tế nước 
ta hoạt động theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp. Hoạt động của hệ 
thống Ngân hàng cũng chịu sự chi phối của cơ chế đó. Ngân hàng hoạt động 
theo cơ chế một cấp. Ngân hàng Nhà nước vừa đảm nhiệm chức năng quản lý 
nhà nước về lưu thông tiền tệ và tín dụng, vừa đảm nhận chức năng kinh 
doanh. Trên thực tế, Ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh của mình 
hoàn toàn theo sự chỉ đạo bằng kế hoạch cuả Nhà nước. Vốn hoạt động của 
Ngân hàng phần lớn được lấy từ nguồn cấp phát chứ không phải từ nguồn vốn 
huy động trong xã hội. Việc cho vay của Ngân hàng thực hiện theo kế hoạch 
của Nhà nước với các đối tượng cho vay theo chỉ đạo. Chính vì vậy, việc cấp 
tín dụng chỉ dựa trên kế hoạch và sự chỉ đạo của cấp trên màkhông cần xem 
xét hiệu quả sử dụng vốn vay của khách hàng, khả năng thu hồi vốn và lãi, 
các khoản cho vay không thực hiện nghĩa vụ trả nợ với Ngân hàng không hề 
ảnh hưởng đến bản thân sự tồn tại cùng hoạt động của Ngân hàng. 
Trong cơ chế thị trường, hệ thống Ngân hàng được phân chia thành 2 
cấp: Ngân hàng Nhà nước đảm nhiệm chức năng quản lý vĩ mô và các NH 
Thương mại thực hiện kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, tín dụng. NH Thương 
mại hoạt động kinh doanh độc lập trên cơ sở hạch toán lỗ lãi, “lời ăn lỗ chịu”. 
Nguồn vốn trong kinh doanh của NH Thương mại giờ đây không còn do Nhà 
nước bao cấp mà phải tự huy động từ những nguồn nhà rỗi tạm thời trong xã 
hội, tiến hành các hoạt động kinh doanh mang lại lợi nhuận bù đắp các chi phí 
đầu vào, trên quy tắc phù hợp với các chế độ, chính sách kinh tế-xã hội hiện 
hành của Nhà nước. Hoạt động tín dụng là hoạt động kinh doanh quan trọng 
nhất, mang lại phần lớn lợi nhuận cho NH Thương mại (trên 70%), được thực 
hiện trên cơ sở tính toán về khối lượng các nguồn vốn mà Ngân hàng huy 
động có thể sử dụng cho vay và nhu cầu về vốn tín dụng trong xã hội. Các 
khoản tín dụng NH Thương mại cấp ra phải đảm bảo được hiệu quả kinh tế: 
thu hồi được vốn và lãi đúng hạn. Lãi thu được không chỉ đủ bù đắp phần lãi 
mà Ngân hàng phải trả cho người gửi tiền và các chi phí khác trong việc thực 
hiện khoản cho vay, mà còn phải tạo ra lợi nhuận cho hoạt động tín dụng. 
Cũng như các doanh nghiệp khác trong cơ chế thị trường, hoạt động của 
NH Thương mai phải chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế khách quan, 
trong đó có quy luật cạnh tranh. Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường luôn 
dẫn đến kết quả một người thắng và nhiều kẻ thất bại. Và cạnh tranh là quá 
trình diễn ra liên tục, các doanh nghiệp luôn phải cố gắng để là người chiến 
thắng, ngược lại điều đó cũng thể hiện kinh doanh trong nền kinh tế thị trường 
luôn tiềm ẩn những rủi ro, thất bại. NH Thương mại trong nền kinh tế luôn 
phải đương đầu với áp lực của cạnh tranh và hoạt động của nó luôn chứa 
đựng khả năng xảy ra rủi ro. Rủi ro có thể xảy ra trong bất cứ loại hình hoạt 
động nào của NH Thương mại như rủi ro về tín dụng, rủi ro về thanh toán, rủi 
ro về chuyển hoán vốn, rủi ro về lãi suất, rủi ro về hối đoái.. Trong đó rủi ro 
kinh doanh tín dụng, đặc biệt là tín dụng trung dài hạn là rủi ro mà hậu quả 
do nó gây ra có thể rác động nặng nề đến các hoạt động kinh doanh khác, 
thậm chí đe doạ sự tồn tại của NH Thương mại. Rủi ro trong hoạt động tín 
dụng NH Thương mại xảy ra khi xuất hiện các biến cố làm cho bên đối tác 
(khách hàng) không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ của mình đối với Ngân 
hàng vào thời điểm đáo hạn. Nói cách khác, rủi ro tín dụng là loại rủi ro gắn 
liền với việc không thu được nợ đến khi đến hạn từ các khách hàng của NH 
Thương mại. Các khoản nợ đến hạn nhưng khác