TTCK Việt Nam với lịch sử ra đời và phát triển 8 năm có thể nói là một thị
trường còn khá non trẻ. Tuy nhiên, với tuổi đời non trẻ như vậy nhưng TTCK Việt
Nam đã có những bước phát triển mạnh mẽ với tốc độ cao (đặc biệt là trong giai
đoạn 2006 – 2007), và ĐTCK đã thực sự trở thành một trong những kênh đầu tư
quan trọng và hấp dẫn đối với các nhà đầu tư. Ngày nay, thuật ngữ chứng khoán
và TTCK đã trở nên gần gũi đối với nhiều người dân Việt Nam, từ nhân viên văn
phòng cho đến những người buôn bán nhỏ. Điều này là một thành quả rất đáng tự
hào, là một điểm nhấn tốt đẹp đóng góp vào quá trình phát triển kinh tế chung của
đất nước.
92 trang |
Chia sẻ: nhungnt | Lượt xem: 2166 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo Hoàn thiện phương pháp PTCB trong ĐTCK ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Báo cáo tốt nghiệp
“Hoàn thiện phương pháp PTCB trong ĐTCK ở Việt Nam”
Mục lục
“Hoàn thiện phương pháp PTCB trong ĐTCK ở Việt Nam” .................. 1
BẢNG CÁC CHỮ VIẾT TẮT ...................................... 3
MỞ ĐẦU .................................................... 4
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÂN TÍCH CƠ BẢN TRONG ĐẦU TƯ
CHỨNG KHOÁN .............................................. 7
Hệ số thanh toán tổng quát = ......................................... 30
Hệ số sinh lợi doanh thu =......................................... 31
Hệ số sinh lợi vốn chủ sở hữu = .................................... 32
BẢNG CÁC CHỮ VIẾT TẮT
TTCK: Thị trường chứng khoán
UBCKNN: Uỷ ban chứng khoán Nhà nước
SGD: Sở giao dịch
TTGDCK: Trung tâm giao dịch chứng khoán
CTCK: Công ty chứng khoán
ĐTCK: Đầu tư chứng khoán
PTCB: Phân tích cơ bản
NĐT: Nhà đầu tư
DN: Doanh nghiệp
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
TTCK Việt Nam với lịch sử ra đời và phát triển 8 năm có thể nói là một thị
trường còn khá non trẻ. Tuy nhiên, với tuổi đời non trẻ như vậy nhưng TTCK Việt
Nam đã có những bước phát triển mạnh mẽ với tốc độ cao (đặc biệt là trong giai
đoạn 2006 – 2007), và ĐTCK đã thực sự trở thành một trong những kênh đầu tư
quan trọng và hấp dẫn đối với các nhà đầu tư. Ngày nay, thuật ngữ chứng khoán
và TTCK đã trở nên gần gũi đối với nhiều người dân Việt Nam, từ nhân viên văn
phòng cho đến những người buôn bán nhỏ. Điều này là một thành quả rất đáng tự
hào, là một điểm nhấn tốt đẹp đóng góp vào quá trình phát triển kinh tế chung của
đất nước.
Tuy nhiên, bên cạnh đó hoạt động ĐTCK ở Việt Nam tồn tại rất nhiều hạn
chế cần phải khắc phục, tiềm ẩn nguy cơ rủi ro cao, và bị chi phối bởi yếu tố tâm
lý đám đông, hay nói một cách khác việc vận dụng những kết luận từ hoạt động
phân tích chứng khoán nói chung, PTCB nói riêng trong ĐTCK ở Việt Nam chưa
được coi trọng, chính vì vậy công tác PTCB chứng khoán ở Việt Nam còn nhiều
hạn chế, và do vậy nó có tác động ngược trở lại làm cho những kết luận mà PTCB
đưa ra chưa thực sự khách quan và khoa học, do vậy chưa hỗ trợ cho hoạt động
ĐTCK hiệu quả hơn.
Xuất phát từ thực tế đó, tác giả cho rằng việc hoàn thiện phương pháp
PTCB, làm cho PTCB là một công cụ nhằm giúp cho hoạt động ĐTCK trở nên
hiệu quả hơn là việc làm cần thiết, qua đó ĐTCK sẽ ngày càng trở thành một kênh
đầu tư hấp dẫn, TTCK Việt Nam sẽ ngày càng phát triển.
Do đó, đề tài: “Hoàn thiện phương pháp PTCB trong ĐTCK ở Việt Nam”
được chọn để nghiên cứu, đánh giá thực trạng và đề ra một số giải pháp nhằm đối
với phương pháp phân tích cơ bản trong ĐTCK ở Việt Nam.
2. Mục đích nghiên cứu
- Trình bày một cách hệ thống những vấn đề cơ bản về ĐTCK và phương
pháp PTCB trong ĐTCK.
- Phân tích và đánh giá thực trạng công tác PTCB trong ĐTCK ở Việt Nam.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện phương pháp PTCB trong
ĐTCK ở Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: hoạt động PTCB trong ĐTCK ở Việt Nam
- Phạm vi nghiên cứu: nghiên cứu hoạt động PTCB trong ĐTCK ở Việt
Nam giai đoạn 2000 - 2008
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp duy vật biện chứng kết hợp với tư duy khoa học logic để
nghiên cứu.
- Phương pháp diễn giải, phân tích.
5. Những đóng góp của luận văn
- Về lý thuyết: hệ thống hoá những vấn đề cơ bản về ĐTCK và phương
pháp PTCB trong ĐTCK
- Về thực tiễn: phân tích và đánh giá thực trạng của hoạt động PTCB trong
ĐTCK ở Việt Nam. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện
phương pháp PTCB trong ĐTCK ở Việt Nam.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và bảng các chữ viết tắt,
luận văn được kết cấu gồm ba chương:
- Chương 1: Lý luận chung về PTCB trong ĐTCK
- Chương 2: Thực trạng hoạt động PTCB trong ĐTCK ở Việt Nam.
- Chương 3: Hoàn thiện phương pháp PTCB trong ĐTCK ở Việt Nam
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÂN TÍCH
CƠ BẢN TRONG ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN
1.1. Tổng quan về chứng khoán và TTCK
1.1.1. Chứng khoán
Chứng khoán là hàng hoá của TTCK. Đó là những tài sản tài chính vì nó
mang lại thu nhập và khi cần người sở hữu nó có thể bán nó để thu tiền về. Theo
sự phát triển của thị trường, hàng hoá ngày càng phong phú và đa dạng, nhưng tựu
chung lại, người ta thường phân chia chứng khoán thành cổ phiếu, trái phiếu,
chứng chỉ quỹ đầu tư, các công cụ chuyển đổi và các công cụ phái sinh.
1.1.1.1. Cổ phiếu
Cổ phiếu là một loại chứng khoán được phát hành dưới dạng chứng chỉ
hoặc bút toán ghi sổ, xác nhận quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp của người sở hữu
cổ phiếu đối với tài sản hoặc vốn của một công ty cổ phần. Cổ phiếu là công cụ
không có thời hạn. Theo tính chất của các quyền lợi mà cổ phiếu mang lại cho cổ
đông, có hai loại cổ phiếu cơ bản là cổ phiếu phổ thông và cổ phiếu ưu đãi.
1.1.1.2. Trái phiếu
Trái phiếu là một loại chứng khoán quy định nghĩa vụ của người phát hành
(người vay tiền) phải trả cho người nắm giữ chứng khoán (người cho vay) một
khoản tiền xác định, thường là trong những khoảng thời gian cụ thể, và phải hoàn
trả khoản cho vay ban đầu khi nó đáo hạn.
1.1.1.3. Chứng chỉ quỹ đầu tư
Quỹ ĐTCK là quỹ hình thành từ vốn góp của người đầu tư để đầu tư vào
các chứng khoán. Chứng chỉ quỹ đầu tư là loại chứng khoán xác nhận quyền sở
hữu của NĐT đối với một phần vốn góp của quỹ đại chúng.
1.1.1.4. Chứng khoán có thể chuyển đồi
Chứng khoán có thể chuyển đổi là những chứng khoán cho phép người nắm
giữ nó, tuỳ theo lựa chọn và trong những điều kiện nhất định, có thể đổi nó lấy
một chứng khoán khác
1.1.1.5. Các chứng khoán phái sinh
- Quyền mua cổ phần (hay quyền mua trước) là quyền ưu tiên mua trước
dành cho các cổ đông hiện hữu của một công ty cổ phần được mua một số lượng
cổ phần trong một đợt phát hành cổ phiếu phổ thông mới tương ứng với tỷ lệ cổ
phần hiện có của họ trong công ty, tại một mức giá xác định, thấp hơn mức giá
chào mời ra công chúng và trong một thời hạn nhất định, đôi khi chỉ vài tuần.
- Chứng quyền là một loại chứng khoán trao cho người nắm giữ nó quyền
được mua một số lượng xác định một loại chứng khoán khác, thường là cổ phiếu
thường, với một mức giá xác định và trong một thời hạn nhất định. Quyền này
được phát hành khi tổ chức lại các công ty, hoặc khi công ty nhằm mục tiêu
khuyến khích các NĐT tiềm năng mua các trái phiếu hoặc cổ phiếu ưu đãi có
những điều kiện kém thuận lợi. Để chấp nhận những điều kiện đó, NĐT có được
một lựa chọn đối với sự lên giá có thể xảy ra của cổ phiếu thường.
- Hợp đồng kỳ hạn là một thoả thuận trong đó một người mua và một người
bán chấp thuận thực hiện một giao dịch hàng hoá với một khối lượng xác định, tại
một thời điểm xác định trong tương lai với một mức giá được ấn định vào ngày
hôm nay.
- Hợp đồng tương lai là một thoả thuận đòi hỏi một bên của hợp đồng sẽ
mua hoặc bán một hàng hoá nào đó tại một thời hạn xác định trong tương lai theo
một mức giá đã định trước. Chức năng kinh tế cơ bản của các thị trường hợp đồng
tương lai là cung cấp một cơ hội cho những người tham gia thị trường để phòng
ngừa rủi ro về những biến động giá bất lợi.
- Quyền lựa chọn là một hợp đồng cho phép người nắm giữ nó được mua
(nếu là quyền chọn mua) hoặc được bán (nếu là quyền chọn bán) một khối lượng
nhất định hàng hoá tại một mức giá xác định và trong một thời hạn nhất định. Các
hàng hoá cơ sở này có thể là cổ phiếu, chỉ số cổ phiếu, trái phiếu, chỉ số trái phiếu,
thương phẩm, đồng tiền hay hợp đồng tương lai.
1.1.2. Những vấn đề chung của TTCK
1.1.2.1. Sơ lược về lịch sử hình thành và phát triển TTCK
Hình thức sơ khai của TTCK đã xuất hiện vào khoảng thế kỷ XV, ở các
thành phố trung tâm thương mại của các nước phương Tây, trong các chợ phiên
hay hội chợ, các thương gia thường tụ tập tại các quán cà phê để thương lượng
mua bán, trao đổi hàng hoá. Đặc điểm của hoạt động này là các thương gia chỉ
trao đổi bằng lời nói với nhau về các hợp đồng mua bán mà không có sự xuất hiện
của bất cứ hàng hoá, giấy tờ nào. Đến cuối thế kỷ XV, khu chợ riêng đã trở thành
thị trường hoạt động thường xuyên với những quy ước xác định cho các cuộc
thương lượng. Những quy ước này dần trở thành các quy tắc có tính chất bắt buộc
đối với các thành viên tham gia.
Buổi họp đầu tiên diễn ra năm 1453 tại một lữ quán của gia đình Vanber tại
thành phố Bruges (Bỉ). Trước lữ quán có một bảng hiệu vẽ hình ba túi da và chữ
Bourse. Ba túi da tượng trưng cho ba nội dung của thị trường: Thị trường hàng
hoá; Thị trường ngoại tệ và TTCK động sản; còn chữ Bourse có nghĩa là “mậu
dịch thị trường” hay còn gọi là “nơi buôn bán chứng khoán”. Đến năm 1547, thị
trường ở thành phố Bruges bị sụp đổ do cửa biển Evin – nơi dẫn các tàu thuyền
vào buôn bán tại thành phố, bị cát biển lấp mất.
Đến năm 1531, thị trường này đã được dời tới thành phố cảng Anvers (Bỉ),
từ đó, thị trường này phát triển nhanh chóng. Đến thế kỷ XVIII, một thị trường
như vậy cũng được thành lập ở London (Anh) và sau đó là một loạt thị trường tại
Pháp, Đức, Ý, một số nước Bắc Âu và Mỹ cũng được thành lập. Tuy nhiên, sau
một thời gian hoạt động, thị trường đã chứng tỏ khả năng không đáp ứng được yêu
cầu của cả ba giao dịch khác nhau. Vì thế, thị trường hàng hoá được tách ra thành
các khu thương mại, thị trường ngoại tệ được tách ra và phát triển thành thị trường
hối đoái. TTCK động sản trở thành TTCK. Như vậy, TTCK được hình thành cùng
với thị trường hàng hoá và thị trường hối đoái.
Quá trình phát triển của TTCK đã trải qua nhiều bước thăng trầm. Lịch sử
đã ghi nhận hai đợt khủng hoảng lớn, đó là khi các TTCK lớn ở Mỹ, Tây Âu, Bắc
Âu, Nhật Bản bị sụp đổ trong vài giờ vào ngày 29/10/1929 và ngày 19/10/1987.
Nhưng cuối cùng, TTCK lại được phục hồi và tiếp tục phát triển, trở thành một thể
chế tài chính không thể thiếu được trong nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị
trường.
Hiện nay, do các biến động lớn trong nền kinh tế thế giới, do tác động của
tiến bộ khoa học kỹ thuật và với mong muốn của Chính phủ các nước trong việc
tăng cường vai trò của TTCK đối với đời sống kinh tế, TTCK đã được tạo mọi
điều kiện phát triển. Các chính sách của Chính phủ các nước đã góp phần thúc đẩy
sự hình thành và phát triển của TTCK.
1.1.2.2. Khái niệm và bản chất của TTCK
Theo quan niệm đầy đủ và rõ ràng, phù hợp với sự phát triển chung của
TTCK hiện nay, thì TTCK là nơi diễn ra các giao dịch mua bán, trao đổi các loại
chứng khoán. Chứng khoán được hiểu là các loại giấy tờ có giá hay bút toán ghi
sổ, nó cho phép chủ sở hữu có quyền yêu cầu về thu nhập và tài sản của tổ chức
phát hành hoặc quyền sở hữu. Các quyền yêu cầu này có sự khác giữa các loại
chứng khoán, tùy theo tính chất sở hữu của chúng. Các quan hệ mua bán, trao đổi
trên TTCK làm thay đổi chủ sở hữu của chứng khoán, và như vậy, thực chất đây
chính là quá trình vận động của tư bản, chuyển từ tư bản sở hữu sang tư bản kinh
doanh.
Hàng hoá trên TTCK là một loại hàng hoá đặc biệt, là quyền sở hữu về tư
bản. Loại hàng hoá này cũng có giá trị và giá trị sử dụng. Như vậy, bản chất của
TTCK là thị trường thể hiện mối quan hệ giữa cung và cầu của vốn đầu tư mà ở
đó, giá cả của chứng khoán chứa đựng thông tin về chi phí vốn hay giá cả của vốn
đầu tư. TTCK là hình thức phát triển bậc cao của nền sản xuất và lưu thông hàng
hoá.
Qua đó có thể thấy, TTCK đã cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng,
huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế, tạo tính thanh khoản cho chứng khoán, đánh
giá hoạt động của DN, tạo môi trường giúp chính phủ thực hiện các chính sách
kinh tế vĩ mô.
Các chủ thể tham gia trên TTCK gồm có: chủ thể phát hành (bao gồm
Chính phủ, các DN, và một số tổ chức khác như: các Quỹ đầu tư, tổ chức tài chính
trung gian…); NĐT (là những người có tiền, thực hiện việc mua và bán chứng
khoán trên TTCK để tìm kiếm lợi nhuận, bao gồm NĐT cá nhân và NĐT có tổ
chức) các tổ chức có liên quan đến TTCK (như cơ quan quản lý và giám sát hoạt
động TTCK, SGD chứng khoán, hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán, tổ
chức lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán, các tổ chức hỗ trợ, các công ty
đánh giá hệ số tín nhiệm).
TTCK hoạt động dựa trên một số các nguyên tắc cơ bản đó là nguyên tắc
công khai (nguyên tắc này phải thoả mãn yêu cầu về thông tin chính xác, kịp thời,
dễ tiếp cận), nguyên tắc trung gian (trên TTCK các giao dịch được thực hiện thông
qua các tổ chức trung gian là các CTCK), nguyên tắc đấu giá (mọi việc mua bán
chứng khoán trên TTCK đều hoạt động trên nguyên tắc đấu giá, và do mối cung
cầu trên thị trường quyết định).
1.1.2.3. Vị trí của TTCK trong thị trường tài chính
TTCK là một bộ phận của thị trường tài chính. Vị trí của TTCK trong tổng
thể thị trường tài chính thể hiện:
Một là: TTCK là hình ảnh đặc trưng của thị trường vốn
Thời gian đáo hạn 1 năm t
Như vậy, trên TTCK giao dịch 2 loại công cụ tài chính: công cụ tài chính
trên thị trường vốn và công cụ tài chính trên thị trường tiền tệ.
Hai là, TTCK là hạt nhân trung tâm của thị trường tài chính, nơi diễn ra quá
trình phát hành, mua bán các công cụ Nợ và công cụ Vốn (các công cụ sở hữu)
Thị trường tiền tệ …Thị trường vốn……..
…………………………………………
……………………………
…………………………………………
……………………………
TTCK
1.1.2.4. Cấu trúc của TTCK
Tuỳ vào mục đích nghiên cứu, cấu trúc của TTCK có thể được phân loại
theo nhiều tiêu thức khác nhau. Tuy nhiên, thông thường, ba cách thức cơ bản để
phân loại TTCK đó là: phân loại theo hàng hoá, phân loại theo hình thức tổ chức
của thị trường và phân loại theo quá trình luân chuyển vốn.
- Phân loại theo hàng hoá: theo các loại hàng hoá được mua bán trên thị
trường, người ta có thể phân TTCK thành thị trường trái phiếu, thị trường cổ phiếu
và thị trường các công cụ chứng khoán phái sinh.
Thị trường cổ phiếu: là thị trường giao dịch và mua bán các loại cổ phiếu,
bao gồm cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi.
Thị trường trái phiếu: là thị trường giao dịch và mua bán các trái phiếu đã
được phát hành, bao gồm trái phiếu Chính phủ, trái phiếu đô thị và trái phiếu công
ty.
Thị trường các công cụ chứng khoán phái sinh: là thị trường phát hành và
Thị trường nợ ………...
………………………
………………………
………………………
………………………
………………………
………………………
Thị trường vốn cổ phần
TTCK
mua đi bán lại các chứng khoán phái sinh đã phát hành như: quyền mua cổ phiếu,
chứng quyền, hợp đồng quyền chọn…
- Theo quá trình luân chuyển vốn: TTCK được phân thành thị trường sơ cấp
và thị trường thứ cấp.
Thị trường sơ cấp: là thị trường mua bán các chứng khoán mới phát hành.
Trên thị trường này, vốn từ NĐT sẽ được chuyển sang nhà phát hành thông qua
việc NĐT mua các chứng khoán mới phát hành.
Thị trường thứ cấp: là nơi giao dịch các chứng khoán đã phát hành trên thị
trường sơ cấp. Thị trường thứ cấp đảm bảo tính thanh khoản cho các chứng khoán
đã phát hành.
- Theo hình thức tổ chức của thị trường, TTCK được phân thành: thị trường
tập trung (SGD chứng khoán) và thị trường phi tập trung (thị trường OTC).
Tại SGD chứng khoán, người mua và người bán (hoặc đại lý, môi giới của
họ) gặp nhau tại một địa điểm nhất định để tiến hành giao dịch mua bán, trao đổi
chứng khoán. SGD chứng khoán được quản lý chặt chẽ bởi Uỷ ban chứng khoán
quốc gia, các giao dịch chịu sự điều chỉnh của Luật chứng khoán và TTCK.
Thị trường giao dịch qua quầy hay thị trường giao dịch phi tập trung
(OTC) là thị trường của các nhà buôn, những người tạo thị trường. Các nhà buôn
có một danh mục chứng khoán và họ sẵn sàng mua và bán với các nhà buôn khác
cũng như các NĐT khi những người này chấp nhận giá cả của họ. Ở thị trường
này không có địa điểm giao dịch chính thức mà có thể diễn ra ở tất cả các quầy,
sàn giao dịch của các thành viên thông qua điện thoại hay mạng máy tính diện
rộng.
Ngoài hai loại thị trường nêu trên, người ta còn nói đến thị trường thứ ba,
thị trường tự do dành cho các chứng khoán không đủ tiêu chuẩn để giao dịch trên
thị trường tập trung và thị trường OTC. Ngoải ra, người ta còn phân loại TTCK
thành thị trường đàm phán và thị trường mở, thị trường giao ngay và thị trường kỳ
hạn.
1.2. Đầu tư chứng khoán
1.2.1. Khái quát chung về đầu tư
Đầu tư nói chung là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các
hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các
nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó. Như vậy, mục tiêu của mọi công
cuộc đầu tư là đạt được các kết quả lớn hơn so với những hy sinh về nguồn lực mà
người đầu tư phải gánh chịu khi tiến hành đầu tư. Nguồn lực phải hy sinh có thể là
tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động và trí tuệ. Những kết quả sẽ đạt
được có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính (tiền vốn), tài sản vật chất (nhà
máy, đường sá, bệnh viện, trường học…), tài sản trí tuệ (trình độ văn hoá, chuyên
môn, quản lý, khoa học kỹ thuật…) và nguồn nhân lực có đủ điều kiện làm việc
với năng suất lao động cao hơn trong nền sản xuất xã hội. Căn cứ vào bản chất và
phạm vi lợi ích do đầu tư đem lại chúng ta có thể chia đầu tư thành đầu tư thương
mại, đầu tư tài sản vật chất và sức lao động, và đầu tư tài chính.
Đầu tư thương mại là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra để mua
hàng hoá và sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận do chênh lệch giá khi
mua và khi bán.
Đầu tư tài sản vật chất và sức lao động trong đó người có tiền bỏ tiền ra để
tiến hành các hoạt động nhằm tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, làm tăng tiềm lực
sản xuất kinh doanh và mọi hoạt động xã hội khác, là điều kiện chủ yếu để tạo
việc làm, nâng cao đời sống của mọi người dân trong xã hội, đó chính là việc xâ;y
dựng, sửa chữa nhà cửa và các kết cấu hạ tầng, mua sắm trang thiết bị, lắp đặt
chúng trên nền bệ và bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện các chi phí
thường xuyên, gắn liền với sự hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực
hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế xã hội.
Loại đầu tư này gọi chung là đầu tư phát triển.
Đầu tư tài chính (Đầu tư tài sản tài chính) là loại đầu tư trong đó người có
tiền bỏ tiền ra cho vay hoặc mua các chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất định trước
(gửi tiết kiệm, mua trái phiếu) hoặc lãi suất tuỳ thuộc vào kết quả hoạt động sản
xuất kinh doanh của công ty phát hành (mua cổ phiếu). Đầu tư tài sản tài chính
không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế (nếu không xét đến quan hệ quốc tế trong
lĩnh vực này) mà chỉ làm tăng giá trị tài sản tài chính của tổ chức, cá nhân đầu tư
(trong khuôn khổ quy định của pháp luật). Với sự hoạt động của hình thức đầu tư
tài chính, vốn bỏ ra đầu tư được lưu chuyển dễ dàng, khi cần có thể rút ra một
cách nhanh chóng (rút tiết kiệm, chuyển nhượng cố phiếu, trái phiếu cho người
khác), điều đó khuyến khích người có tiền bỏ tiền ra để đầu tư.
1.2.2. Khái niệm và mục đích của ĐTCK
Chứng khoán là các tài sản tài chính, vì vậy ĐTCK là một loại hình đầu tư
tài chính. Trong hoạt động này, các NĐT mua các chứng khoán theo một danh
mục đầu tư rất đa dạng, bao gồm cả các công cụ trên thị trường tiền tệ và các công
cụ trên thị trường vốn.
Mục đích của ĐTCK trước hết là nhằm thu được lợi nhuận từ số tiền đầu tư
đã bỏ ra. Tiếp đến mục đích của ĐTCK là để phân tán rủi ro có thể gặp trong
tương lai nhờ đa dạng hoá các hình thức đầu tư, và để thực hiện quyền kiểm soát
hoặc tham gia quản trị DN với tư cách người nắm cổ phần, vốn góp chi phối. Các
mục đích có thể khác nhau tuỳ theo ý định của từng NĐT, song cũng có thể là
tổng hợp các mục tiêu trên trong những tình huống cụ thể.
1.2.3. Phân loại ĐTCK
Tuỳ theo mục đích quản lý, hoạt động ĐTCK có thể được phân loại theo
nhiều cách khác nhau.
Căn cứ vào loại công cụ đầu tư, có thể phân loại ĐTCK thành đầu tư trái
phiếu Chính phủ, đầu tư trái phiếu DN và đầu tư cổ phiếu. Việc phân loại này có
thể giúp các nhà quản lý xây dựng dan