Quyền chất vấn là một trong những quyền quan trọng và cơbản của các
đại biểu Quốc hội được ghi nhận trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật có
liên quan. Trong các khóa Quốc hội gần đây, các phiên chất vấn của Quốc hội
đã được phát thanh, truyền hình trực tiếp và nhận được sựquan tâm sâu sắc của
đông đảo nhân dân cảnước, các phương tiện thông tin đại chúng. Bên cạnh đó,
hoạt động chất vấn cũng luôn được đổi mới vềquy trình, thủtục, cách thức điều
hành; việc tổng hợp, theo dõi việc thực hiện lời hứa của người trảlời chất vấn,
thông báo các nội dung có liên quan sau chất vấn được thực hiện một cách
thường xuyên, đảm bảo chất lượng theo yêu cầu, góp phần nâng cao hiệu quả
chung của hoạt động giám sát. Nhìn chung, hoạt động chất vấn trởthành một
sinh hoạt thường xuyên, có hiệu quảthiết thực của Quốc hội, được đại biểu
Quốc hội, cửtri và nhân dân quan tâm, đánh giá cao. Đồng thời, đã giúp khẳng
định được trách nhiệm của cơquan điều hành trong việc thực thi Hiến pháp,
pháp luật, nghịquyết của Quốc hội.
Từnhiệm kỳQuốc hội khóa XII, bên cạnh hoạt động chất vấn tại các kỳ
họp Quốc hội, hoạt động chất vấn tại Ủy ban thường vụQuốc hội trong thời gian
giữa hai kỳhọp Quốc hội lần đầu tiên được tổchức đã làm cho hoạt động của
Quốc hội nói chung và hoạt động của Uỷban thường vụQuốc hội trởnên phong
phú, đa dạng hơn, góp phần xây dựng bộmáy nhà nước trong sạch, hoạt động có
hiệu lực, hiệu quả. Bên cạnh những kết quả đạt được, thực tiễn hoạt động chất
vấn tại 6 phiên họp Ủy ban thường vụQuốc hội vừa qua cho thấy vẫn còn một
sốvấn đềbất cập đáng quan tâm, chủyếu là về cơsởpháp lý đểtiến hành hoạt
động chất vấn tại Ủy ban thường vụQuốc hội. Hiện nay, quy định vềvấn đềnày
trong các văn bản pháp luật có liên quan nhưHiến pháp, Luật tổchức Quốc hội,
Luật hoạt động giám sát của Quốc hội. còn chưa thống nhất, có những điểm
mâu thuẫn, chồng chéo; quy trình thủtục chuẩn bịvà tiến hành hoạt động chất
vấn còn thiếu.
70 trang |
Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 1149 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo nghiên cứu hoàn thiện pháp luật về hoạt động chất vấn tại phiên họp ủy ban thường vụ quốc hội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
V¨n phßng quèc héi ch−¬ng tr×nh ph¸t triÓn liªn hîp quèc
DỰ ÁN TĂNG CƯỜNG NĂNG LỰC CỦA CÁC CƠ QUAN DÂN CỬ
Ở VIỆT NAM
BÁO CÁO NGHIÊN CỨU
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG CHẤT VẤN TẠI
PHIÊN HỌP ỦY BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI
Ấn phẩm này được hoàn thành và xuất bản với sự hỗ trợ kỹ thuật của Dự án
“Tăng cường năng lực cho các cơ quan đại diện ở Việt Nam” (giai đoạn III),
Văn phòng Quốc hội và UNDP tại Việt Nam. Những quan điểm thể hiện
trong ấn phẩm này là của tác giả, và không nhất thiết đại diện cho quan
điểm của Liên Hợp Quốc bao gồm UNDP cũng như các thành viên Liên Hợp
Quốc.
HÀ NỘI
Tháng 7-2012
2
MỤC LỤC
Mở đầu
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về hoạt động chất vấn giữa hai kỳ họp QH
1.1- Về quyền chất vấn của đại biểu Quốc hội ........................................................................... 5
1.2- Vai trò của Ủy ban thường vụ Quốc hội đối với hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội
.................................................................................................................................................... 8
1.2.1. Vai trò của Ủy ban thường vụ Quốc hội trong hoạt động của Quốc hội nói chung ..... 8
1.2.2. Vai trò của Ủy ban thường vụ Quốc hội trong hoạt động chất vấn ............................ 12
1.3- Mục đích, ý nghĩa của hoạt động chất vấn tại phiên họp Ủy ban thường vụ Quốc hội .... 14
1.3.1. Mục đích ..................................................................................................................... 14
1.3.2. Ý nghĩa ....................................................................................................................... 17
Chương 2: Thực trạng hoạt động chất vấn tại phiên họp Ủy ban thường vụ
Quốc hội
2.1- Thực trạng hệ thống quy định pháp luật về hoạt động chất vấn tại phiên họp Ủy ban
thường vụ Quốc hội .................................................................................................................. 21
2.1.1. Quy định về điều kiện tổ chức hoạt động chất vấn .................................................... 21
2.1.2. Quy định về đối tượng trả lời chất vấn ....................................................................... 23
2.1.3. Quy định về quy trình tổ chức chất vấn ...................................................................... 23
2.1.4. Quy định về hậu quả chất vấn .................................................................................... 24
2.1.5. Những vấn đề đặt ra .................................................................................................... 25
2.2- Thực trạng việc tổ chức hoạt động chất vấn tại phiên họp Ủy ban thường vụ Quốc hội .. 30
2.2.1. Nội dung các phiên họp chất vấn đã tổ chức .............................................................. 30
2.2.2. Quy trình tiến hành hoạt động chất vấn tại phiên họp Ủy ban thường vụ Quốc hội .. 36
2.2.3. Những kết quả đạt được việc tiến hành hoạt động chất vấn tại phiên họp Ủy ban
thường vụ Quốc hội .............................................................................................................. 39
2.2.4. Một số hạn chế và những vấn đề đặt ra ...................................................................... 42
Chương 3: Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về hoạt động chất vấn tại phiên
họp Ủy ban thường vụ Quốc hội
3.1- Phương hướng chung về việc tổ chức hoạt động chất vấn tại phiên họp Ủy ban thường vụ
Quốc hội ................................................................................................................................... 52
3.1.1. Hoàn thiện pháp luật: đồng bộ hóa, bổ sung những quy định còn thiếu, sửa đổi những
quy định thiếu tính khả thi. ................................................................................................... 52
3.1.2. Tiếp tục tổ chức, tăng thời lượng, tần suất hoạt động chất vấn tại phiên họp Ủy ban
thường vụ Quốc hội .............................................................................................................. 53
3.1.3. Khắc phục những hạn chế, bất cập trong thực tiễn, tiếp tục đổi mới cách thức tổ chức
nhằm tiếp tục nâng cao hiệu quả hoạt động chất vấn tại phiên họp Ủy ban thường vụ Quốc
hội ......................................................................................................................................... 54
3.2- Kiến nghị giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật hiện hành về tổ chức hoạt động
chất vấn tại phiên họp Ủy ban thường vụ Quốc hội ................................................................. 55
3.2.1. Sửa đổi, bổ sung các quy định hiện hành của pháp luật ............................................. 55
3.2.2. Ban hành mới Quy chế về việc tổ chức hoạt động chất vấn tại phiên họp Ủy ban
thường vụ Quốc hội .............................................................................................................. 66
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo
3
Mở đầu
Quyền chất vấn là một trong những quyền quan trọng và cơ bản của các
đại biểu Quốc hội được ghi nhận trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật có
liên quan. Trong các khóa Quốc hội gần đây, các phiên chất vấn của Quốc hội
đã được phát thanh, truyền hình trực tiếp và nhận được sự quan tâm sâu sắc của
đông đảo nhân dân cả nước, các phương tiện thông tin đại chúng. Bên cạnh đó,
hoạt động chất vấn cũng luôn được đổi mới về quy trình, thủ tục, cách thức điều
hành; việc tổng hợp, theo dõi việc thực hiện lời hứa của người trả lời chất vấn,
thông báo các nội dung có liên quan sau chất vấn được thực hiện một cách
thường xuyên, đảm bảo chất lượng theo yêu cầu, góp phần nâng cao hiệu quả
chung của hoạt động giám sát. Nhìn chung, hoạt động chất vấn trở thành một
sinh hoạt thường xuyên, có hiệu quả thiết thực của Quốc hội, được đại biểu
Quốc hội, cử tri và nhân dân quan tâm, đánh giá cao. Đồng thời, đã giúp khẳng
định được trách nhiệm của cơ quan điều hành trong việc thực thi Hiến pháp,
pháp luật, nghị quyết của Quốc hội.
Từ nhiệm kỳ Quốc hội khóa XII, bên cạnh hoạt động chất vấn tại các kỳ
họp Quốc hội, hoạt động chất vấn tại Ủy ban thường vụ Quốc hội trong thời gian
giữa hai kỳ họp Quốc hội lần đầu tiên được tổ chức đã làm cho hoạt động của
Quốc hội nói chung và hoạt động của Uỷ ban thường vụ Quốc hội trở nên phong
phú, đa dạng hơn, góp phần xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, hoạt động có
hiệu lực, hiệu quả. Bên cạnh những kết quả đạt được, thực tiễn hoạt động chất
vấn tại 6 phiên họp Ủy ban thường vụ Quốc hội vừa qua cho thấy vẫn còn một
số vấn đề bất cập đáng quan tâm, chủ yếu là về cơ sở pháp lý để tiến hành hoạt
động chất vấn tại Ủy ban thường vụ Quốc hội. Hiện nay, quy định về vấn đề này
trong các văn bản pháp luật có liên quan như Hiến pháp, Luật tổ chức Quốc hội,
Luật hoạt động giám sát của Quốc hội... còn chưa thống nhất, có những điểm
mâu thuẫn, chồng chéo; quy trình thủ tục chuẩn bị và tiến hành hoạt động chất
vấn còn thiếu...
Xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn, với trách nhiệm của đơn vị được phân
công phối hợp tổ chức phục vụ hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội, Vụ
tổng hợp, Văn phòng Quốc hội xây dựng Báo cáo nghiên cứu về “Hoàn thiện
quy định của pháp luật về hoạt động chất vấn tại phiên họp Ủy ban thường vụ
Quốc hội”. Việc xây dựng Báo cáo nghiên cứu hướng tới những mục đích sau
đây:
4
- Thiết thực phục vụ việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992, Luật tổ chức
Quốc hội, Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và các văn bản pháp luật khác
có liên quan, góp phần tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc tổ chức hoạt động
chất vấn và trả lời chất vấn tại phiên họp Ủy ban thường vụ Quốc hội.
- Xây dựng quy trình, thủ tục cụ thể, chi tiết từ khâu chuẩn bị, tiến hành
đến hậu chất vấn, tạo điều kiện thuận lợi cho đại biểu Quốc hội tham gia hoạt
động chất vấn giữa hai kỳ họp Quốc hội và giúp cho các cơ quan tham mưu,
giúp việc dễ dàng hơn trong công tác phục vụ hoạt động này.
Nội dung của Báo cáo nghiên cứu tập trung vào những vấn đề sau đây:
- Một số vấn đề lý luận về hoạt động chất vấn giữa hai kỳ họp Quốc hội:
mục đích, ý nghĩa, yêu cầu và sự cần thiết tiến hành hoạt động chất vấn tại phiên
họp Ủy ban thường vụ Quốc hội.
- Phân tích thực trạng các quy định của pháp luật và việc thi hành các quy
định về việc tổ chức hoạt động chất vấn tại phiên họp Ủy ban thường vụ Quốc
hội.
- Kiến nghị hoàn thiện hệ thống các quy định pháp luật về việc tổ chức
hoạt động chất vấn tại phiên họp Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Để chuẩn bị, đồng thời xin ý kiến về những nội dung nghiên cứu chủ yếu,
Văn phòng Quốc hội đã tổ chức một cuộc Tọa đàm với sự tham gia của một số
vị đại biểu Quốc hội, các chuyên gia, các nhà nghiên cứu, các nhà hoạt động
thực tiễn, thảo luận, trao đổi về những vấn đề liên quan đến nội dung Báo cáo
nghiên cứu. Bên cạnh đó, các chuyên gia tiến hành nghiên cứu cũng đã sưu tầm,
phân tích tài liệu, số liệu; so sánh, đối chiếu với hoạt động chất vấn tại kỳ họp
Quốc hội và hoạt động giải trình tại các Ủy ban; thảo luận nhóm và xây dựng dự
thảo Báo cáo; xin ý kiến một số chuyên gia, Lãnh đạo Văn phòng Quốc hội, Ban
công tác đại biểu và tiếp thu, chỉnh lý, hoàn thiện Báo cáo.
Báo cáo được xây dựng trong một thời gian ngắn (từ tháng 4 đến hết
tháng 6-2012), vì vậy không tránh khỏi những khiếm khuyết, hạn chế. Trân
trọng kính gửi các vị đại biểu Quốc hội để tham khảo. Nếu có ý kiến góp ý, phản
hồi xin được gửi về Vụ tổng hợp (Văn phòng Quốc hội) để tiếp tục chỉnh lý,
hoàn thiện báo cáo.
5
Chương I-
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG
CHẤT VẤN GIỮA HAI KỲ HỌP QUỐC HỘI
1.1- Về quyền chất vấn của đại biểu Quốc hội
Trong các hình thức hoạt động giám sát của Quốc hội nước ta thì chất vấn
là hình thức giám sát trực tiếp và được đại biểu Quốc hội tiến hành thường
xuyên. Chất vấn có vai trò rất quan trọng trong hoạt động giám sát tối cao của
Quốc hội, đồng thời có tác động lớn đến hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ
quan Nhà nước. Các đại biểu Quốc hội khi thực hiện quyền chất vấn không nhân
danh cá nhân mà nhân danh chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước là nhân dân,
thay mặt nhân dân yêu cầu người bị chất vấn phải trả lời về những vấn đề liên
quan đến trách nhiệm pháp lý; quy trách nhiệm pháp lý, trách nhiệm chính trị
đối với người bị chất vấn.
Theo Từ điển tiếng Việt năm 19991, thì “chất vấn là yêu cầu phải giải
thích rõ ràng - Đại biểu Quốc hội chất vấn Chính phủ”.
Theo quy định của Điều 2, Luật hoạt động giám sát của Quốc hội năm
2003, thì chất vấn là một hoạt động giám sát, trong đó đại biểu Quốc hội nêu
những vấn đề thuộc trách nhiệm của Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ
tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án
Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và yêu cầu
những người này trả lời”.
Từ quy định nêu trên có thể thấy rằng, chất vấn là hoạt động quyền lực
nhằm thực hiện chức năng giám sát, là quyền hiến định của đại biểu Quốc hội,
được thể hiện bằng hình thức hỏi – đáp. Bản chất của hoạt động chất vấn là việc
đại biểu Quốc hội yêu cầu những người giữ các chức danh do Quốc hội bầu
1 Minh Tân - Thanh Nghi - Xuân Lãm, Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Thanh Hóa, 1999, trang 200.
6
hoặc phê chuẩn trả lời về trách nhiệm của mình trong việc thực hiện chính sách
của Nhà nước hay về một vấn đề thời sự nào đó được nhân dân quan tâm.2
Chất vấn chính là một trong những phương thức thiết yếu giúp Nghị viện
nhiều nước áp đặt trách nhiệm chính trị lên Chính phủ. Theo TS. Nguyễn Sĩ
Dũng, mục đích của chất vấn là để làm rõ trách nhiệm. Có nhiều loại trách
nhiệm và được xác định thông qua những cách thức và thủ tục khác nhau. Trách
nhiệm kỷ luật được xác định thông qua hoạt động kiểm tra, trách nhiệm hành
chính thông qua hoạt động thanh tra, trách nhiệm hình sự thông qua hoạt động
điều tra. Với tính chất là một hình thức giám sát của Quốc hội, chất vấn không
nhằm xác định các loại trách nhiệm kể trên, mà chủ yếu để làm rõ trách nhiệm
chính trị. Ví dụ như, nếu chính sách đầu tư là dàn trải, nếu bệnh thành tích là căn
bệnh trầm kha của ngành giáo dục, nếu năng lực điều chỉnh giá thuốc là bất cập
đối với ngành y tế thì chế độ trách nhiệm ở đây trước hết là trách nhiệm chính
trị. Và hoạt động chất vấn của Quốc hội được sinh ra để làm rõ loại trách nhiệm
này. Chất vấn khẳng định chế độ trách nhiệm và tính công khai, minh bạch trong
hoạt động của Nhà nước ta.3
TS Lê Thanh Vân cho rằng, việc đặt câu hỏi chất vấn chính là bám vào
mục tiêu làm rõ vấn đề để điều chỉnh hành vi lãnh đạo, quản lý của đối tượng bị
chất vấn, góp phần vào việc thực hiện các mục tiêu chung của sự nghiệp phát
triển đất nước, xã hội. Trên cơ sở giải trình và đưa ra phương án để giải quyết
vấn đề mà đại biểu Quốc hội chất vấn (bao gồm giải trình về thực trạng/thực
chất của vấn đề, giải trình về nguyên nhân/lý do nảy sinh vấn đề, giải trình về
trách nhiệm quản lý, giải quyết vấn đề) để điều chỉnh các hành vi trong lãnh đạo,
quản lý của các bộ. Mặt khác, khi chất vấn của Quốc hội được truyền hình trực
2 TS. Hoàng Văn Tú, Phó Viện trưởng Viện nghiên cứu lập pháp, Cơ sở pháp lý của hoạt động chất vấn tại
phiên họp Ủy ban thường vụ Quốc hội, phát biểu tại cuộc Tọa đàm về Hoàn thiện pháp luật về hoạt động chất
vấn tại phiên họp Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hà Nội, 12.4.2012.
3 TS. Nguyễn Sĩ Dũng, Chất vấn, Báo Người đại biểu nhân dân, 24/4/2008.
7
tiếp để đông đảo cử tri cả nước có thể theo dõi và phản hồi ý kiến, thì đó sẽ là áp
lực, góp phần đẩy nhanh, mạnh và vững chắc các điều chỉnh cần thiết.4
Có thể nói, chất vấn là một quyền riêng có của đại biểu Quốc hội, là việc
thực hiện một trong những hình thức giám sát mang lại hệ quả chính trị và hệ
quả xã hội to lớn. Từ kết quả trả lời chất vấn, đại biểu Quốc hội và các cơ quan
có thẩm quyền có thể thực hiện quyền kiến nghị bỏ phiếu tín nhiệm đối với
người trả lời chất vấn. Với sự thu hút sự chú ý rộng rãi của công luận, các phiên
họp chất vấn được coi là đợt sinh hoạt chính trị về các vấn đề đang đặt ra trong
đời sống xã hội cần được giải quyết, do đó tạo sức ép lên Chính phủ để tăng
cường trách nhiệm, giải quyết nhanh hơn, tốt hơn vấn đề mà đại biểu đã nêu lên
hoặc cảnh báo qua các câu hỏi chất vấn.
Trong giai đoạn đổi mới, cùng với những đổi mới mạnh mẽ về đường lối,
chính sách phát triển kinh tế, đời sống chính trị của đất nước ta cũng từng bước
cởi mở, dân chủ hơn. Một trong những biểu hiện quan trọng nhất là hoạt động
của cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân – Quốc hội - dần trở nên thực chất,
công khai hơn với những hoạt động bao trùm như lập pháp, giám sát, quyết định
các vấn đề quan trọng, hoạt động tiếp xúc cử tri và đặc biệt là hoạt động chất
vấn các thành viên Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Đây là hoạt động mới, được phát thanh, truyền
hình trực tiếp nên tạo ra nét hấp dẫn, cuốn hút đối với người dân, bởi nó giúp
người dân được tiếp cận nhiều hơn với hoạt động của các cơ quan công quyền
vốn khá khép kín trong thời kỳ bao cấp trước đây. Tuy nhiên, về lâu dài, nếu
không liên tục tạo ra được tính ”hấp dẫn”, ”cuốn hút”, không đem lại những
hiệu quả thiết thực, cụ thể mà chỉ là sự ”xới xáo” một số vấn đề rồi lại để chìm
vào quên lãng thì dần dần người dân cũng sẽ cảm thấy nhàm chán, thấy rõ tính
chất ”trình diễn” trong hoạt động của cơ quan dân cử. Đó chính là đòi hỏi, là áp
lực đặt ra đối với hoạt động của Quốc hội nói chung và hoạt động chất vấn nói
riêng trong thời gian tới.
4 Lê Thanh Vân, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ "Hoàn thiện các quy định của pháp luật về chất vấn và trả
lời chất vấn của đại biểu Quốc hội", Hà Nội, tháng 12-2001, tr6.
8
1.2- Vai trò của Ủy ban thường vụ Quốc hội đối với hoạt động chất
vấn của đại biểu Quốc hội
1.2.1. Vai trò của Ủy ban thường vụ Quốc hội trong hoạt động của Quốc
hội nói chung
Theo quy định của Hiến pháp và Luật tổ chức Quốc hội, Ủy ban thường
vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội nước ta. Trong cơ cấu của
Quốc hội, vị trí của Ủy ban thường vụ Quốc hội có thể được mô tả như sau:
Sơ đồ 1: Cơ cấu tổ chức của Quốc hội5
Trong điều kiện Quốc hội hoạt động không thường xuyên, mỗi năm
thường họp 2 kỳ với tổng thời gian khoảng 60 ngày, Ủy ban thường vụ Quốc hội
vừa là một cơ quan thuộc cơ cấu tổ chức của Quốc hội được thực hiện một số
nhiệm vụ trong thời gian giữa hai kỳ họp; vừa là một thực thể độc lập, có vai trò
quan trọng đối với hoạt động của Quốc hội, cụ thể là:
5 Nguồn: website của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
9
Trong lĩnh vực lập pháp: lập pháp là một trong những nội dung hoạt động
quan trọng của Ủy ban thường vụ Quốc hội, tất cả các dự án luật trước khi được
trình ra Quốc hội đều phải được Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét, cho ý
kiến; bên cạnh đó, Ủy ban thường vụ Quốc hội tự mình xem xét, thông qua pháp
lệnh, nghị quyết có chứa quy phạm pháp luật. Hoạt động lập pháp chiếm một
thời lượng đáng kể trong các phiên họp của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Chẳng
hạn, năm 2009, trong số 11 phiên họp của Uỷ ban thường vụ Quốc hội khóa XII,
(từ phiên họp thứ 16 đến phiên họp thứ 26), phiên họp nào cũng có nội dung về
hoạt động lập pháp. Tính trung bình thời gian dành cho hoạt động lập pháp của
Uỷ ban thường vụ Quốc hội trong năm 2009 là xấp xỉ 44,11% tổng số thời gian
họp, trong đó có phiên họp mà thời gian dành cho hoạt động lập pháp lên đến
82,14%6 (phiên họp thứ 19). Tại các phiên họp này, Uỷ ban thường vụ Quốc hội
thường thảo luận, cho ý kiến về những định hướng chính sách quan trọng cho
các dự án. Trên cơ sở những ý kiến này, các dự án luật, dự thảo nghị quyết được
chỉnh lý, hoàn thiện, trình Quốc hội.
Trong việc quyết định các vấn đề quan trọng: theo quy định của Hiến
pháp và Luật tổ chức Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội có nhiệm vụ và
quyền hạn liên quan đến việc quyết định các vấn đề quan trọng như sau: Trong
trường hợp Quốc hội không thể họp được, quyết định việc tuyên bố tình trạng
chiến tranh khi nước nhà bị xâm lược và báo cáo Quốc hội xem xét, quyết định
tại kỳ họp gần nhất của Quốc hội; Quyết định tổng động viên hoặc động viên
cục bộ; ban bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương;
Thực hiện quan hệ đối ngoại của Quốc hội; Tổ chức trưng cầu ý dân theo quyết
định của Quốc hội....7 Ngoài ra, trong một số văn bản khác, Ủy ban thường vụ
Quốc hội cũng được giao những nhiệm vụ, quyền hạn liên quan đến thẩm quyền
quyết định các vấn đề quan trọng như Luật tổ chức Tòa án nhân dân, Luật tổ
chức Viện kiểm sát nhân dân, Luật tổ chức Chính phủ, Luật ngân sách Nhà
6 Trung tâm thông tin, thư viện và nghiên cứu khoa học, Hoạt động của Quốc hội năm 2009 – một số số liệu
thống kê và phân tích.
7 Điều 91, Hiến pháp 1992, Điều 7, Luật tổ chức Quốc hội
10
nước, Luật khiếu nại, tố cáo, Luật thanh tra, Luật phòng, chống tham nhũng,
Luật kiểm toán Nhà nước
Trong lĩnh vực giám sát: Theo các quy định pháp luật hiện hành về tổ
chức và hoạt động của Quốc hội, thẩm quyền giám sát được phân định cho từng
chủ thể, trong đó Uỷ ban thường vụ Quốc hội thực hiện quyền giám sát đối với
hoạt động của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên
khác của Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và
Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong việc thi hành
Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban
thường vụ Quốc hội; giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, nghị
quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc thuộc trung ương; giúp
Quốc hội giám sát theo sự phân công của Quốc hội. Thực tế, hoạt động giám sát
của Uỷ ban thường vụ Quốc hội chủ yếu tập trung vào ba nội du