Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước.
Hiện nay, đất nước ta đang trên con đường đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, nhằm đưa Việt Nam trở thành một nước có nền kinh tế phát triển cùng hội
nhập với nền kinh tế khu vực và kinh tế thế giới, trong xu thế quốc tế hoá thời đại
mới. Nhất là trong những năm gần đây, kinh tế Việt Nam đang trên đà phát triển
mạnh mẽ, là một trong những nước có nền kinh tế tăng trưởng cao. Đạt được tốc
độ tăng trưởng như vậy cần phải có những điều kiện cần và đủ thúc đẩy nền kinh
tế đất nước hàng năm luôn được phát triển tăng trưởng một cách vững chắc. Một
trong những điều kiện cần thiết ấy chúng ta cần phải kể đến đó là nguồn vốn. Có
thể nói nguồn vốn là nguồn lực chính cần thiết và cơ bản là điều kiện tiền đề để
đáp ứng sự phát triển đó, không ai khác các NHTM là các chủ thể chính quan
trọng nhất đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh trong toàn bộ nền kinh
tế quốc dân. Do tính đặc thù trong hoạt động kinh doanh của ngành ngân hàng là
đi vay rồi lại cho vay lợi nhuận thu được là phần chênh lệch giữa thu lãi cho vay
và thu từ các dịch vụ khác, hay nói cách khác, lợi nhuận thu được do sự chênh
lệch giữa lãi suất đầu ra và lãi suất đầu vào. Để NHTM hoạt động có hiệu quả
thiết thực thì chi phí đầu vào phải thấp hơn so với lãi suất đầu ra
59 trang |
Chia sẻ: nhungnt | Lượt xem: 2056 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo Nguồn vốn và giải pháp phát triển hoạt động huy động nguồn vốn tại Ngân hàng nông nghiệp & phát triển nông thôn huyện Tuần Giáo - Tỉnh Điện Biên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Báo cáo tốt nghiệp
“Nguồn vốn và giải pháp phát triển hoạt động huy động nguồn vốn tại Ngân
hàng nông nghiệp & phát triển nông thôn huyện Tuần Giáo - Tỉnh Điện Biên”
1
Mục lục
Lời mở đầu 2
chương I hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại
trong nền kinh tế 4
1.1 Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường: 4
1.1.1 Khái niệm: 4
1.1.2 Các loại hình ngân hàng thương mại: 4
1.1.3 Chức năng của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường:
6
1.1.4 Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại: 8
1.2 Hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại: 14
1.2.1 Cơ cấu nguồn vốn của Ngân hàng thương mại: 14
1.2.2 Các hình thức huy động vốn chủ yếu của ngân hàng thương mại: 19
1.2.3 Vai trò của hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại
trong nền kinh tế thị trường: 28
1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển hoạt động huy động vốn của
Ngân hàng thương mại: 29
chương Ii thực trạng hoạt động huy động vốn tại nhno & ptnt
huyện tuần giáo – Tỉnh điện biên 35
2.1 Khái quát chung về NHNo & PTNT huyện Tuần Giáo – Tỉnh Điện
Biên: 35
2.1.1 Quá trình phát triển của NHNo & PTNT huyện Tuần Giáo: 35
2.1.2 Các hình thức huy động vốn tại NHNo & PTNT huyện Tuần Giáo:
37
2.2 Thực trạng hoạt động huy động vốn tại NHNo & PTNT huyện Tuần
Giáo: 41
2.2.1 Những mặt được, tồn tại và nguyên nhân: 53
chương Iii giải pháp phát triển hoạt động huy động vốn tại
nhno&PTNT huyện tuần giáo 56
3.1 Định hướng phát triển hoạt động huy động vốn của NHNo&PTNT
huyện Tuần Giáo: 56
2
3.2 Giải pháp phát triển hoạt động huy động vốn tại NHNo&PTNT huyện
Tuần Giáo: 57
Kết luận 58
Lời mở đầu
Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước.
Hiện nay, đất nước ta đang trên con đường đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, nhằm đưa Việt Nam trở thành một nước có nền kinh tế phát triển cùng hội
nhập với nền kinh tế khu vực và kinh tế thế giới, trong xu thế quốc tế hoá thời đại
mới. Nhất là trong những năm gần đây, kinh tế Việt Nam đang trên đà phát triển
mạnh mẽ, là một trong những nước có nền kinh tế tăng trưởng cao. Đạt được tốc
độ tăng trưởng như vậy cần phải có những điều kiện cần và đủ thúc đẩy nền kinh
tế đất nước hàng năm luôn được phát triển tăng trưởng một cách vững chắc. Một
trong những điều kiện cần thiết ấy chúng ta cần phải kể đến đó là nguồn vốn. Có
thể nói nguồn vốn là nguồn lực chính cần thiết và cơ bản là điều kiện tiền đề để
đáp ứng sự phát triển đó, không ai khác các NHTM là các chủ thể chính quan
trọng nhất đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh trong toàn bộ nền kinh
tế quốc dân. Do tính đặc thù trong hoạt động kinh doanh của ngành ngân hàng là
đi vay rồi lại cho vay lợi nhuận thu được là phần chênh lệch giữa thu lãi cho vay
và thu từ các dịch vụ khác, hay nói cách khác, lợi nhuận thu được do sự chênh
lệch giữa lãi suất đầu ra và lãi suất đầu vào. Để NHTM hoạt động có hiệu quả
thiết thực thì chi phí đầu vào phải thấp hơn so với lãi suất đầu ra.
Hơn thế nữa, hoạt động của NHTM còn có vai trò quan trọng, là công cụ để
nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế thông qua cung ứng tiền tệ và các chính sách
khác.
Là một sinh viên chuyên ngành ngân hàng tài chính, nhận thức được tầm
quan trọng của hệ thống các NHTM nói chung và vai trò của nguồn vốn nói
riêng. Em xin mạnh dạn trình bày một số hiểu biết của em về nguồn vốn qua
chuyên đề “Nguồn vốn và giải pháp phát triển hoạt động huy động nguồn vốn
3
tại Ngân hàng nông nghiệp & phát triển nông thôn huyện Tuần Giáo - Tỉnh
Điện Biên”
Do phạm vi nghiên cứu chỉ bao gồm nguồn vốn và giải pháp phát triển hoạt
động huy động nguồn vốn của Ngân hàng nông nghiệp & phát triển nông thôn
huyện Tuần Giáo mà chủ yếu là hoạt động trên địa bàn đơn vị phụ trách nên em
không có nhiều tham vọng mà chỉ tập trung vào giải quyết các câu hỏi đặt ra đó
là : Thực trạng nguồn vốn và huy động nguồn vốn tại ngân hàng huyện nhà
hiện nay ra sao?, đã đáp ứng được nhu cầu vốn cho các hoạt động sản xuất
kinh doanh của huyện nhà hay chưa?, những thuận lợi và khó khăn trong
công tác phát triển nguồn vốn?, những giải pháp dự định trong tương lai ít
nhất là trong một vài năm tới để khắc phục những khó khăn và phát huy thế
mạnh trên địa bàn để làm tối đa lợi nhuận cho ngân hàng đồng thời thúc đẩy
nền kinh tế huyện nhà phát triển?
Phương pháp nghiên cứu là từ lý thuyết đã được học áp dụng vào thực tế,
bổ sung lẫn nhau, kết hợp các số liệu thực tế tại ngân hàng để phục vụ cho
chuyên đề.
Kết cấu của chuyên đề bao gồm:
Lời mở đầu
Chương I: Hoạt động huy động vốn của Ngân hàng thương mại trong nền
kinh tế thị trường
Chương II: Thực trạng hoạt động vốn tại Ngân hàng nông nghiệp & Phát
triển nông thôn huyện Tuần Giáo - tỉnh Điện Biên
Chương III: Giải pháp phát triển hoạt động huy động vốn tại Ngân hàng
nông nghiệp & Phát triển nông thôn huyện Tuần Giáo -tỉnh
Điện Biên
Kết luận
4
ch¬ng I
hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế
1.1 Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường:
1.1.1 Khái niệm:
Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng hoạt động vì mục tiêu lợi
nhuận thông qua các khoản vốn ngắn hạn là chủ yếu. Khái niệm về ngân hàng
thương mại đang dần thay đổi vì sự pha trộn các hoạt động truyền thống của
ngân hàng và các loaị hình trung gian tài chính khác.
1.1.2 Các loại hình ngân hàng thương mại:
Có thể phân chia ngân hàng theo các tiêu thức khác nhau tuỳ theo yêu cầu
của người quản lý.
(1) Các loại hình ngân hàng chia theo hình thức sở hữu:
+ Ngân hàng sở hữu tư nhân:
Là ngân hàng do cá nhân thành lập bằng vốn của cá nhân. Loại ngân hàng
này thường nhỏ, phạm vi hoạt động trong từng địa phương( các ngân hàng này
thường gắn liền với doanh nghiệp và cá nhân ở địa phương). Chủ ngân hàng
thường rất am hiểu tình hình của người vay, vì vậy hạn chế được sự lừa đảo của
khách. Tuy nhiên, do kém đa dạng, nên khi địa phương đó gặp rủi ro( ví dụ như
thiên tai, mất mùa...) ngân hàng thường không tránh khỏi được tổn thất.
+ Ngân hàng sở hữu của các cổ đông( ngân hàng cổ phần):
Ngân hàng này thường thành lập thông qua phát hành các cổ phiếu. Việc
nắm giữ cổ phiếu cho phép người sở hữu có quyền tham gia quyết định các hoạt
động của ngân hàng, tham gia chia cổ tức từ thu nhập của ngân hàng đồng thời
phải gánh chịu các tổn thất có thể xảy ra. Do vốn sở hữu được hình thành thông
qua tập trung, các ngân hàng cổ phần có khả năng tăng vốn nhanh chóng, vì vậy
thường là các ngân hàng lớn. Các tổ hợp ngân hàng lớn nhất hiện nay trên thế
giới là các ngân hàng cổ phần. Các ngân hàng cổ phần thường có phạm vi hoạt
động rộng, hoạt động đa năng, có nhiều chi nhánh hoặc công ty con. Khả năng
đa dạng hoá cao nên các ngân hàng cổ phần có thể giảm rủi ro gây nên bởi tính
chuyên môn hoá( thiên tai của một vùng, sự suy thoái của một ngành hoặc của
5
một quốc gia...), song chúng thường phải gánh chịu rủi ro từ cơ chế quản lý phân
quyền(nhiều chi nhánh được phân quyền lớn và hoạt động tương đối độc lập với
trụ sở ngân hàng mẹ giám đốc chi nhánh này có thể gây bất cẩn và rủi ro xảy ra..)
+ Ngân hàng sở hữu nhà nước:
Đây là loại hình ngân hàng mà vốn sở hữu do nhà nước cấp, có thể là nhà
nước trung ương hoặc tỉnh, thành phố. Các ngân hàng này được thành lập nhằm
thực hiện một số mục tiêu nhất định thường là do chính sách của chính quyền
trung ương hoặc địa phương quy định.
+ Ngân hàng liên doanh:
Ngân hàng này được hình thành dựa trên góp vốn của hai hoặc nhiều bên,
thường là giữa ngân hàng trong nước với ngân hàng nước ngoài để tận dụng ưu
thế của nhau.
(2) Các loại hình ngân hàng thương mại chia theo tính chất hoạt động:
+ Tính chất đơn năng:
Ngân hoạt động theo hướng đơn năng: Loại ngân hàng này chỉ tập trung
cung cấp một số dịch vụ ngân hàng, ví dụ như chỉ cho vay đối với xây dựng cơ
bản, hoặc đối với nông nghiệp; hoặc chỉ cho vay ( không bảo lãnh hoặc cho
thuê)... Tính chuyên môn hoá cao cho phép ngân hàng có được đội ngũ giàu kinh
nghiệm, tinh thông nghiệp vụ. Tuy nhiên loại ngân hàng này thường gặp rủi ro
lớn khi ngành hoặc lĩnh vực mà ngân hàng phục vụ sa sút. Ngân hàng đơn năng
có thể là ngân hàng nhỏ, phạm vi hoạt động hẹp, trình độ cán bộ hạn hẹp..
+ Tính chất đa năng:
Là ngân hàng cung cấp mọi dịch vụ ngân hàng cho mọi đối tượng. Đây là
xu hướng hoạt động chủ yếu hiện nay của các ngân hàng thương mại. Ngân hàng
đa năng thường là các ngân hàng lớn. Tính đa năng giúp các ngân hàng tăng thu
nhập và hạn chế rủi ro.
(3) Các loại hình ngân hàng thương mại chia theo cơ cấu tổ chức:
+ Ngân hàng sở hữu công ty và ngân hàng không sở hữu công ty:
Ngân hàng sở hữu công ty là ngân hàng nắm giữ phần lớn vốn của công ty,
cho phép ngân hàng được quyền tham gia quyết định các hoạt động cơ bản của
công ty. Do luật nhiều nước cấm hoặc hạn chế các ngân hàng thương mại tham
gia trực tiếp vào một số loại hình kinh doanh như chứng khoán bất động sản...nên
6
các ngân hàng lớn đã thành lập, hoặc mua lại một số công ty chứng khoán, quỹ
đầu tư... nhằm mở rộng hoạt động. Các ngân hàng không sở hữu công ty có thể
do vốn nhỏ, hoặc quy định của luật không cho phép, hoặc không bị cấm trong
việc đưa ra các dịch vụ tài chính.
+ Ngân hàng đơn nhất và ngân hàng có chi nhánh:
Ngân hàng đơn nhất được hiểu là ngân hàng không có chi nhánh tức là các
dịch vụ ngân hàng chỉ do một hội sở ngân hàng cung cấp. Ngân hàng có chi
nhánh thường là ngân hàng có vốn tương đối lớn, cung cấp dịch vụ ngân hàng
thông qua nhiều đơn vị ngân hàng. Việc thành lập chi nhánh thường bị kiểm soát
chặt chẽ bởi ngân hàng nhà nước thông qua định mức về vốn chủ sở hữu, về
chuyên môn của đội ngũ cán bộ, về sự cần thiết của đội ngũ cán bộ...
1.1.3 Chức năng của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường:
(1) Trung gian tài chính:
Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là
chuyển tiền tiết kiệm đầu tư, đòi hỏi sự tiếp xúc với hai loại cá nhân và tổ chức
trong nền kinh tế:
+ Các cá nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu, tức là chi tiêu cho tiêu dùng
và đầu tư vượt quá thu nhập và vì thế họ là những người cần bổ sung vốn
+ Các cá nhân và tổ chức thặng dư trong chi tiêu, tức là thu nhập hiện tại của họ
lớn hơn các khoản chi tiêu cho hàng hoá, dịch vụ và do vậy họ có tiền tiết kiệm.
Sự tồn tại hai loại cá nhân và tổ chức trên hoàn toàn độc lập với ngân hàng.
Điều tất yếu là tiền sẽ chuyển từ nhóm thứ hai sang nhóm thứ nhất nếu cả hai
cùng có lợi. Như vậy thu nhập gia tăng là động lực tạo ra mối quan hệ tài chính
giữa hai nhóm. Nếu dòng tiền di chuyển với điều kiện phải quay trở lại với một
lượng lớn hơn trong một khoảng thời gian nhất định thì đó là quan hệ tín dụng.
Nếu không thì đó là quan hệ cấp phát hoặc là quan hệ hùn vốn. Quan hệ tín dụng
trực tiếp đã có từ rất lâu và tồn tại cho đến ngày nay.
Tuy nhiên, quan hệ trực tiếp bị nhiều giới hạn do sự không phù hợp về quy
mô, thời gian, không gian... Điều này cản trở quan hệ trực tiếp phát triển và là
điều kiện nảy sinh trung gian tài chính. Do chuyên môn hoá, trung gian tài chính
có thể làm giảm chi phí giao dịch.
7
Hầu hết các lý thuyết hiện đại đều giải thích sự tồn tại của ngân hàng bằng
cách chỉ ra sự không hoàn hảo trong hệ thống tài chính. Chẳng hạn các khoản tín
dụng và chứng khoán không thể chia thành những khoản nhỏ mà mọi người đều
có thể mua. Ngân hàng cung cấp một dịch vụ có giá trị trong việc mua chứng
khoán đó thành chứng khoán có giá trị nhỏ hơn(dưới dạng tiền gửi) phục vụ cho
hàng triệu người. Trong ví dụ này, hệ thống tài chính kém hoàn hảo tạo ra vai trò
cho các ngân hàng trong việc phục vụ những người tiết kiệm.
Một đóng góp khác của ngân hàng là họ sẵn sàng chấp nhận các khoản cho
vay nhiều rủi ro trong khi lại phát hành các chứng khoán ít rủi ro cho người gửi
tiền. Thực tế các ngân hàng tham gia vào kinh doanh rủi ro. Ngân hàng cũng thoả
mãn nhu cầu thanh khoản của nhiều khách hàng.
Một lý do nữa làm cho ngân hàng phát triển và thịnh vượng là khả năng
thẩm định thông tin. Sự phân bổ không đều thông tin và năng lực phân tích thông
tin được gọi là “tình trạng thông tin không cân xứng” làm giảm tính hiệu quả của
thị trường nhưng tạo ra một khả năng sinh lợi cho ngân hàng, nơi có chuyên môn
và kinh nghiệm đánh giá các công cụ tài chính và có khả năng lựa chọn các công
cụ với các yếu tổ rủi ro- lợi nhuận thấp nhất.
(2) Tạo phương tiện thanh toán:
Tiền có một chức năng quan trọng là làm phương tiện thanh toán. Các ngân
hàng đã không tạo được tiền kim loại. Các ngân hàng thợ vàng tạo phương tiện
thanh toán khi phát hành giấy nhận nợ với khách hàng. Giấy nhận nợ do ngân
hàng phát hành với ưu điểm nhất định đã trở thành phương tiện thanh toán rộng
rãi được nhiều người chấp nhận. Như vậy, ban đầu các ngân hàng đã tạo ra
phương tiện thanh toán thay cho tiền kim loại dựa trên số lượng tiền kim loại
đang nắm giữ. Với nhiều ưu thế, dần dần giấy nợ của ngân hàng đã thay thế tiền
kim loại làm phương tiện lưu thông và phương tiện cất trữ; nó trở thành tiền giấy.
Việc in tiền mang lại lợi nhuận rất lớn, đồng thời với nhu cầu có đồng tiền
quốc gia duy nhất dẫn đến việc nhà nước tập trung quyền lực phát hành(in) vào
một tổ chức hoặc là Bộ tài chinh hoặc là Ngân hàng trung ương. Từ đó chấm dứt
việc các ngân hàng thương mại tạo ra các giấy bạc cho riêng mình.
Trong điều kiện phát triển thanh toán qua ngân hàng, các khách hàng nhận
thấy nếu họ có được số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán, họ có thể chi trả để
8
có được hàng hoá dịch vụ theo yêu cầu. Theo quan điểm hiện đại, đại lượng tiền
tệ bao gồm nhiều bộ phận. Bộ phận thứ nhất là tiền giấy trong lưu thông(Mo),
thứ hai là số dư trên tài khoản tiền gửi của khách hàng tại các ngân hàng, thứ ba
là tiền gửi trên các tài khoản tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi có kỳ hạn... Khi ngân
hàng cho vay, số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tăng lên,
khách hàng có thể dùng để mua hàng và dịch vụ. Do đó, bằng việc cho vay(hay
tạo tín dụng), các ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán(tham gia tạo ra
M1).
Toàn bộ hệ thống ngân hàng cũng tạo phương tiện thanh toán khi các khoản
tiền gửi được mở rộng từ ngân hàng này đến ngân hàng khác trên cơ sở cho vay.
Khi khách hàng tại một ngân hàng sử dụng khoản tiền vay để chi trả thì sẽ tạo
nên khoản thu(tức làm tăng số dư tiền gưỉ) của một khách hàng khác tại một
ngân hàng từ đó tạo ra khoản vay mới. Trong khi không một ngân hàng riêng lẻ
nào có thể vay lớn hơn dự trữ dư thừa, toàn bộ hệ thống ngân hàng có thể tạo
khối lượng tiền gửi( tạo phương tiện thanh toán) gấp bội thông qua hoạt động cho
vay(tạo tín dụng).
(3) Trung gian tín dụng:
Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết các
quốc gia. Thay mặt khách hàng, ngân hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng hoá
và dịch vụ. Để việc thanh toán nhanh chóng, thuận tiện và tiết kiệm chi phí, ngân
hàng đưa ra cho khách hàng nhiều hình thức thanh toán như thanh toán bằng Séc,
uỷ nhiệm chi, nhờ thu,...cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ
và cung cấp tiền giấy khi khách hàng cần. Các ngân hàng còn thực hiện thanh
toán bù trừ với nhau thông qua ngân hàng trung ương hoặc thông qua các trung
tâm thanh toán. Công nghệ thanh toán qua ngân hàng càng đạt hiệu quả cao khi
quy mô sử dụng công nghệ đó càng được mở rộng. Vì vậy, công nghệ thanh toán
qua ngân hàng thường được các nhà quản lý tìm cách áp dụng rộng rãi. Nhiều
hình thức thanh toán được chuẩn hoá góp phần tạo tính thống nhất trong thanh
toán không chỉ giữa các ngân hàng trong một quốc gia mà còn giữa các ngân
hàng ở các quốc gia khác nhau với nhau.
1.1.4 Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại:
a. Hoạt động huy động vốn:
9
(1) Nhận tiền gửi:
Cho vay được coi là hoạt động sinh lời cao , do đó các ngân hàng đã tìm
mọi cách để huy động được tiền .một trong nhưng nguồn quan trọng là các khoản
tiền gửi thanh toán và tiết kiệm của khách hàng .Ngâng hàng mở dịch vụ nhận
tiền gửi để bảo quản hộ người có tiền với cam kết hoàn trả đúng hạn.Trong cuộc
cạnh tranh để tìm và giành được các khoản tiền gửi như là phần thưởng cho
khách hàng về việc sẵn sàng hi sinh nhu cầu tiêu dùng trước mắt và cho phép
nhân hàng sử dụng tạm thời để kinh doanh .Trong lịch sử đã có những kỷ lục về
lãi xuất, chẳng hạn các ngân hàng Hy Lạp đã trả lãi xuất 16% một năm để thu hút
các khoản tiết kiệm nhằm mục đích cho vay đối với các chủ tàu ở Địa Trung hải
với lãi xuất gấp đôi hay gấp ba lãi xuất tiết kiệm. Như vậy , khi cung cấp dịch vụ
nhận tiền gửi ngân hàng thu “phí” gián tiếp thông qua thu nhập của hoạt động sử
dụng tiền gửi đó.
Hiện nay, hoạt động nhận tiền gửi với các hình thức nhận tiền gửi thanh
toán và tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, có kỳ hạn đang được áp dụng phổ biến
rộng rãi.
(2) Phát hành các giấy tờ có giá:
Ngân hàng thương mại phát hành các giấy tờ có giá như Kỳ phiếu, Trái
phiếu,…nhằm huy động vốn chủ yếu đáp ứng cho tài trợ các khoản cho vay trung
và dài hạn. Đây là hoạt động mang lại nguồn vốn tương đối lớn cho các ngân
hàng thương mại lớn có uy tín. Các ngân hàng nhỏ thì hình thức huy động vốn
này thường không hiệu quả và thường sử dụng hình thức này thông qua các ngân
hàng đại lý.
(3) Hoạt động đi vay của Ngân hàng thương mại:
Để huy động vốn, Ngân hàng thương mại có thể đi vay Ngân hàng nhà
nước, các tổ chức tín dụng khác, các ngân hàng nước ngoài…
Ngân hàng thương mại chỉ đi vay Ngân hàng nhà nước khi có chính sách
tăng cung ứng tiền tệ hoặc trong những trường hợp đặc biệt bị thiếu vốn trong
thanh toán.
Còn vay các tổ chức tín dụng khác mà chủ yếu là các ngân hàng thương mại
khác trên thị trường liên ngân hàng phần lớn chỉ đảm bảo yêu cầu dự trữ bắt buộc
và thường là vay qua đêm.
10
b. Hoạt động sử dụng vốn:
Đây là hoạt động chủ yếu thứ hai sau hoạt động huy động vốn của ngân
hàng thương mại.
- Mua bán ngoại tệ:
Một trong những dịch vụ ngân hàng đầu tiên thực hiện đó là mua bán ngoại
tệ: Mua, bán một loại tiền này lấy một loại tiền khác và hưởng phí dịch vụ.
- Hoạt động cho vay:
+ Cho vay thương mại
Ngay ở thời kỳ đầu, các ngân hàng đã chiết khấu thương phiếu mà thực tế là
cho vay đối với những người bán(người bán chuyển các khoản phải thu cho ngân
hàng để lấy tiền trước ). Sau đó ngân hàng cho vay trực tiếp đối với các khách
hàng (là người mua), giúp họ có vốn để mở hàng dự trữ nhằm mở rộng sản xuất
kinh doanh.
+ Cho vay tiêu dùng
Trong giai đoạn đầu hầu hết các ngân hàng không tích cực cho vay đối với
cá nhân và hộ gia đình bởi vì họ tin rằng các khoản cho vay tiêu dùng rủi ro vỡ
nợ tương đối cao. Sự gia tăng thu nhập của người tiêu dùng và sự cạnh tranh
trong cho vay đã hướng các ngân hàng tới người tiêu dùng như là một khách
hàng tiềm năng. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, tín dụng tiêu dùng đã trở thành
một trong những loại hình tín dụng tăng trưởng nhanh nhất ở các nước có nền
kinh tế phát triển.
+ Tài trợ cho dự án
Bên cạnh cho vay truyền thống là cho vay ngắn hạn, các ngân hàng ngày
càng trở nên năng động trong việc tài trợ trung, dài hạn:Tài trợ xây dựng nhà
máy, phát triển ngành công nghệ cao. Một số ngân hàng còn cho vay để đầu tư
vào đất.
- Hoạt động chiết khấu(tái chiết khấu khi khách hàng mang đến giấy tờ có giá
đã chiết khấu trước đây) giấy tờ có giá:
Ngân hàng thương mại chiết khấu giấy tờ có giá(tái chiết khấu) khi khách
hàng mang đến giấy tờ có giá như trái phiếu, …ngân hàng thu lợi nhuận thông
qua lãi suất chiết khấu và tái chiết khấu.
- Hoạt động đầu tư chứng khoán:
11
Ngân hàng thương mại đầu tư chứng khoán của Chính phủ, của các ngân
hàng khác, của các Công ty, Doanh nghiệp… làm ăn hiệu quả, có uy tín chờ đến
ngày đáo hạn hưởng lãi.
Tuy nhiên hoạt động này tuỳ vào loại chứng khoán, loại chứng khoá