Ngay từ những ngày đầu xâm lược Việt Nam, báo chí đã được thực dân Pháp
sử dụng như một công cụ phục vụ quá trình xâm lược của Pháp. Lịch sử cũng như
nội dung các báo thời kì này phản ánh rõ quá trình xâm lược của thực dân Pháp
cũng như vai trò phục vụ công cuộc xâm lược của báo chí. Ví dụ ngay trong quá
trình xâm lược Nam Kỳ, Pháp đã ra tờ Nam kì viễn chinh công báo năm 1861. Đến
năm 1865 sau khi ba tỉnh còn lại của Nam Kỳ bị thôn tính thì tên báo được đổi
là Nam Kỳ thuộc Pháp công báo và đến năm 1889, khi nền thống trị của Pháp được
xác lập trên toàn cõi Việt Nam thì báo lại được đổi tên Đông Dương thuộc Pháp
công báo.
17 trang |
Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 1444 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Báo chí Việt Nam thời thuộc địa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Báo chí Việt Nam thời thuộc địa
Những tờ báo đầu tiên
Ngay từ những ngày đầu xâm lược Việt Nam, báo chí đã được thực dân Pháp
sử dụng như một công cụ phục vụ quá trình xâm lược của Pháp. Lịch sử cũng như
nội dung các báo thời kì này phản ánh rõ quá trình xâm lược của thực dân Pháp
cũng như vai trò phục vụ công cuộc xâm lược của báo chí. Ví dụ ngay trong quá
trình xâm lược Nam Kỳ, Pháp đã ra tờ Nam kì viễn chinh công báo năm 1861. Đến
năm 1865 sau khi ba tỉnh còn lại của Nam Kỳ bị thôn tính thì tên báo được đổi
là Nam Kỳ thuộc Pháp công báo và đến năm 1889, khi nền thống trị của Pháp được
xác lập trên toàn cõi Việt Nam thì báo lại được đổi tên Đông Dương thuộc Pháp
công báo...
Các tờ công báo này đăng tải các nghị định, công văn, đạo luật, các chỉ thị
của bộ máy thực dân, các bài diễn văn của thống đốc Nam Kỳ lưu hành chủ yếu
trong đám sĩ quan và viên chức thực dân, vì vậy tất cả đều là báo bằng tiếng Pháp.
Bên cạnh những tờ công báo bằng tiếng Pháp naỳ, Pháp còn cho ra tờ báo chữ
Hán Xã thôn công báo để phổ biến những quyết định, những mệnh lệnh của đội
quân xâm lược tới đám chức sắc bản xứ cộng tác với Pháp. Ngoài ra, Pháp còn cho
xuất bản những tờ báo phục vụ công cuộc khai thác kinh tế như tờ Tập san của Uỷ
ban canh nông Nam Kỳ) năm 1865, Công báo của Uỷ ban nghiên cứu nông, công,
thương Trung Kỳ và Bắc Kỳ năm 1889
Theo bài báo “Thử tìm long mạch của tờ báo ta” do tác giả Quán Chi khảo
cứu đăng trên Trung Bắc chủ nhật từ số 101(3.3.1942) đến số 104 (29.3.1942) thì
chữ quốc ngữ đã được dùng khá phổ biến ở Nam Kỳ từ trước khi tờ báo Tiếng Việt
đầu tiên ra đời là tờ Gia Định báo xuất bản ngày 15/4/1865. Gia định công báo lúc
đầu chỉ là một tờ tuần báo chủ yếu đăng những thông tư, chính luận của chính
quyền thực dân, một số bài thơ, vài câu chuyện hài đàm, chuyện cổ tích... chưa
phải là một tờ báo có tính chất thông tin và truyền bá tư tưởng. Sau Gia định
báo, tờ báo tiếng Việt thứ hai là tờ Phan Yên báo xuất bản năm 1868 và Nam Kỳ
địa phận xuất bản năm 1883 cũng có nội dung tương tự.
Về thực chất các tờ báo này cũng chỉ là công cụ của Pháp trong quá trình xâm
lược. Nội dung của các tờ báo chỉ đơn giản là dịch đăng những tờ công báo tiếng
Pháp sang tiếng Việt cho người Việt đọc như các công văn, giấy tờ, các văn kiện
của chính quyền thực dân hoặc những tờ thông báo, cáo thị, tình hình giá cả, thuế
khoá của sở thuế, phòng thương chánh, toà thị chánh... Shawn.F.Mc. Hale trong
công trình nghiên cứu “Ấn phẩm và quyền lực”của mình đã nhận xét : “Chính
quyền thuộc địa Pháp cần rất nhiều tài liệu in ấn (mẫu đơn từ, hoá đơn, baó cáo...)
để hoạt động một cách trôi chảy (có người đã cho rằng chính phủ thực dân cần
giấy nhiều như vũ khí để giữ người dân dưới sự kiểm soát của họ)”[1].
Những người Việt tham gia viết báo thời kỳ này hầu hết là những viên chức
của chính quyền thực dân thông thạo chữ Hán, chữ Pháp, chữ quốc nhữ như
Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Tôn Thọ Tường, Lương Khắc Ninh...
Cùng với báo chí, thực dân Pháp đã sớm ban hành những đạo luật, sắc lệnh về
báo chí cho Đông Dương. Sắc lệnh ngày 30/12/1898 đã đình chỉ việc thi hành luật
tự do báo chí ngày 29/7/1881 của chính phủ Pháp ở Đông Dương. Theo sắc lệnh
này việc thành lập một tờ báo hay xuất bản phẩm định kì bằng bất cứ thứ tiếng nào
đều có thể bị đình chỉ bởi nghị định của quan Toàn quyền và không một tờ báo
tiếng Việt nào có thể xuất bản nếu không được phép của quan Toàn quyền. Giấy
phép xuất bản chỉ được cấp với điều kiện là văn bản các bài đem đăng báo phải
được quan Toàn quyền Đông Dương duyệt y. Giấy phép này có thể bị thu hồi bất
cứ lúc nào. Việc cấp giấy phép cũng rất hạn chế. Ví dụ ở Nam Kì từ năm 1927 đến
năm 1933 có hơn 77 đơn xin ra báo nhưng chỉ có 13 tờ báo được xuất bản [2] các
tờ báo đều phải nộp tiền kí quỹ. Các bài báo đều bị sở báo chí của chính quyền địa
phương kiểm duyệt trước. ( Các bài báo được Sở mật thám Pháp dịch sang tiếng
Pháp rồi đưa sang sở báo chí kiểm duyệt). “Khi báo lên khuôn, thanh tra nhà in đến
nhà in đọc từng dòng những bài bình luận, phần tin tức quốc tế và các bài tường
thuật những cuộc du hành quan phương”[2]. Cho đến năm 1914, ở Đông Dương có
tới 16 sắc lệnh của Tổng Thống Pháp và 20 nghị định của Toàn quyền và Thống sứ
có liên quan tới báo chí đã được ban hành. Như vậy thực tế là đã không có tự do
báo chí mà chỉ có lưỡi kéo của chế độ kiểm duyệt.
Tình trạng này được duy trì và khẳng định lại một lần nữa bằng luật báo chí
ngày 4/10/1927 và kéo dài cho đến năm 1938 mới được bãi bỏ nhờ phong trào bình
dân những năm 1936-1939.
Báo chí tiếng Việt những năm đầu thế kỷ XX
Sang đầu thế kỉ XX, quá trình đô thị hoá cũng như sự phát triển của tầng lớp
thị dân, lối sống thị dân, những hoạt động công thương nghiệp...đã tạo điều kiện
cho báo chí phát triển phong phú hơn. Báo chí thời kì này không còn là của riêng
chính quyền thực dân nữa mà đã xuất hiện những tờ báo tư nhân. Về nội dung, các
báo cũng không đơn thuần là những tờ công báo nữa mà phản ánh quyền lợi của
giới kinh doanh công thương nghiệp cũng như phản ánh những chuyển biến trong
tình hình kinh tế, chính trị, xã hội và văn hoá của Việt Nam lúc bấy giờ. Đáng chú
ý là một số tờ như Nông cổ mín đàm, Đại Nam Đăng cổ tùng báo, Đại Việt tân
báo đã bàn nhiều về vấn đề văn hoá xã hội như tuyên truyền cho xu hướng canh
tân hoặc đả phá chế độ khoa cử lỗi thời, những hủ tục...Tờ Đại Việt tân báo do E.
Babut sáng lập và Đào Nguyên Phổ làm chủ bút. Theo Quán Chi thì Đào Nguyên
Phổ là người có công đầu trong việc dịch đăng các tư tưởng mới và các sách Tân
thư phổ biến trên báo. Có một hiện tượng đáng chú ý là ngay từ rất sớm vấn đề phụ
nữ đã được đưa lên mặt báo, vừa là bàn về vấn đề của phụ nữ nhưng cũng từ vấn
đề của phụ nữ và mượn lời phụ nữ để bàn về những vấn đề chung của xã hội.
Đại Nam Đăng cổ tùng báo chỉ tồn tại khoảng 10 tháng trong năm 1907. Sau
khi Đại nam Đăng cổ tùng báo đóng cửa trong suốt 6 năm từ 1907 tới 1913 ở Việt
Nam chỉ còn lại hai tờ báo tiếng Việt xuất bản ở Nam Kì là tờ Nông cổ mín
đàm và Lục tỉnh tân văn.
Năm 1913, Đông Dương tạp chí được xuất bản ra số đầu tiên ngày 15/5 tại Hà
Nội. Người sáng lập và chủ nhiệm báo là Schneinder, người đã từng ở Việt Nam từ
năm 1882 và đã xuất bản tờ Lục tỉnh tân văn và Đại nam đồng văn nhật báo . Vì
vậy lúc đầu Đông Dương tạp chí được coi là một chi nhánh của Lục tỉnh tân văn ở
Bắc và Trung Kỳ. Chủ bút báo là Nguyễn Văn Vĩnh với sự cộng tác của các tác giả
Phạm Duy Tốn, Phan Kế Bính, Nguyễn Đỗ Mục, Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Tố,
Trần Trọng Kim, Nguyễn Khắc Hiếu...
Trong 2 năm đầu 1913-1914 Đông Dương tạp chí (ĐDTC) mang tính chất một
tờ báo ngôn luận thông thường tổng hợp, đăng tải các bài về tin tức thời sự chính
trị xã hội lẫn văn chương học thuật. Tháng 1-1915 báo Trung bắc tân văn
(TBTV) xuất bản ở Hà Nội, chủ nhiệm báo vẫn là Schneider và Nguyễn Văn Vĩnh
là chủ bút với các cộng tác viên như của ĐDTC. Và để phục vụ chính sách động
viên cho chiến tranh của Pháp, TBTV sẽ chuyên “nghị luận về những việc thời vụ”
còn ĐDTCí sẽ chuyển thành một tờ báo có tính chất văn học chuyên giới thiệu và
dịch các tác phẩm văn học nước ngoài và các bài về khoa sư phạm. Cũng
như ĐDTC, TBTV lúc đầu là một tờ tuần báo, đến năm 1916 thì 3 ngaỳ ra một số
và đến năm 1919 khi Nguyễn Văn Vĩnh mua lại tờ báo và nhà in từ Schneider thì
báo ra hàng ngày.
Từ sau chiến tranh thế giới I đến I930
Cũng từ sau chiến tranh thế giới I báo chí phát triển mạnh hơn do Pháp không
giữ độc quyền báo chí như trước nữa. Nhiều người Việt Nam được phép xuất bản
báo chí và đương nhiên là phải tuân theo pháp luật của chính quyền thực dân và
phải chịu sự kiểm soát của chúng. Đặc biệt từ sau chiến tranh thế giới I tới những
năm đầu thập niên 30, báo tiếng Việt phát triển nhanh chóng cả về số lượng và nội
dung. Năm 1922, cả nước chỉ mới có 19 tờ báo tiếng Việt thì đến năm 1925 đã có
25 tờ, năm 1927 có 36 tờ và năm 1929 lên tới 47 tờ. Các tờ báo tiêu biểu thời kì
này là: Đông Dương tạp chí (1913-1918),Trung Bắc tân văn (1915-1945), Nam
Phong (1917-1935), Nữ giới chung (1918), Thực nghiệp dân báo(1920-1933),
Khai hoá nhật báo (1921-1927), Hữu thanh tạp chí (1921-1924), Đông Pháp thời
báo(1923- 1928), An nam tạp chí (1926-1930), Thần chung (1929-1930), Trung
lập báo (1924-1933), Tân dân báo (1924-1925) Pháp Việt nhất gia (1927), Tiếng
dân (1927-1943), Hà thành ngọ báo (1927-1929), Báo Đông -Tây (1929-1932),
Phụ nữ tân văn (1929-1935), Kì lân báo (1928-1929), Văn minh(1926-1931)...
Từ năm I930 đến I945
Sang những năm 1930, báo chí Tiếng Việt có sự phát triển mạnh mẽ. Bên
cạnh khoảng 30 tờ báo và tạp chí có từ trước vẫn đang tiếp tục lưu hành thì có
khoảng 180 tờ báo và tạp chí mới ra đời. So với trước đây số lượng các tờ báo xuất
bản trong thời kì này tăng lên gấp đôi, đặc biệt bên cạnh báo chí hợp pháp phát
hành công khai còn xuất hiện dòng báo bí mật của Đảng Cộng sản Việt Nam và
dòng báo lưu hành trong các nhà tù của thực dân.
Báo chí thời kì này phản ánh khá rõ nét tình hình kinh tế xã hội và chính trị tư
tưởng đương thời. Đó là bên cạnh trào lưu Âu hoá và lối sống tư sản trong các đô
thị là tin tức về các hoạt động cách mạng của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng
cộng sản, các cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng như cuộc thảo luậncủa Hải
Triều và Thiếu Sơn về “Nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật vị nhân sinh” [
Đời Mới-24/3-27/3/I933] , cuộc thảo luận của Hải Triều và Phan Khôi về “Duy
vật và Duy tâm” [ Phụ nữ thời đàm- 8 và 29/I0/ I933]; cuộc thảo luận của Phan
Khôi và Nguyễn Thị Chính về “Vấn đề giải phóng phụ nữ với nhân sinh quan” [
Phụ nữ tân văn- 7 và I4/7 và 4/8/I932], cuộc tranh luận về “Phổ thông đầu phiếu”
trên báo Công luận năm 1932 và các bài về quyền bầu cử của phụ nữ...
Thắng lợi của Mặt trận dân chủ Đông Dương trong cuộc đấu tranh đòi tự
do báo chí, Pháp đã phải thừa nhận hiệu lực của Luật tự do báo chí ban hành năm
1881 được áp dụng ở Đông Dương. Đó là bộ luật quy định báo chí phát hành chỉ
cần báo trước 24 giờ. Chính thắng lợi này đã làm báo chí giai đoạn 1936-1939 phát
triển mạnh mẽ, nhiều tờ báo cách mạng được phát hành công khai. Theo Daniel
Hemery, Sở An ninh Đông Dương ước tính vào tháng 11/1938, chỉ riêng Nam Kỳ
có tới 18 tờ báo cộng sản, trốtkit, hoặc thân cộng. Số in của báo tiếng Pháp giảm
chỉ còn 30.580 bản trong khi số in của báo tiếng Việt là 153.000 bản. Tính đến
ngày 1/1/1939 trên toàn cõi Đông Dương số báo tiếng Việt và song ngữ Pháp Việt
tờ trong khi số báo tiếng Pháp chỉ còn 69 tờ.[3]
Thời kì từ năm 1939, do điều kiện chiến tranh, kinh tế suy thoái, mực và giấy
là hai nguồn vật liệu phục vụ cho ngành in ấn trở nên khan hiếm và đắt đỏ đã ảnh
hưởng trực tiếp đến ngành xuất bản, trong đó có báo chí. Nhiều tờ báo phải đóng
cửa hoặc giảm trang, in trên giấy xấu. Mặc dù vậy, do nhu cầu tìm hiểu tình hình
trong nước và quốc tế tăng, độc giả ngày càng nhiều, tình hình phát hành báo chí
vẫn được duy trì với một số lượng khá lớn. Tất cả báo chí cách mạng phải phát
hành bí mật song cũng không vì thế mà báo chí cách mạng không phát triển. Tiêu
biểu cho báo chí cách mạng thời kì này là các tờ Tạp chí Cộng sản, Cờ giải ghóng,
Cứu quốc, Việt Nam độc lập, Kèn gọi lính, Mê Linh, Phá ngục, Kháng địch, Cởi
ách, Chiến đấu, Tiên phong, Dân tộc, Tiếng súng khởi nghĩa
Dòng báo chí công khai cũng bị phân hoá thành nhiều khuynh hướng: báo chí
thân thực dân như các tờ: Đông Pháp (ĐP), Tin mới, Đàn bà (ĐB), Tân Việt Nam,
Nỗ lực. Báo chí cấp tiến như các tờ Ngày nay, Thanh nghị, Tri tân... Ngoài ra còn
có một số tờ báo của nhóm Trốtkít như tờ Văn mới, Tân thời...,các loại báo văn
học, tôn giáo và các loại báo chuyên biệt khác như báo thể thao, báo kinh tế, báo
trẻ em... Một đặc điểm đáng chú ý là hầu hết các báo xuất bản thời kì này đều có
dành riêng một mục cho phụ nữ hoặc có các trang phụ nữ như Công luận, Đông
Pháp, Tân thời tuần báo (TT), Dân hiệp (DH), Nam Kỳ tuần báo (NKTB)... Đặc
biệt thời kì này còn hình thành cả một dòng báo phụ nữ.
Năm 1940, phát xít Đức tấn công nước Pháp, chính phủ Pháp do Reynaud cầm
đầu nhanh chóng sụp đổ. Chính phủ mới do Thống chế Philippe Petain thành lập
tuyên bố đầu hàng phát xít Đức. Một nhóm khác do tướng Charles de Gaulle lãnh
đạo chạy sang Anh và thành lập Uỷ ban giải phóng dân tộc Pháp. Chính phủ bình
dân của Pháp không còn tồn tại, Đảng Cộng sản bị giải tán, phải đi vào hoạt động
bí mật. Việc nước Pháp bị Đức xâm chiếm ảnh hưởng mạnh mẽ đến những diễn
biến chính trị tại Đông Dương.
ở Đông Dương, từ tháng 7/1939 chức vụ Toàn quyền Đông Dương cũng thay
đổi từ một quan toàn quyền dân sự là Brevie chuyển sang cho một quan toàn quyền
quân sự, tướng Catroux và sau đó là Đô đốc Jean Decoux. Pháp đã chuẩn bị cho
tình trạng chiến tranh ở các nước thuộc địa. Hành động đầu tiên của chính quyền
thuộc địa là ra sức đàn áp Đảng Cộng sản. Sắc lệnh ngày 28/9/1939 cấm ngặt tất cả
hành vi tuyên truyền về Quốc tế III và các tổ chức có liên quan. Đảng Cộng sản,
các đoàn thể và các nhóm liên quan đều bị giải tán. Thực dân Pháp đã quy định
kiểm duyệt toàn bộ báo chí nước ngoài trong các khu vực thuộc địa của Pháp.
Trong vòng 4 tháng cuối năm 1939, Pháp đã ký tới 10 Sắc lệnh và Nghị định về
báo chí và liên quan đến báo chí. Giấy và mực in cũng được chính quyền quản lý
chặt chẽ thông qua phòng kiểm duyệt Liên đoàn giấy. Năm 1943, Toàn quyền
Đông Dương ra một nghị định mới về việc phát hành báo chí. Nghị định này quy
định: khuôn khổ báo sẽ bị hạn chế để tiết kiệm giấy. Nếu báo xuất bản hàng ngày
thì phải nghỉ ngày chủ nhật. Nếu phát hành ngày chủ nhật thì không được phát
hành các ngày khác trong tuần, không được in báo trên giấy khổ 23 x 2000 cm2,
nên dùng khổ báo không cần phải cắt giấy để tiết kiệm... [HP-1/5/1945]
Ngay từ trước khi có sắc lệnh trên, một loạt tờ báo đã bị khám xét, bắt bớ và
đóng cửa. Tờ Ngày mới bị đóng cửa ngày 26.8.1939, Dân chúng ngày
30/8/1939, Người mới ngày 5/9/1939, Thế giới ngày 13/9/1939, Đời nay ngày
29/9/1939. Trước tình hình đó Đảng Cộng sản Đông Dương đã kịp thời chuyển
hướng chỉ đạo cách mạng, thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông
Dương, ra chỉ thị cho những người làm báo và các tờ báo Đảng rút vào bí mật.
Ngày 23/9/1940, Nhật vào Đông Dương đặt thêm một ách thống trị mới lên
xã hội Việt Nam và từng bước ép Pháp phải nhường cho Nhật một số quyền lợi về
kinh tế chính trị, quân sự. Đồng thời Nhật cũng ráo riết tuyên truyền chính sách
Đại Đông á, văn hoá Nhật... nhằm gây ảnh hưởng trong dân chúng. Nhật cũng
thành lập văn phòng kiểm duyệt báo chí, ra thông báo về việc kiểm duyệt toàn bộ
báo chí, xuất bản phẩm và các phương tiện tuyên truyền kể cả áp phích quảng cáo
và các kịch bản... Dựa vào Nhật, một số đảng phái mới ra đời như Đại Việt dân
chính, Đại Việt quốc xã, Phục quốc... và đều ra báo để gây ảnh hưởng. Tháng
5/1941 quyết nghị thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi lấy tên là Việt
Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh)
Phong trào Việt Minh phát triển, ở các vùng căn cứ địa cách mạng, báo chí
cách mạng cũng được xuất bản góp phần tuyên truyền và vận động nhân dân như
tờ: Việt Nam độc lập, Cứu quốc, Cờ giải phóng... ở các địa phương cũng có báo
cách mạng để vận động tuyên truyền nhân dân. Như báo Đuổi giặc nước của cơ
quan tuyên truyền cổ động của Việt Minh Thanh Hoá, báo Hiệp lực, cơ quan cổ
động của Việt Minh tỉnh Bắc Ninh ...
[1]McHale.Shawn Frederick (1995), Printing, power, and the transformation of
Vietnamese cultture, 1920-1945, dissertation, Cornell University
[2] Cao Huy Thuần, Nguyễn Tùng, Trần Hải Hạc, vĩnh Sính, (2005) Từ Đông
sang Tây,NXB Đà Nẵng, tr90
[3]Cao Huy Thuần...Từ Đông sang tây.. tr88
Giới thiệu một bài báo đăng trên báo Đàn Bà mới năm I935.
Bạc bẽo thay nghề làm báo ở xứ này
Tờ báo là một bó đuốc để tìm Chân Lý.
Người làm báo là kẻ cầm bó đuốc ấy, là kẻ thờ Chân lý một cách chánh đại quang
minh, không sợ kẻ lớn quyền nhiều thế, bao giờ cũng muốn làm cho rõ trắng đen,
dầu có phải gặp nguy hiểm cũng cam. Tóm lại người làm báo là kẻ có thể nói như
Zola: " Tôi tố cáo đây nè!"
Tố cáo những kẻ lạm quyền.
Tố cáo những tội nhân của xã hội mà pháp luật chưa tìm ra được.
Tố cáo những vụ áp chế mà kẻ bị húng hiếp do ngắn cổ mà không kêu được tới các
nhà cầm quyền. Nhà làm báo không để cho một việc gì còn được lẩn khuất trong
só ( xó) tối.
Vì vậy mà ở các nước nghề làm báo là một cái quyền: quyền thứ tư trong nước. Tờ
báo ở Âu Mỹ là một sức mạnh. Chính nhờ cái sức mạnh của báo giới đã bênh vực
cho mình mà quan ba Dreyfus ở Pháp vốn bị xử oan, bị khép lầm vào tội phản
quốc, sau được luật pháp xét xử lại, tuyên bố ông vô tội. Ta còn thấy cái sức mạnh
của báo giới làm cho nội các của nước Pháp phải đổ nhào sau vụ án Dreyfus và
chính trị nước Pháp xoay về phía tả. Ở bên Mỹ, Hearst, ông vua làm báo bị Nội
các Tardieu trục xuất ra khỏi nước Pháp một cách vô lý, sau về nước cổ động dân
Mỹ công kích nước Pháp dữ quá đến đỗi nghị định trục xuất ông Hearst phải hủy
đi.
Nhưng nếu ở các nước nghề làm báo là một sức mạnh mà kẻ cầm quyền phải vì nể
thì ở xứ Đông Dương này, ngựơc lại, nghề làm báo mới bạc bẽo làm sao!
Không những báo giới quốc âm đã bị khép vào một chế độ riêng về mặt chánh trị,
đến báo giới viết bằng chữ Pháp cũng phải giảm thế lực trước những kẻ lớn quyền
mạnh thế.
Vụ án Populaire đã tỏ rõ sự ấy. Đây chúng tôi không tường thuật vụ ấy vì luật
pháp không cho thuật những vụ án phỉ báng. Chúng tôi chỉ tỏ ít cảm tưởng đối với
bạn đồng nghiệp Bonvicini chẳng may đã đụng chạm tới ông vua tiền tỉnh Bạc
Liêu là ông Hội đồng Trần Trinh Trạch
Sau khi Tòa án đại hình tuyên bố không có quyền xử vụ án ông Trần kiện báo
Populaire, dầu ông này đã làm Hội đồng quản hạt, đã có chân trong Hội đồng tư
vấn, có Bắc Đẩu Bội tinh, sau khi tòa đưa trả vụ này cho Tòa Trừng trị, thì chúng
tôi chắc thế nào ông Bonivicini cũng bị án rồi.
Vì ở Tòa Trừng trị, điều luật thứ 35 trong Đạo luật năm 1881 không cho viện bằng
cớ ra, sự tuyên phạt đã thành một lẽ dĩ nhiên đi rồi. Tòa chỉ cần xét xem bị cáo
nhơn có phải vì công tâm mà viết bài báo phạm tới danh giá bên nguyên không?
Thì các người làm chứng đều công nhận rằng ông Boncini vì công tâm mà chỉ
trích ông Trần Trinh Trạch, rằng ông chủ bút báo Populaire là một người chân
chánh.
Nhưng ông Biện lý Serrau khép tội trong vụ án này nói rằng: Dầu có vì công tâm
mà chỉ trích bên nguyên ông Bonvicini cũng không được trắng án nào; sự công
tâm chỉ là trường hợp được giảm đẳng ( circonstaince atte'nuante) mà thôi.
Thế nghĩa là ở tòa trừng trị, luật pháp đã sẵn sàng để phạt kẻ đã viết báo phạm tới
danh giá người ta, dầu là một kẻ viết báo chân chánh, muốn tố cáo việc ám muội,
hay một kẻ viết báo chuyên môn làm nghề "thầy hót" cũng để ngang hàng với nhau
cả. Quan Biện lý và Quan chánh á trong vụ Populaire cũng chỉ làm đúng pháp luật
mà thôi, chúng tôi biết vậy lắm. Nhưng đạo luật về tôi phỉ báng như vậy đối với
nghề viết báo mới khắt khe làm sao!
Rồi đây, có một ngày kia, có một thằng điếm móc túi - nếu có muốn, cũng có thể
đem một nhà báo ra trước pháp xin được bồi thường danh giá vì nhà báo đó đã
đăng tin...nó ăn cắp.
Nghề làm báo như vậy thì còn gì đáng gọi là một quyền nữa?
Tờ báo là mảnh gương phản chiếu dư luận của quần chúng.
Quần chúng bị điều gì áp bức ; sự công phẫn bị đè nén trong lòng không dám lộ ra
ngoài, nhưng có một ngày kia nó sẽ bung ra. Khi đó nó sẽ như một thùng thuốc
đạn đã bị đè nén lâu rồi, khi nổ ra gây sự hại không phải ít. Rồi nó sẽ gây ra lắm
việc đáng tiếc như việc ngày 6 Fe'vrier năm ngoái ở Pháp vậy.
Nay nếu pháp luật hay nhà cầm quyền không cho tờ báo chiếu ra ngoài ánh sáng
sự công phẫn ấy thì có khác nào một việc thất sách, một việc thất sách rồi đây khó
mà chữa sửa được.